intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Báo chí học: Truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

14
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận án "Truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay" là trên cơ sở hệ thống, làm rõ lý luận và thực tiễn về truyền thông chính sách, luận án sẽ phân tích, đánh giá thực trạng truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay. Từ đó, luận án sẽ đề ra các giải pháp và kiến nghị cải thiện và đổi mới nội dung và cách thức truyền thông nhằm nâng cao chất lượng truyền thông chính sách kinh tế qua báo mạng điện tử của Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Báo chí học: Truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN ĐINH QUỲNH ANH TRUYỀN THÔNG CHÍNH SÁCH KINH TẾ TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VIỆT NAM HIỆN NAY TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC Ngành: Báo chí học Mã số: 9 32 01 01 Hà Nội - Năm 2023
  2. Công trình được hoàn thành tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền Công trình được hoàn thành tại: Học viện Báo chí và Tuyên truyền Người hướng dẫn khoa học: 1. GS, TS. Tạ Ngọc Tấn 2. PGS, TS. Đinh Thị Thu Hằng Phản biện 1: PGS, TS. Nguyễn Thành Lợi Phản biện 2: TS. Mạch Lê Thu Phản biện 3: TS. Vũ Thanh Vân Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền vào hồi …. giờ …. ngày …. tháng ….. năm 2023 Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia, Hà Nội - Trung tâm Thông tin - Thư viện, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
  3. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài nghiên cứu Truyền thông chính sách là quá trình chuyển tải thông điệp, cơ chế, chính sách của Chính phủ, cơ quan hành chính các cấp đến người dân để người dân hiểu rõ, tham gia, hợp tác, đồng thuận trong quá trình thực thi chính sách vì lợi ích của Nhà nước và của chính người dân. Đây là nhiệm vụ quan trọng trong công tác truyền thông của các cơ quan quản lý Nhà nước thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng và là một bước không thể thiếu trong tổ chức thực hiện chính sách. Nhận thức được tầm quan trọng của truyền thông chính sách, nói chung và chính sách kinh tế, nói riêng, tác giả đã lựa chọn đề tài “Truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ với các lý do sau đây: Thứ nhất, trong các chính sách công, chính sách kinh tế đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển và thịnh vượng của Đất nước. Thứ hai, sự phát triển như vũ bão của Internet trong hơn hai thập kỷ qua, và đặc biệt là chương trình chuyển đổi số quốc gia hiện nay tại Việt Nam nhằm vừa phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu đã tác động mạnh mẽ đến cách thức truyền thông chính sách kinh tế của các chủ thể truyền thông và các chủ thể tiếp nhận thông tin. Thứ ba, thế mạnh của báo mạng điện tử Việt Nam trong việc cung cấp thông tin đa dạng, sáng tạo và nhận phản hồi của công chúng nhanh chóng, kịp thời vượt trội hơn tất cả các loại hình truyền thông khác. Thứ tư, trên thực tế, việc truyền thông chính sách nói chung và chính sách kinh tế nói riêng qua phương tiện báo mạng điện tử đã được các cơ quan quản lý Nhà nước chú ý. Tuy nhiên, kênh truyền thông này chưa phát huy hết hiệu quả vốn có. Tầm quan trọng của việc truyền thông chính sách ở Việt Nam đã được khẳng định trong thời gian qua tại các cuộc hội thảo, các buổi thảo luận và trao đổi về vấn đề này của các chuyên gia, các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, các nghiên cứu được công bố liên quan đến truyền thông chính sách trên phương tiện truyền thông đại chúng, nói chúng và trên báo mạng điện tử Việt Nam, nói riêng chủ yếu mới dừng lại ở dạng thức các bài báo khoa học và tham luận. Còn ít những nghiên cứu về truyền thông chính sách, đặc biệt là các chính sách kinh tế đối trên báo mạng điện tử một cách toàn diện. Chính vì vậy, tác giả mong muốn nghiên cứu đề tài “Truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay”. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1 Mục đích nghiên cứu
  4. 2 Mục đích nghiên cứu của luận án là trên cơ sở hệ thống, làm rõ lý luận và thực tiễn về truyền thông chính sách, luận án sẽ phân tích, đánh giá thực trạng truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay. Từ đó, luận án sẽ đề ra các giải pháp và kiến nghị cải thiện và đổi mới nội dung và cách thức truyền thông nhằm nâng cao chất lượng truyền thông chính sách kinh tế qua báo mạng điện tử của Việt Nam. 2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất, hệ thống hóa các khái niệm, lý luận cơ bản về truyền thông chính sách và truyền thông chính sách kinh tế qua báo mạng điện tử; Vai trò, đặc điểm, thực tiễn của truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay, Tiêu chí đánh giá thông tin truyền thông chính sách, và chỉ ra được những yếu tố tác động đến truyền thông chính sách kinh tế qua báo mạng điện tử Việt Nam. Thứ hai, nghiên cứu, khảo sát thực trạng truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay, từ đó rút ra những đánh giá khái quát nhất về những thành công, những hạn chế và nguyên nhân đối với việc truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay. Thứ ba, phân tích một số vấn đề đặt ra trong bối cảnh hiện nay và đề xuất một số các giải pháp, xây dựng chiến lược truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: luận án này nghiên cứu vè truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay. Phạm vi nghiên cứu của đề tài này là bốn báo điện tử: Nhân dân điện tử, Báo điện tử chính phủ, Tuổi trẻ điện tử, Vnexpress.net, khảo sát trong giai đoạn từ 01/2021 đến hết tháng 01/2023. Về quá trình truyền thông chính sách, luận án chỉ tập trung vào truyền thông chính sách ở giai đoạn chính sách đã được công bố. Trọng tâm nghiên cứu là thực trạng nội dung và hình thức thông tin truyền thông chính sách kinh tế được đưa trên các mạng điện tử tại Việt Nam, những thành công và hạn chế của báo mạng điện tử trong việc truyền thông chính sách kinh tế và nguyên nhân. 4. Giả thuyết nghiên cứu Giả thuyết thứ nhất: Các cơ quan báo chí và nhà báo đã nhận thức được tầm quan trọng của việc truyền thông chính sách kinh tế trong nhiệm vụ tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân, nhằm phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Giả thuyết thứ hai: Việc truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử ở Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định. Bên cạnh những thành công vẫn còn những hạn chế tồn tại. Chính vì vậy, cần phải có những khảo sát, phân tích thực trạng nhằm đưa ra những hạn chế, cơ hội và thách thức để báo điện tử truyền thông được tốt hơn các chính sách kinh tế, phục vụ cho công cuộc phát triển và xây dựng đất nước.
