intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn: Thân thể trong thơ trữ tình Việt Nam sau 1986

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:25

13
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn "Thân thể trong thơ trữ tình Việt Nam sau 1986" có mục đích xác lập một hệ thống lí thuyết về thân thể trong văn học, bao gồm khái niệm, biểu hiện, đặc trưng của thân thể trong văn học, bước đầu chỉ ra sự khác biệt giữa thân thể trong thơ ca và thân thể trong văn xuôi, chỉ ra đặc điểm của thân thể trong thơ ca Việt Nam, từ đó xác lập phương pháp luận nghiên cứu thân thể trong văn học nói chung và thơ ca nói riêng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn: Thân thể trong thơ trữ tình Việt Nam sau 1986

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI CHUNG THỊ THÚY THÂN THỂ TRONG THƠ TRỮ TÌNH VIỆT NAM SAU 1986 Chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số: 9.22.01.20 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Hà Nội - 2022
  2. Công trình được hoàn thành tại: TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Lê Lƣu Oanh Phản biện 1: PGS.TS. Phan Trọng Thƣởng Cơ quan công tác: Viện Văn học Phản biện 2: PGS.TS. Lý Hoài Thu Cơ quan công tác: Trường ĐHKHXH & NV- ĐHQG Hà Nội Phản biện 3: PGS.TS. Hỏa Diệu Thúy Cơ quan công tác: Trường Đại học Hồng Đức Hà Nội - 2022
  3. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Thân thể có vai trò quan trọng trong đời sống của con người, chính vì thế, thân thể cũng trở thành đối tượng tác động của nhiều lĩnh vực trong đời sống, đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa học, từ khoa học tự nhiên đến khoa học xã hội nhân văn. Đến nay, nghiên cứu về thân thể trong lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn đã có những đột phá quan trọng, đặc biệt là triết học. Những kết quả nghiên cứu đó mang lại một cách nhìn mới về thân thể trong văn học. 1.2. “Văn học là nhân học” (M.Gorki), đối tượng của văn học là con người. Văn học từ cổ chí kim, khi quan tâm đến con người, không chỉ quan tâm đến đời sống tinh thần, mà còn quan tâm đến cả ngoại hình, cử chỉ, điệu bộ, đến nhu cầu của thân thể, đến những gì mà thân thể phải chịu đựng… Có nghĩa là thân thể từ lâu đã trở thành đối tượng của văn học. Tuy nhiên, khi xuất hiện trong tác phẩm văn học, thân thể không chỉ là đối tượng thể hiện, mà còn trở thành phương tiện để thể hiện tư tưởng nghệ thuật, xây dựng thế giới nghệ thuật… Thân thể trở thành một loại ngôn ngữ nghệ thuật đặc thù trong tác phẩm văn học, hay nói cách khác, thân thể trở thành một loại kí hiệu thẩm mĩ đặc thù trong tác phẩm văn học. Loại kí hiệu thẩm mĩ này là sản phẩm sáng tạo của nhà văn, chịu sự chi phối bởi cá tính sáng tạo, quan niệm nghệ thuật về con người, chịu sự chi phối của bối cảnh thời đại… Chính vì thế, trong sáng tác của mỗi nhà văn, ở từng giai đoạn văn học nhất định, thân thể cũng hiện lên với những đặc điểm khác nhau. 1.3. Thơ trữ tình Việt Nam sau 1986, dưới sự tác động của hoàn cảnh lịch sử và xu hướng của xã hội hiện đại đã có những cách tân đáng kể, không chỉ về mặt hình thức kĩ thuật thuần túy mà là sự đổi mới ở chiều sâu quan niệm của chủ thể sáng tạo về thế giới, về nghệ thuật và về con người. Vì thế, thân thể trong thơ sau 1986 có nguyên tắc kiến tạo riêng, hình thành những kiểu loại riêng, và biểu đạt ý nghĩa riêng. Nghiên cứu thân thể trong thơ sau 1986, luận án muốn tiếp cận thân thể trong thơ ca như một loại ngôn ngữ nghệ thuật, một hệ thống kí hiệu thẩm mĩ đặc thù. Mặc dù đến nay, số lượng công trình nghiên cứu về thơ Việt Nam sau
  4. 2 1986 không hề ít, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu thân thể trong thơ từ góc độ này... 2. Mục đích nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích đầu tiên mà luận án hướng tới là xác lập một hệ thống lí thuyết về thân thể trong văn học, bao gồm khái niệm, biểu hiện, đặc trưng của thân thể trong văn học, bước đầu chỉ ra sự khác biệt giữa thân thể trong thơ ca và thân thể trong văn xuôi, chỉ ra đặc điểm của thân thể trong thơ ca Việt Nam, từ đó xác lập phương pháp luận nghiên cứu thân thể trong văn học nói chung và thơ ca nói riêng. 2.2. Tiếp nữa, luận án hướng tới chỉ ra và phân tích một số phương diện cơ bản của thân thể trong thơ trữ tình sau 1986. Thông qua so sánh đặc điểm của thân thể trong thơ trữ tình sau 1986 với thân thể trong thơ trữ tình giai đoạn trước chỉ ra sự vận động, biến đổi của quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người của thời đại. 2.3. Cuối cùng, luận án hướng tới chỉ ra và phân tích các nguyên tắc kiến tạo thân thể trong thơ trữ tình sau 1986. Ở một mức độ nhất định, luận án hướng tới chỉ ra: những nguyên tắc kiến tạo thân thể đó được thực hiện thông qua phương thức đặc trưng của thơ trữ tình. Đồng thời, thông qua so sánh với nguyên tắc kiến tạo thân thể trong thơ ca giai đoạn trước, luận án chỉ ra ở phương diện này, thơ trữ tình sau 1986 có sự vận động, biến đổi, sự vận động biến đổi đó cũng thể hiện sự vận động, biến đổi của quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và hƣớng tiếp cận 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là thân thể trong thơ Việt Nam sau 1986. Phạm vi nghiên cứu của luận án là thơ trữ tình Việt Nam sau 1986. 3.2. Hướng tiếp cận 3.2.1. Tiếp cận lí thuyết - Trên cơ sở các thành tựu nghiên cứu về thân thể trong các lĩnh vực như triết học, tôn giáo, mĩ học, lí luận văn học, luận án xác lập định hướng nghiên cứu thân thể trong văn học. Mặc dù mỗi lĩnh vực đều có những cách thức nghiên cứu riêng, nhưng vẫn có một điểm khá tương đồng là coi thân thể là một
  5. 3 loại kí hiệu, bản thân thân thể đã truyền đạt những thông điệp về chính nó và ngoài nó. - Luận án dùng các từ “thân thể”, “cơ thể”, “thân xác” đều với cùng một nghĩa (body). Tuy nhiên, luận án tập trung sử dụng khái niệm “thân thể” vì khái niệm “thân xác” (vốn được Nguyễn Văn Trung sử dụng từ khá lâu), thường khiến người ta chỉ nghĩ đến phần xác thịt vô hồn, còn “thân thể” mang cả ý nghĩa tràn đầy sức sống, sức biểu cảm. - Luận án phân biệt “thân thể” và “miêu tả thân thể”. “Thân thể “(body) bao gồm mắt mũi, tay chân, mùi vị, hình dáng, cảm giác, cảm xúc… Thân thể được thể hiện trong tác phẩm văn học thông qua sự miêu tả bằng ngôn ngữ. Như vậy, thân thể trong văn học là “ý nghĩa” của lớp ngôn từ kiến tạo văn bản, đến lượt nó, thân thể trở thành một kí hiệu để biểu đạt những thứ ngoài nó – tức là trở thành kí hiệu thẩm mĩ – một loại ngôn ngữ nghệ thuật. 