  5. 3 Giả thuyết thứ ba: truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử ở Việt Nam trong bối cảnh công nghệ thông tin và Internet ngày càng phát triển mạnh mẽ kéo theo sự thay đổi cách tiếp nhận thông tin của công chúng, bên cạnh đó là yêu cầu mới trong nhu cầu và thị hiếu của công chúng nên cần những giải pháp có tính khả thi để nâng cao chất lượng truyền thông chính sách trên báo mạng điện tử Việt Nam. 5. Khung phân tích 6. Phương pháp nghiên cứu 6.1. Cơ sở lý luận Việc nghiên cứu của đề tài này được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, các chủ trương, chính sách, văn bản pháp luật của Nhà nước trong việc thúc đẩy hoạt động thông tin kinh tế trên báo chí. Ngoài ra, nghiên cứu dựa vào các hệ thống lý thuyết, các mô hình về truyền thông, truyền thông đại chúng làm cơ sở lý luận cho đề tài.
  6. 4 6.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nhằm làm rõ tổng quan tình hình nghiên cứu, kế thừa những kết quả đi trước và nhận diện những khoảng trống để tiếp tục nghiên cứu. Thông qua việc khảo cứu các công trình khoa học, sách, tài liệu chuyên khoa liên quan đến đề tài cũng tạo điều kiện làm cơ sở cho việc xây dựng hệ thống lý thuyết về truyền thông chính sách, truyền thông chính sách kinh tế, đánh giá các kết quả khảo sát, tìm ra những giải pháp khoa học cho vấn đề cần nghiên cứu. Phương pháp này góp phần làm cơ sở lý luận giúp trả lời giả thuyết nghiên cứu của luận án. - Phương pháp phân tích nội dung: Tác giả sử dụng phương pháp phân tích nội dung trên bốn báo mạng điện tử của Việt Nam gồm: Báo Nhân Dân điện tử (https://nhandan.vn/), Báo Chính phủ điện tử (https://baochinhphu.vn/), Báo điện tử VnExpress (https://vnexpress.net/) và Báo Tuổi trẻ điện tử (https://tuoitre.vn/). Tác giả khảo sát, phân tích 628 bài báo trong thời gian từ tháng 1/2021 - 1/2023 nhằm tìm hiểu về nội dung, phương thức thể hiện và trình bày truyền thông chính sách kinh tế trên các báo này, làm sáng tỏ cho giả thuyết nghiên cứu về thực trạng truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử Việt Nam. Các báo mạng điện tử trong diện khảo sát được lựa chọn phân tích nội dung đều là các báo mang tính đại diện, là cơ quan ngôn luận của Đảng, Chính phủ và là những báo mạng điện tử có lượng độc giả truy cập cao. Do vậy, các thông tin chính sách kinh tế trên các báo mạng điện tử này có vai trò là tiếng nói chính thức và đại chúng. - Phương pháp phỏng vấn sâu: Tác giả phỏng vấn sâu 24 người, trong đó phỏng vấn 20 biên tập viên, phóng viên, cán bộ quản lý phụ trách các hoạt động liên quan trực tiếp và gián tiếp đến việc truyền thông chính sách kinh tế tại bốn báo điện tử được khảo sát và các báo mạng điện tử khác để lý giải cách thức triển khai nhiệm vụ truyền thông chính sách kinh tế tại các báo điện tử dựa trên nguyên tắc hoặc kinh nghiệm gì. Bên cạnh đó, tác giả tiến hành phỏng vấn 4 chuyên gia kinh tế tại các tổ chức khác nhau ở Việt Nam. Nội dung phỏng vấn xoay quanh những đánh giá về thực trạng truyền thông chính sách kinh tế ở Việt Nam qua báo mạng điện tử và đề xuất giải pháp cụ thể. - Phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi (an-két): Mục đích nhằm thu nhận những thông tin khái quát về cách công chúng, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, chuyên gia… tiếp nhận, đánh giá, phản hồi với nội dung chính sách kinh tế qua báo điện tử. Luận án lựa chọn đối tượng công chúng để khảo sát là người dân, mẫu được lấy theo cách phân tầng. Tầng 1: Nhóm công chúng chính của các chính sách kinh tế: Doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước, toàn dân. Tầng 2: Địa lý, mẫu được phân bổ nơi có đông doanh nghiệp, dân số cao nhất, đại diện Bắc - Trung - Nam. Tác giả thống kê ý kiến của 530 công chúng thông qua bảng hỏi, từ đó, tác giả thu
  7. 5 thập được các dữ liệu: Khung giờ công chúng thường đọc báo mạng điện tử; Công chúng sử dụng phương tiện gì để đọc báo mạng điện tử, Mức độ quan tâm đọc các thông tin chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử; Mức độ hài lòng với nội dung các tin/bài truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử; cũng như hình thức và nội dung thông tin chính sách kinh tế trên các báo mạng điện tử.. - Phương pháp thống kê: Dùng để thống kê tài liệu, con số, sự kiện, dữ liệu... có được trong quá trình khảo sát. Sau đó phân tích, so sánh, tổng hợp để làm sáng tỏ thực trạng truyền thông chính sách kinh tế báo điện tử. Chỉ rõ các đặc điểm, ưu điểm và hạn chế của hoạt động này, từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị có tính khả thi cao nhằm góp phần nâng cao chất lượng truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử Việt Nam. 7. Đóng góp mới của luận án Luận án là công trình đầu tiên hệ thống một cách tổng quát, chuyên sâu và cập nhật về truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử ở Việt Nam. Luận án đóng góp vào việc nâng cao chất lượng truyền thông kinh tế trên báo mạng điện tử Việt Nam trên cơ sở tìm hiểu và phân tích các phản hồi của công chúng với truyền thông chính sách kinh tế nhằm giúp cơ quan báo chí nói chung, báo điện tử nói riêng đưa ra các phương pháp và kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử. Những đề xuất, kiến nghị mà luận án nêu ra sẽ là những đóng góp mới vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn và có thể góp phần nâng cao chất lượng truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, luận án sẽ đưa ra một số giải pháp mới sử dụng các hình thức tiếp cận phù hợp với nhu cầu của công chúng, tận dụng các tính năng ưu việt của báo mạng điện tử, để nâng cao chất lượng truyền thông chính sách kinh tế trên các báo mạng điện tử Việt Nam. 8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn Luận án là sự bổ sung và phong phú thêm về lý thuyết truyền thông chính sách kinh tế; là nguồn tư liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan hoạch định chính sách kinh tế, các báo điện tử Việt Nam. Luận án còn đưa ra những giải pháp cho việc xây dựng chiến lược, nâng cao chất lượng nội dung và phương thức truyền thông chính sách kinh tế cho các báo mạng điện tử Việt Nam. 9. Kết cấu của luận án Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Các công trình nghiên cứu của tác giả, nội dung của luận án chủ yếu ở Tổng quan tình hình nghiên cứu và 3 chương. Phần Phụ lục ở cuối luận án gồm những tài liệu có liên quan trực tiếp đến quá trình thực hiện công trình nghiên cứu này.
  8. 6 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu về truyền thông chính sách kinh tế 1.1.1. Nghiên cứu trực tiếp về truyền thông chính sách Nghiên cứu về truyền thông chính sách đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách công. Hoạt động truyền thông chính sách được định nghĩa gồm cả truyền thông nội bộ và truyền thông bên ngoài (Maddison, 2013). Về thực tiễn, (Catherine F. Smith, 2010) hướng dẫn cách sử dụng các hình thức truyền thông chính sách công đã được đưa vào thực tế tại một số nước phương Tây. Cụ thể các thách thức mà các chính phủ phải đối mặt khi truyền thông về các ý định chính sách trong khu vực công so với khu vực tư nhân được đề cập trong nghiên cứu của Gelders, Bouckaert và van Ruler năm 2007. Cuốn sách “Chính sách công và phương tiện truyền thông đại chúng: Sự tác động qua lại giữa truyền thông đại chúng và việc ra quyết định chính trị”(2010), tập hợp nghiên cứu của 20 học giả, trình bày một quan điểm liên ngành, áp dụng các cách tiếp cận khái niệm và phương pháp luận từ cả các nghiên cứu khoa học chính trị và truyền thông. Truyền thông chính sách cũng được tiếp cận từ góc độ tiếp nhận và xử lý thông tin của người dân (Ahn, 2012). Trong khi đó, (Strömberg và Snyder, 2008) kết luận sự tiếp cận truyền thông có ảnh hưởng rõ rệt lên chính sách trong khi đó tác động của lượng phương tiện truyền thông đưa tin và khác biệt về nội dung có phần không đồng nhất và phụ thuộc vào nhiều điều kiện khác. Trong nghiên cứu thực nghiệm, từ năm 2003, ảnh hưởng từ sự phát triển của công nghệ thông tin tới truyền thông chính sách được đề cập bởi (Macintosh và Coleman, 2003) thông qua sử dụng ví dụ thực tiễn từ các nước OECD. (Reynolds, Pilling và Marteau, 2018) sử dụng phân tích thực nghiệm nhằm xem xét việc truyền đạt bằng chứng về hiệu quả của chính sách có thể làm tăng sự ủng hộ của công chúng với chính sách. Năm 2020, các nhà nghiên cứu tại Đại học Chicago thông qua thực hiện một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên quy mô lớn nhận thấy rằng truyền thông chính sách tác động tới người dân nhiều hơn khi nó tập trung vào mục tiêu chính sách thay vì các công cụ nhằm đạt các mục tiêu đó. 1.1.2. Truyền thông chính sách trong các nghiên cứu về truyền thông trong tổ chức Cuốn “Bách khoa toàn thư về truyền thông của tổ chức, tập 4” đi sâu thảo luận về truyền thông chính sách từ góc nhìn quản trị. Theo các tác giả, truyền thông chính sách gồm 4 góc độ chính tương ứng khi phát triển chính sách mới, khi phổ biến chính sách, khi triển khai chính sách và khi đánh giá, sửa đổi chính sách. 1.1.3. Truyền thông chính sách trong những nghiên cứu về chính trị và truyền thông Giả thiết về điều kiện lý tưởng để người dân tiếp nhận kiến thức về chính sách và
  9. 7 qua đó đề ra các nguyên tắc khi đưa tin được (Norris, 2000) phân tích trên cả lý thuyết và thực tiễn. (McNair, 2017) nhấn mạnh vai trò của báo chí trong truyền tải và giải thích khách quan về chính sách và các diễn biến liên quan, tạo điều kiện cho nhận thức chủ quan của công chúng về các vấn đề này. Trên nền tảng số, lý thuyết về truyền thông chính trị, trong đó có truyền thông chính sách được Coleman và Blumler (2009) nghiên cứu. Với sự chú trọng về truyền thông đương đại, cách các chương trình nghị sự chính trị được xây dựng trong thời đại của truyền thông trực tuyến cũng được tập trung thảo luận (Perloff, 2021). Ngoài ra, một số nghiên cứu cũng bàn đến truyền thông chính sách trong những trường hợp cụ thể như (Cap, Okulska, và Benjamins , 2013) liên quan đến vấn đề biến đổi khí hậu tại châu Âu; (Iyengar, 2019) về hiệu ứng truyền thông trong chính trị Mỹ; (Richards, Ken và Noble, 2013) xem xét các trở ngại khi người dân tham gia vào quá trình xây dựng một chính sách về môi trường và quản lý tài nguyên tại Canada. Trung Quốc được nhiều học giả nhận định là một trường hợp đặc biệt trong truyền thông chính sách và được nghiên cứu bởi (Zhang, 2011), (Yang và Zheng, 2020). 1.1.4. Nghiên cứu về truyền thông chính sách kinh tế Truyền thông chính sách, mà cụ thể là chính sách kinh tế được đề cập khá chi tiết trong các ấn phẩm của các định chế kinh tế quốc tế như World Bank (2002), Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF (2019 và 2022). Do tính chất đặc thù, các nghiên cứu tập trung phân tích tác động của truyền thông chính sách lên các biến số kinh tế, cùng với đó đưa ra hướng dẫn nhằm giúp các cơ quan chức năng các nước. Truyền thông được tiếp cận như một công cụ chính sách (Howlett, 2009) và do đó, các biện pháp truyền thông có thể được xây dựng theo từng giai đoạn xây dựng một chính sách kinh tế. Về mặt thực nghiệm, (Kadia, 2022) đã kết nối hai khái niệm Truyền thông tiếp thị tích hợp (IMC) và Chính sách công. Các giả thuyết về vấn đề thiên vị truyền thông khi đưa tin về chính sách kinh tế tại Mỹ được (DiMaggio, 2017) đi sâu phân tích. Trong khi đó, khái niệm “chính sách công không được ưa chuộng” được nhắc đến trong công trình nghiên cứu của (Kang, Lee, Shin và Park, 2013) từ góc độ của doanh nghiệp tại Hàn Quốc. Một khái niệm khác là “nhà bình luận kinh tế” được phân tích trong nghiên cứu của (Gittins, 1995). (Basu, Schifferes và Knowles, 2018) nhìn lại việc truyền thông về chính sách thắt lưng buộc bụng tại các nước châu Âu từ năm 2010. Các nghiên cứu thực nghiệm (Blinder và Krueger, 2004), (Born, Michael và Fratzscher, 2011) cũng tập trung đo lường hiệu quả của truyền thông chính sách đối với các mục tiêu lạm phát hay lãi suất. 1.2. Tình hình nghiên cứu về truyền thông chính sách kinh tế trên báo điện tử tại Việt Nam 1.2.1. Những nghiên cứu trực tiếp về truyền thông chính sách Tại Việt Nam, lý luận và thực tiễn truyền thông chính sách từng được các nhà nghiên cứu phân tích, đánh giá qua các nghiên cứu ngắn hạn hoặc các tham luận trình