3.2.2. Tiếp cận thực tiễn Luận án xuất phát từ thực tiễn sáng tác thơ ca để chỉ ra một số kiểu loại thân thể trong các giai đoạn văn học, trên cơ sở đó làm nổi bật đặc điểm thân thể trong thơ ca Việt Nam sau 1986. Trọng tâm của luận án là khảo sát thực tiễn thơ ca Việt Nam sau 1986, cụ thể là nghiên cứu các biểu hiện cũng như các nhân tố chi phối sự hình thành các loại thân thể cơ bản và những nguyên tắc kiến tạo thân thể. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để hoàn thành đề tài này, luận án đã sử dụng phối hợp các phương pháp chính sau đây: - Phương pháp kí hiệu học: Luận án coi thân thể như một hệ thống kí hiệu đa nghĩa về tự nhiên, xã hội, con người. Vì vậy, việc đọc ra các ý nghĩa của thân thể luôn được đặc biệt chú ý. Đây là phương pháp được sử dụng triệt để trong luận án. - Phương pháp thi pháp học: Luận án sử dụng phương pháp này để nghiên cứu các nguyên tắc kiến tạo nghệ thuật, sự chi phối của quan niệm nghệ thuật về con người và thế giới đối với các phương diện miêu tả thân thể. - Phương pháp loại hình: Luận án bước đầu tìm ra những kiểu loại thân thể trong các giai đoạn văn học, đặc biệt là các loại thân thể cơ bản trong thơ ca
  6. 4 Việt Nam sau 1986 với những nét nghĩa và các cách thức miêu tả chung nhất, phổ biến nhất. - Phương pháp lịch sử, văn hóa: Luận án nghiên cứu bối cảnh văn hóa thời đại, sự biến động của lịch sử đã chi phối tới việc xuất hiện các kiểu loại thân thể tương ứng. 5. Đóng góp mới của luận án - Luận án đã hệ thống vấn đề lí thuyết về thân thể trong văn học và định hướng vận dụng nghiên cứu thực tiễn văn học. - Luận án đã hệ thống được một số kiểu loại thân thể trong các giai đoạn văn học Việt Nam. - Luận án đã chỉ ra và phân tích một số loại thân thể cơ bản và một số nguyên tắc kiến tạo thân thể trong thơ Việt Nam sau 1986. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án được triển khai theo 4 chương như sau: Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về thân thể Chương 2: Thân thể trong văn học và một số vấn đề thân thể trong thơ ca Việt Nam Chương 3: Một số phương diện của thân thể trong thơ trữ tình Việt Nam từ sau 1986 đến nay Chương 4: Nguyên tắc kiến tạo thân thể trong thơ trữ tình Việt Nam sau 1986
  7. 5 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ THÂN THỂ 1.1. Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài 1.1.1. Nghiên cứu về thân thể ở phương Tây 1.1.1.1. Nghiên cứu về thân thể trong truyền thống phương Tây Trong lịch sử tư tưởng phương Tây, đã từng có những cách hiểu khác nhau về thân thể. Triết học Hy Lạp cổ đại phân biệt “thân thể” và “tinh thần”. Thân thể thuộc về thế giới hữu hình, có thể bị tan rã, tiêu diệt, còn tinh thần, linh hồn thuộc thế giới vô hình, trường tồn, bất tử. Thân thể phản ánh sự sa đọa của tinh thần và linh hồn, là cái hữu hạn, dễ bị cám dỗ. Chỉ có phần hồn mới là cái cao cả, trác truyệt của con người, vì vậy cần cứu rỗi con người và tinh thần ra khỏi tù ngục thân thể để vươn tới cái vĩnh hằng, bất tử. 1.1.1.2. Bước ngoặt nghiên cứu về thân thể ở phương Tây Vấn đề thân thể được coi trọng bắt đầu từ Nietzsche. Nietzsche là triết gia đầu tiên đặt thân thể vào vị trí nổi bật trong triết học. Ông coi thân thể là cái mang tính quyết định. Từ góc độ thân thể, nhìn lại lịch sử, nghệ thuật, lí tính, ông thấy tất cả những thứ đó đều là sản phẩm có liên quan đến thân thể. Chính vì thế, thế giới và thân