  10. 8 bày tại các Hội thảo khoa học: (Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Báo Đại biểu Nhân dân và KOICA, 2016), (Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ và KOICA, 2017), Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Báo Đại biểu Nhân dân và KOICA, 2018). Dựa trên kết quả của 3 hội thảo trên, lần đầu tiên lý luận về truyền thông chính sách của Việt Nam được xây dựng một cách hệ thống, tiếp cận một cách đa ngành, kế thừa nhiều tri thức của lĩnh vực truyền thông, báo chí và chính trị (TS.Lương Ngọc Vĩnh, 2021). (TS. Lương Khắc Hiếu, 2007) tiếp cận truyền thông chính sách theo mục tiêu và quá trình, bao gồm 2 hoạt động là vận động và truyền thông thay đổi hành vi. Trong khi đó, (TS. Bùi Thu Hương, 2018) sử dụng khái niệm ghép “tuyên truyền vận động” để tạo ra sự thay đổi chính sách. (PGS. TS Đỗ Phú Hải, 2018) nhận định mỗi khâu của chu trình chính sách công đòi hỏi các chủ thể khác nhau tham gia, sự tham gia của chủ thể chính sách bị ảnh hưởng bởi truyền thông chính sách. (PGS, TS Nguyễn Văn Dững, 2018) xem xét quá trình chuyển đổi mô thức truyền thông chính sách tại Việt Nam từ tuyệt đối hoá khái niệm tuyên truyền sang khái niệm truyền thông, mềm dẻo và uyển chuyển hơn, tạo được sự quan tâm và tham gia của cộng đồng nhiều hơn; thông qua đó, mục đích truyền thông dễ nhận diện và hiện thực hóa. (Trần Ngọc Hà, 2023) cho rằng báo chí chính là kênh quan trọng hàng đầu trong truyền thông chính sách chính. (PGS.TS. Trần Thị Thanh Thủy, 2021) đã nhận định truyền thông chính sách là một cách tiếp cận mới đối với không chỉ quá trình vận động, tuyên truyền của Đảng và Nhà nước nói chung mà còn là đối với chính quá trình chính sách. Theo (PGS.TS. Văn Tất Thu, 2019) phổ biến, tuyên truyền chính sách vừa là nội dung (nhiệm vụ), vừa là phương pháp tổ chức, vận động thực hiện chính sách. Vai trò của truyền thông chính sách cũng được phân tích dựa trên 6 góc độ riêng biệt (PGS, TS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa, 2022). (Nguyễn Thuý Quỳnh, 2022) đã xem xét cụ thể về năng lực tiếp nhận thông tin chính sách của đồng bào dân tộc thiểu số. Môi trường truyền thông mới cũng ghi nhận sự bùng nổ của truyền thông xã hội, làm suy giảm sự chú ý và tín nhiệm của công chúng đối với cơ quan truyền thông chính sách (TS Vũ Thanh Vân, 2022). Trong nghiên cứu có tính cập nhật này, tác giả đặt ra các yêu cầu cho người làm truyền thông trong bối cảnh mới. Còn (TS Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, 2023) đã chỉ ra năm nguyên nhân chính khiến mức độ quan tâm đến công tác truyền thông chính sách chưa được đặt đúng vị trí, chức năng và nhiệm vụ. 1.2.2. Những nghiên cứu về truyền thông chính trị đề cập tới truyền thông chính sách (TS. Lưu Văn An, 2008) bàn về những giá trị phổ biến, khách quan và cả những hạn chế của truyền thông đại chúng trong hệ thống tổ chức chính trị ở các nước tư bản phát triển. (Nguyễn Thị Minh Hiền, 2019) nhận định hoạt động truyền thông của cơ quan nhà nước ngày càng có vai trò hết sức quan trọng trong việc đưa chính sách của Đảng và Nhà nước đến với công chúng. Trong kỷ nguyên số, (TS. Nguyễn Tri Thức, 2021) đề cập đến các thách thức lớn
  11. 9 của báo chí trong hệ sinh thái truyền thông đa phương tiện dựa trên nền tảng số. Bên cạnh đó (TS. Phạm Bình Dương, 2021) đề cập tới vai trò của dữ liệu lớn trong hoạt động thông tin tuyên truyền. Tại Việt Nam, truyền thông và truyền thông đại chúng được nghiên cứu một cách hệ thống và chi tiết trong cuốn sách “Truyền thông đại chúng” của (GS, TS Tạ Ngọc Tấn, 2001). Những vấn đề tác giả đặt ra về truyền thông đại chúng trong thế giới hiện đại, trong đó có sự phát triển của công nghệ số, vẫn giữ nguyên tính thời sự, là cơ sở lý luận quan trọng cho luận án tiến sĩ này. Thông qua phân tích thực tiễn, (PGS.TS. Nguyễn Xuân Phong và Trần Quyết Thắng, 2016) nhấn mạnh yêu cầu cần phát huy vai trò của báo chí như một công cụ phản biện xã hội hữu hiệu trong toàn bộ các bước của chu trình chính sách công. (TS. Nhạc Phan Linh, 2016) đề cập đến các vai trò như xây dựng, tuyên truyền phổ biến và đấu tranh, bảo vệ đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước... của báo chí trong quản lý xã hội. Tuyên truyền về chính sách kinh tế được đề cập như một phần của công tác tuyên truyền kinh tế trong (Nguyễn Thị Thu Hà, 2014). Truyền thông chính sách kinh tế mà cụ thể là chính sách tiền tệ được (Lê Thị Thúy Sen, Vũ Mai Hương và Mai Hồng Nam, 2018) tập trung phân tích, trong đó nhấn mạnh quá trình đổi mới về chủ trương, chính sách và tổ chức triển khai hoạt động truyền thông của Ngân hàng Nhà nước. (Hoàng Thị Phương Nga, 2021) đã nêu ra thực trạng về quản lý thông điệp chính sách trên Thời báo Ngân hàng và Tạp chí Ngân hàng. Tiểu kết Trên thế giới, truyền thông chính sách đã được đề cập tới trong khá nhiều công trình nghiên cứu về truyền thông, truyền thông chính trị và truyền thông tổ chức. Các công trình có phạm vi, phương pháp nghiên cứu đa dạng, giúp củng cố cơ sở lý luận về truyền thông chính sách, giúp nhận rõ những giá trị phổ biến và khách quan. Tuy nhiên, do những khác biệt về trình độ phát triển và thể chế chính trị nên những công trình nghiên cứu này không hoàn toàn phù hợp với thực tiễn và khó có thể áp dụng đầy đủ ở Việt Nam. Trong nước, nhiều vấn đề cơ bản đã được đưa ra thảo luận và phân tích như vai trò, chức năng, nguyên tắc, các hình thức cơ bản... của truyền thông chính sách. dưới dạng bài báo, tham luận… Đặc biệt ở Việt Nam hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể và hệ thống về truyền thông chính sách kinh tế, mà cụ thể là trên báo mạng. Phần lớn các công trình nghiên cứu mới chỉ trung vào những khía cạnh đơn lẻ, chưa có tính chất hệ thống. Thực tiễn tại Việt Nam chưa được khảo sát, đánh giá và đúc rút kinh nghiệm.
  12. 10 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TRUYỀN THÔNG CHÍNH SÁCH KINH TẾ TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ VIỆT NAM 1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1. Truyền thông chính sách kinh tế Truyền thông Truyền thông là một quá trình truyền tải, tiếp nhận và trao đổi ý tưởng và thông tin thông qua cảm xúc, hành vi nhằm thiết lập các mối quan hệ giữa con người với con người với mục đích đạt được sự hiểu biết, nâng cao nhận thức, hình thành thái độ và thay đổi hành vi của con người. Chính sách kinh tế Chính sách kinh tế của một quốc gia là chính sách công, là sản phẩm của đường lối chính trị của Nhà nước thông qua quá trình tổ chức, xây dựng và thực thi với sự tham gia của các cơ quan liên quan nhằm giải quyết một vấn đề đặt ra trong sự phát triển kinh tế của đất nước. Truyền thông chính sách kinh tế Truyền thông chính sách kinh tế có thể coi là quá trình trong đó có sự tham gia của hai chủ thể truyền thông, bao gồm các nhà tham gia vào quá trình công bố chính sách cùng với các nhà báo và cơ quan báo chí trao đổi, truyền đạt, thông tin, tuyên truyền về những chính sách kinh tế, thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng nhằm thu hút người dân, đối tượng truyền thông nhận biết và hiểu về chính sách, góp phần tạo sự đồng thuận xã hội và phát triển nền kinh tế của Đất nước. 1.1.2 Báo mạng điện tử Việt Nam Báo mạng điện tử là một loại hình báo chí được xây dựng dưới hình thức của một trang web và phát hành trên mạng Internet, có ưu thế trong chuyển tải thông tin một cách nhanh chóng, tức thời đa phương tiện và tính tương tác cao Báo mạng điện tử Việt Nam đã trở thành kênh truyền thông đóng vai trò quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Tuy là loại hình báo chí ra đời sau nhưng số lượng người đọc báo điện tử chiếm đa số so với các loại hình báo chí được công chúng lựa chọn để đọc tin tức. Theo nghiên cứu của Q&Me Vietnam Market Research, có tới 73% người dân Việt Nam đọc tin tức trên báo mạng điện tử. Những đặc trưng cơ bản của báo mạng điện tử Báo mạng điện tử có một số đặc trưng cơ bản như: Khả năng đa phương tiện (Multimedia), Tính tức thời và phi định kỳ, Tính tương tác, Khả năng lưu trữ và tìm kiếm thông tin, 1.2. Các lý thuyết làm cơ sở cho vấn đề nghiên cứu
  13. 11 1.2.1 Một số lý thuyết được sử dụng trong truyền thông chính sách Lý thuyết thiết lập chương trình nghị sự của McCombs và Shaw, Lý thuyết phổ biến kiến thức hay truyền bá cái mới của Rogers, Lý thuyết thuyết phục của Petty và Cacippo, Lý thuyết sử dụng và hài lòng của Mc Quail, Blumber và Brown, Lý thuyết đóng khung. 1.2.2. Mô hình của truyền thông chính sách Mô hình truyền thông của Shannon và Weaver, Mô hình của Lasswell, Mô hình dòng chảy hai bước của Lazarsfeld, Berelson và Gaudet. 1.3 Vai trò, đặc điểm của truyền thông chính sách kinh tế của báo mạng điện tử Việt Nam 1.3.1 Vai trò của truyền thông chính sách kinh tế -Thứ nhất, báo chí có vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin, tin tức nói chung và các thông tin chính sách kinh tế nói riêng tới công chúng, là cầu nối giữa nhà nước và người dân. -Thứ hai, truyền thông đóng góp vai trò quan trọng tạo sự đồng thuận và điều tiết dư luận xã hội trong chu trình xây dựng chính sách. -Thứ ba, truyền thông, nói chúng và truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử, nói riêng có ưu thế nổi trội hơn so với các loại hình truyền thông đại chúng khác như báo in, phát thanh, và truyền hình. 1.3.2 Đặc điểm của truyền thông chinh sách kinh tế Một là, chính sách kinh tế giống các chính sách khác đó là nó được hình thành để giải quyết một vấn đề của xã hội, đất nước. Nhưng chính sách kinh tế khác các chính sách khác ở điểm, đó là mục tiêu của chính sách kinh tế tập trung vào hoạt động kinh tế của mỗi quốc gia. Hai là, chính sách kinh tế được chính phủ hình thành dựa vào các chỉ số kinh tế, dữ liệu thống kê và nghiên cứu để cung cấp thông tin cho các quyết định chính sách và đánh giá tác động tiềm năng của chúng. Do vậy cách thức truyền thông chính sách kinh tế cũng khác so với chính sách khác bởi các chính sách kinh tế sẽ có nhiều số liệu, độ phức tạp, phạm vi tác động rộng, thời gian tác động kéo dài.. Ba là, chính sách kinh tế thường là các văn bản khô khan, trừu tượng, khó hiểu đổi với phần lớn người dân. Do đó, việc truyền thông chính sách kinh tế đòi hỏi các nhà báo phải tìm hiểu, nghiên cứu kỹ các văn bản chính sách trước khi họ có thể viết tin bài về nó. Bốn là, trong truyền thông chính sách kinh tế, chủ thể tiếp nhận truyền thông chính là đối tượng mà cơ quan quản lý hướng tới, và họ cũng lại là người thụ hưởng và chịu chi phối của chính sách. Tuy nhiên, công chúng tiếp nhận chinh sách lại có thể rất
  14. 12 đa dạng do trình độ dân trí chênh lệch, sống ở các vùng miền khác nhau nên nhận thức cũng khác nhau, mức độ tiếp cận thông tin cũng khác nhau. Cho nên đây cũng là một thách thức lớn đối với việc truyền thông chính sách và chính sách kinh tế đòi hỏi các nhà truyền thông sử dụng các phương tiện phù hợp với các đối tượng. 1.4. Các yếu tố tác động và tiêu chí đánh giá truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử Việt Nam 1.4.1 Các yếu tố tác động truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử Việt Nam Một số yếu tố tác động tới truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay như: Sự phối hợp giữa cơ quan ban hành chính sách và cơ quan báo chí trong truyền thông chính sách, Việc tổ chức truyền thông chính sách của các cơ quan báo chí, Trình độ kỹ năng của các nhà báo khi viết về truyền thông chính sách kinh tế, Năng lực tiếp nhận thông tin của công chúng, Sự phát triển của công nghệ thông tin, Vốn xã hội và Nền tảng văn hoá. 1.4.2 Tiêu chí đánh giá chất lượng truyền thông chính sách trên báo mạng điện tử Các tiêu chí để đánh giá thông tin truyền thông chính sách trên báo mạng điện tử, đó là: Sử dụng nguồn tin cậy: Trình bày thông tin một cách cân bằng và khách quan và đa chiều, Thông tin nhanh, kịp thời, thường xuyên về các chính sách, Thông tin theo hướng kiến tạo, Thông tin có tính phân tích, giáo dục, Phong cách viết hấp dẫn, dễ hiểu, cấu trúc rõ ràng, Sử dụng ưu thế thể hiện sáng tạo của báo mạng điện tử, Tính tương tác. 1.5. Cơ sở pháp lý và thực tiễn của truyền thông chính sách 1.5.1 Cơ sở pháp lý của truyền thông chính sách tại Việt Nam Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 407 /QĐ-TTg ngày 30/3/2022 Phê duyệt Đề án “Tổ chức truyền thông chính sách có tác động lớn đến xã hội trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật giai đoạn 2022-2027”. Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 7/CT-TTg ngày 21/3/2023 về việc tăng cường công tác truyền thông chính sách. Theo đó “Truyền thông chính sách là một nhiệm vụ, một chức năng quan trọng của cơ quan hành chính nhà nước các cấp. Báo chí và các loại hình truyền thông khác là kênh thông tin, là phương thức cơ bản, quan trọng để thực hiện việc truyền thông chính sách.” 1.5.2 Thực tiễn về truyền thông chính sách và chính sách kinh tế tại Việt Nam Các cơ quan báo chí đã đóng góp một số thành tựu nhất định trong nhiệm vụ truyền thông chính sách, góp phần trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Nhưng công tác truyền thông chính sách trên báo chí còn tồn tại một số hạn chế, nhiều nơi công tác truyền thông chính sách vẫn diễn ra một chiều. Các nghiên cứu về các chính
  15. 13 sách được đưa thế nào trên các phương tiện truyền thông đại chúng cũng như việc phát triển các phương pháp theo dõi, truyền thông các chính sách trên các phương tiện truyền thông đại chúng chưa được chú ý. Việc nắm bắt đối tượng công chúng, hiểu rõ về văn hoá, trình độ, đặc điểm kinh tế của họ chưa tốt nên hiệu quả truyền thông chính sách chưa cao. Các cơ quan báo chí lẫn cơ quan chức năng cũng chưa quan tâm đánh giá tác động của truyền thông chính sách tới công chúng. Trong quá trình hội nhập và phát triển hiện nay, vai trò của các cơ quan báo chí trong việc truyền thông chính sách trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Đặc biệt trong bối cảnh sự phát triển của mạng Internet, cùng với những tác động mạnh mẽ của những công nghệ mới sẽ giúp các cơ quan báo chí có những bước tiến dài trong việc tiếp cận công chúng, định hướng dư luận xã hội, tạo sự đồng thuận xã hội về giải quyết các vấn đề quan trọng của Đất nước cũng như đưa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới nhân dân. TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 Chương 1 hệ thống lại các khái niệm về truyền thông, truyền thông chính sách, chính sách kinh tế, truyền thông chính sách kinh tế, báo mạng điện tử, khái quát lịch sử phát triển của báo mạng điện tử tại Việt Nam, quy mô và đặc trưng, mức độ ảnh hưởng tới xã hội. Tác giả đã đưa ra các lý thuyết truyền thông và mô hình truyền thông quan trọng là cơ sở lý luận cho dự án. Tác giả đã nêu lên vai trò của truyền thông chính sách kinh tế của báo mạng điện tử Việt Nam, đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong phần các yếu tố tác động tới truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử Việt Nam, tác giả đã đề cập đến: Sự phối hợp giữa cơ quan ban hành chính sách và cơ quan báo chí trong truyền thông chính sách, Việc tổ chức truyền thông chính sách của các cơ quan báo chí, Trình độ kỹ năng của các nhà báo viết về các chính sách kinh tế, Năng lực tiếp nhận thông tin của công chúng, Sự phát triển của công nghệ thông tin tới truyền thông chính sách, Vốn xã hội và Nền tảng văn hoá. Tác giả cũng đưa ra những tiêu chí để đánh giá thông tin truyền thông chính sách trên báo mạng điện tử và cuối cùng là cơ sở thực tiễn của truyền thông chính sách kinh tế tại Việt Nam. Có thể thấy cơ quan báo chí đã đóng góp một số thành tựu nhất định trong nhiệm vụ truyền thông chính sách kinh tế, góp phần trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Nhưng công tác truyền thông chính sách kinh tế trên báo chí còn tồn tại một số hạn chế và phải thay đổi cùng với xu hướng phát triển của công nghệ.
  16. 14 Chương 2 THỰC TRẠNG TRUYỀN THÔNG CHÍNH SÁCH KINH TẾ TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Thông tin cơ bản về các báo mạng điện tử trong diện khảo sát 2.1.1. Báo Nhân Dân điện tử (https://nhandan.vn/) Báo Nhân Dân là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam. Với việc truyền thông về chính sách kinh tế, chuyên mục Kinh tế của Báo Nhân Dân điện tử được chia thành các nội dung truyền thông là Tài chính - Chứng khoán, Thông tin hàng hóa. 2.1.2. Báo điện tử Chính phủ (https://baochinhphu.vn/) Báo điện tử Chính phủ là cơ quan ngôn luận của Văn phòng Chính phủ. Với việc truyền thông về chính sách kinh tế, chuyên mục Kinh tế được chia thành các nội dung truyền thông gồm: Ngân hàng, Chứng khoán, Thị trường, Doanh nghiệp, Khởi nghiệp. 2.1.3. Báo điện tử VnExpress (https://vnexpress.net/) Báo điện tử VnExpress do Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý. Chuyên mục Kinh doanh (liên quan đến việc truyền thông về chính sách kinh tế) gồm các nội dung: Quốc tế, Doanh nghiệp, Chứng khoán, Bất động sản, Ebank, Vĩ mô, Tiền của tôi, Bảo hiểm, Hàng hóa, eBox. 2.1.4. Báo Tuổi trẻ điện tử (https://tuoitre.vn/) Báo Tuổi trẻ là cơ quan ngôn luận của Thành đoàn Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Chuyên mục Kinh doanh (liên quan đến việc truyền thông về chính sách kinh tế) gồm các nội dung: Tài chính, Doanh nghiệp, Mua sắm, Đầu tư. 2.2. Khảo sát thực trạng truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử ở Việt Nam hiện nay 2.2.1 Phương pháp phân tích nội dung Tác giả sử dụng phương pháp phân tích nội dung trên bốn báo mạng điện tử gồm: Báo Nhân Dân điện tử, Báo Chính phủ điện tử, Báo điện tử VnExpress và Báo Tuổi trẻ điện tử. Tác giả phân tích 628 bài báo trong thời gian từ tháng 1/2021 - 1/2023 nhằm tìm hiểu về nội dung và hình thức truyền thông chính sách kinh tế trên các báo này. 2.2.1.1. Nội dung Phân tích cho thấy, 75,3% bài báo được đánh giá là cung cấp ít thông tin, 18,7% bài báo có thông tin vừa đủ và 6% bài báo có nhiều thông tin sâu. Đa phần các bài báo chỉ nêu ra các thông tin về chính sách kinh tế mà chưa có sự phân tích sâu, chưa phản ánh nhiều góc độ. Các bài báo được đánh giá là “Có kiến thức” chiếm tỷ lệ 47,5%. Tuy vậy, những
  17. 15 bài báo được đánh giá là “Không có kiến thức mới” cũng chiếm tỷ lệ lớn với 45,3%. Những bài báo “Cung cấp nhiều kiến thức” cho độc giả chỉ chiếm một tỷ lệ rất khiêm tốn với 7,2%. Kết quả phân tích cho thấy, việc truyền thông các chính sách kinh tế chưa thực sự mang lại nhiều lợi ích cho công chúng khi tỷ lệ “Ít đề cập” chiếm tỷ lệ phần lên tới 66%. Tỷ lệ “Vừa phải” mang lại lợi ích cho công chúng ở mức độ hơn 23%. Còn tỷ lệ các tin bài mang lại lợi ích rõ ràng đối với công chúng chỉ chiếm 10,7%. 2.2.1.2. Hình thức Về hình thức thể hiện, thể loại tin và phóng sự được các báo mạng điện tử sử dụng nhiều nhất. Thể loại phỏng vấn chuyên sâu, bài đồ họa Infographics, bảng biểu, video… ít được sử dụng trong các bài viết về chính sách. Kết quả phân tích các bài báo truyền thông chính sách kinh tế cho thấy có nhiều tin bài dùng thuật ngữ chuyên ngành, câu dài, phức tạo nên không dễ hiểu với tất cả công chúng nói chung. Qua phân tích cho thấy, 546 số bài chiếm tỷ lệ 87% các bài báo có giao diện thuộc diện “bình thường”, và chỉ có 13% các bài báo được xếp vào diện “bắt mắt” sinh động, cuốn hút 491 tin bài, chiếm 78,2% được thể hiện đơn giản, trong tin bài chỉ sử dụng từ một đến hai cách thức. 137 tin bài chiếm 21.8% tin bài báo có hình thức thể hiện hấp dẫn, sáng tạo, với từ hai cách thức trở lên. 2.2.2. Phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi Qua khảo sát 530 công chúng, tác giả đã thu thập được thông tin về những thói quen đọc báo mạng điện tử và những đánh giá của công chúng về việc truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử. Về khung giờ đọc báo mạng điện tử: Hai khung giờ công chúng thường đọc báo mạng điện tử nhất là Từ 21h00 - 24h00 (46,2%) và Từ 7h00 - 9h00 (40,4%). Về thiết bị đọc thông tin chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử, tỷ lệ lớn công chúng sử dụng điện thoại di động với 87,7%, tiếp đến là máy tính bàn với 56,1%. Về thói quen đọc thông tin chính sách kinh tế của công chúng trên các báo mạng điện tử, khảo sát cho thấy: 64,2% đọc lướt mở đầu, sau đó, nếu cần thiết sẽ đọc kỹ. Tỷ lệ công chúng đọc các thông tin chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử ở
  18. 16 mức “quan tâm” là lớn nhất, với 35,8%. Tần suất đọc thông tin chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử là khá lớn, với mức quan tâm đọc “hàng ngày” là 58,5%. Về mức độ hài lòng với nội dung các tin/bài truyền thông chính sách kinh tế trên báo điện tử, đa phần khán giả lựa chọn mức độ “tạm hài lòng”. Tỷ lệ lớn khán giả (51,9%) chưa bao giờ phản hồi với tòa soạn. Khi trả lời câu hỏi về đánh giá chung của công chúng về tin bài chính sách kinh tế trên bốn báo mạng điện tử trong diện khảo sát, 50% công chúng cho rằng vì cách diễn đạt còn khô khan, không hấp dẫn; 32,7% công chúng cho rằng hình thức các bài báo thể hiện đơn giản, không thu hút, ít minh họa; 25% công chúng cho rằng các bài báo còn ít thông tin họ cần biết; 21,2% công chúng cho rằng nội dung các bài báo trừu tượng, khó hiểu Khi được hỏi về đề xuất các giải pháp của công chúng dành cho cơ quan báo mạng điện tử nhằm thu hút độc giả tìm đọc những thông tin chính sách kinh tế, có tới 67,2% công chúng cho rằng nội dung các bài báo cần phong phú, thực tiễn ở các góc độ tiếp cận từ chuyên sâu đến phổ thông; 55,2% công chúng cho rằng cơ quan báo chí cần đưa ra vấn đề nội dung liên quan đến cuộc sống hàng ngày của người dân; 50% công chúng cho rằng các bài báo diễn đạt cần khoa học, gần gũi, phù hợp với đối tượng tiếp nhận 2.2.3. Phương pháp khảo sát phỏng vấn sâu 2.2.3.1. Phỏng vấn sâu nhà báo theo dõi mảng kinh tế tại các báo điện tử Tác giả phỏng vấn sâu 20 biên tập viên, phóng viên đưa thông tin chính sách kinh tế tại bốn báo mạng điện tử được khảo sát và các báo mạng điện tử khác để lý giải cách thức triển khai nhiệm vụ truyền thông chính sách kinh tế tại các báo dựa trên nguyên tắc hoặc kinh nghiệm gì? Kết quả phỏng vấn, tác giả đã thu nhận được một số ý kiến sau: - Các cơ quan báo chí không có định hướng, chiến lược cụ thể về truyền thông chính sách kinh tế. - Chất lượng nội dung truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử chưa tốt. - Hình thức truyền thông chính sách kinh tế trên báo mạng điện tử nhàm chán. - Việc tiếp cận các cơ quan quản lý để lấy thông tin còn khó khăn. 2.2.3.2. Phỏng vấn sâu chuyên gia kinh tế Tác giả đã thực hiện 4 cuộc phỏng vấn sâu đối với các chuyên gia kinh tế, với mục đích tìm hiểu các chuyên gia đánh giá như thế nào về cách các báo mạng điện tử Việt Nam truyền thông chính sách kinh tế. Kết quả phỏng vấn, tác giả đã thu nhận được một số ý kiến sau:
  19. 17 - Tăng cường minh bạch chính sách và đẩy mạnh truyền thông - Báo chí truyền thông chính sách chưa sâu - Truyền thông chính sách kinh tế chưa đáp ứng được nhu cầu thông tin công chúng. - Chính sách kinh tế có nội dung chuyên môn khó nên cần phải giải thích một cách dễ hiểu cho công chúng. - Cần có chiến lược dài hạn trong truyền thông chính sách kinh tế tại các cơ quan báo chí. 2.3. Thành công và hạn chế của báo mạng điện tử trong việc truyền thông chính sách kinh tế 2.3.1. Thành công 2.3.1.1. Thông tin bám sát các chính sách kinh tế Công tác truyền thông chính sách kinh tế được quan tâm triển khai tích cực và thường xuyên trong quá trình xây dựng, thực thi và hoàn thiện chính sách. 2.3.1.2. Thông tin nhanh nhạy, kịp thời Khi các cơ quan chức năng đưa ra các chính sách thì các báo đã nhanh chóng lên các nội dung tin bài truyền thông đến công chúng. Với tính phi định kỳ, báo mạng điện tử có thể giúp công chúng tiếp nhận thông tin ở mọi lúc, mọi nơi chỉ bằng một thao tác chạm điện thoại hay một cú click chuột. 2.3.2. Nguyên nhân của thành công 2.3.2.1. Các chính sách về kinh tế được quan tâm truyền thông Công khai, minh bạch chính sách có tác động lớn đến xã hội để tạo sự đồng thuận trong nhân dân. Với quan điểm này, các cơ quan quản lý đã chú trọng truyền thông về chính sách ngay từ giai đoạn dự thảo cho đến lúc chính sách được thực thi đi vào đời sống. 2.3.2.2. Báo điện tử có nhiều ưu điểm vượt trội so với các loại hình báo chí khác Báo mạng điện tử mang những ưu điểm vượt trội: Cập nhật tin tức một cách nhanh chóng, mọi lúc, mọi nơi; Hấp dẫn với đông đảo đối tượng bởi sự tác động vào nhiều giác quan; Có khả năng lưu trữ thông tin tốt; Tính tương tác cao… Những ưu điểm này đã góp phần tạo nên sự thành công trong việc truyền thông chính sách kinh tế đến với người dân. 2.3.2.3. Nhiều người dân quan tâm đến thông tin kinh tế để đầu tư, chi tiêu tiêu dùng Nhiều chính sách kinh tế rất thiết thực và hữu ích, liên quan đến lợi ích và tác động đến hành vi của công chúng. Từ đó, truyền thông chính sách kinh tế giúp người dân có quyết định đúng đắn trong đầu tư, tiêu dùng. 2.3.3. Hạn chế 2.3.3.1. Nội dung truyền thông chính sách kinh tế chưa sâu
  20. 18 Dù có một số thành công nhưng việc truyền thông chính sách kinh tế trên các báo mạng điện tử ở Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng hoàn toàn nhu cầu tìm hiểu thông tin của công chúng. Thông tin về các chính sách kinh tế được truyền thông chưa sâu, chưa thực sự dễ hiểu. 2.3.3.2. Hình thức thể hiện thiếu hấp dẫn Hình thức các tác phẩm truyền thông chính sách kinh tế trên các báo mạng báo điện tử chủ yếu là tin, bài phản ánh nên chưa thực sự phong phú, đa dạng và chưa hấp dẫn công chúng. Hình thức chủ yếu vẫn được trình bày dưới dạng văn bản. Ngôn ngữ thể hiện các tin bài truyền thông mang tính chuyên ngành, khó lan tỏa đến đại bộ phận người dân. 2.3.3.3. Thế mạnh của báo điện tử chưa được phát huy trong nhiều bài viết Thế mạnh về tính tương tác đã không được phát huy trong các bài báo tuyên truyền chính sách kinh tế. Hầu hết công chúng cho biết không bao giờ tương tác hoặc rất ít tương tác với các bài báo truyền thông về chính sách kinh tế. Tính đa phương tiện cũng không được phát huy trong các bài báo. 2.3.4. Nguyên nhân của hạn chế 2.3.4.1. Sự phối hợp giữa các cơ quan cung cấp thông tin với tòa soạn báo điện tử chưa linh hoạt Các phóng viên đã gặp không ít khó khăn khi tác nghiệp, do sự phối hợp giữa các cơ quan cung cấp thông tin với tòa soạn báo điện tử chưa linh hoạt. Để có thông tin cụ thể, số liệu chính xác, phóng viên phải tiếp cận các cơ quan, đơn vị liên quan nhằm khai thác thông tin. Tuy nhiên, nhiều đơn vị chậm trễ trong việc cung cấp thông tin, thậm chí từ chối cung cấp thông tin cho báo chí. 2.3.4.3. Đội ngũ phóng viên, biên tập viên chưa được đào tạo chuyên sâu Đội ngũ phóng viên, biên tập biên không phải ai cũng được đào tạo bài bản để hiểu biết chuyên sâu về lĩnh vực kinh tế. Nhiều thông tin chính sách truyền thông trên báo mạng điện tử đưa nguyên văn nội dung văn bản, vắng bóng sự phân tích, đánh giá thực trạng và tác động của chính sách. 2.3.4.3 Các cơ quan báo mạng điện tử chưa có kế hoạch truyền thông chính sách kinh tế, chưa chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng, công nghệ đáp ứng công việc. Các cơ quan báo mạng điện tử chưa có kế hoạch truyền thông chính sách kinh tế, vì lý do khách quan và chủ quan chưa đầu tư đúng mực vào cơ sở hạ tầng và chưa có cơ chế đãi ngộ hợp lý đối với các phóng viên viết về chính sách kinh tế. 2.3.4.4. Thiếu sự quan tâm trong công tác nghiên cứu công chúng Trong việc truyền thông chính sách kinh tế, các báo mạng điện tử còn thiếu sự quan tâm trong công tác nghiên cứu công chúng. Đây là nguyên nhân khiến việc tương
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0