thể có liên hệ mật thiết, thế giới chính là sự diễn giải của thân thể, là sản phẩm của thân thể, của ý chí quyền lực. Nietzsche tuyên bố: “Cần phải lấy thân thể làm chuẩn mực”. Nietzsche đã lật ngược vấn đề, hạ thấp chủ thể ý thức, bởi đề cao ý thức là siêu hình, phải kìm hãm và lãng quên thân xác, dù thân xác là cái hiện diện trong con người từng phút từng giây. Nietzsche cho rằng, tôi và anh khác nhau không phải là cá tính mà bằng thân thể. Đây chính là tư tưởng mang tính bước ngoặt về vấn đề thân thể. Tư tưởng của Nietzsche đã có ý thức đề cao thân thể, cội nguồn của việc giải phóng thân thể! Tư tưởng coi trọng thân thể thời hiện đại chính là tư tưởng mang bản chất lật đổ tư tưởng Kito giáo. 1.1.2. Nghiên cứu về thân thể ở Trung Quốc Từ thời cổ đại, Trung Quốc đã có những nghiên cứu về thân thể. Trong quan niệm của Nho giáo về con người, có thể nói, đến Mạnh Tử thì vấn đề mặt “vật”, mặt thể xác mới bắt đầu được đặt ra và nghiên cứu. Mạnh Tử là người
  8. 6 đầu tiên quan tâm đến việc làm rõ khái niệm “thân”, chỉ ra nguồn gốc và kết cấu của nó. Trước Mạnh Tử, mặc dù rất đề cao con người và cho rằng, con người là do trời đất sinh ra, và tồn tại của con người là tất yếu, nhưng Nho giáo không quan tâm nhiều đến việc nghiên cứu sự hình thành con người mà chỉ đi sâu tìm hiểu mặt “tâm”, mặt tư tưởng mà không chú trọng đến mặt thể xác của họ. 1.2. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc 1.2.1. Nghiên cứu thân thể trong văn học Nói đến văn học là nói đến quan niệm nghệ thuật về con người trong tác phẩm văn học dù tác phẩm đề cập đến đối tượng nào đi chăng nữa. Khi nói đến con người thì thân thể là bình diện, nền tảng quan trọng nhất của tồn tại người. Trong văn học, thân thể có vai trò quan trọng trong việc kiến tạo giá trị nghệ thuật của tác phẩm, thậm chí là “không có thân thể thì không có miêu tả nghệ thuật” [134, tr.90]. Sự bộc lộ của nhân vật trong bất kì một tác phẩm văn học nào cũng không thể không nói đến những biểu hiện như chân dung, trạng thái, hoạt động, tính chất…của thân thể con người. Miêu tả các yếu tố, trạng thái của thân thể là cách để nhà văn thể hiện nội tâm của nhân vật. Nhà văn thông qua việc tả các thuộc tính tự nhiên bên ngoài của thân thể (như lứa tuổi, thân hình, nét mặt, màu tóc…), các biểu hiện về mặt xã hội, hoàn cảnh, truyền thống văn hóa của thân thể (như ăn mặc, kiểu tóc, trang điểm…), hoặc những biểu hiện cụ thể của thân thể như tư thế, động tác, cử chỉ, ánh mắt, giọng nói,…nhằm toát lên ý nghĩa cần khám phá của nhân vật và tác phẩm. Sự lựa chọn khía cạnh nào của thân thể để biểu hiện con người trong sáng tác phụ thuộc vào quan niệm của mỗi nhà văn, thể loại, thời kỳ, trào lưu văn học. 1.2.2. Nghiên cứu thân thể trong thơ sau 1986 Thơ Việt Nam giai đoạn sau 1986 được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, nhưng cho đến nay, vẫn chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu vấn đề thân thể. Khi nghiên cứu về thơ Việt Nam sau 1986, các nhà nghiên cứu thường tập trung vào một số vấn đề như: Cái tôi trữ tình, thiên tính nữ, yếu tố sex trong thơ… Những công trình này ít nhiều đã bàn đến các khía cạnh khác nhau liên quan đến thân thể. 1.3. Quan niệm về thân thể trong nghệ thuật Đề cao vẻ đẹp tự nhiên của thân thể: Mặc dù ở cả phương Tây và
  9. 7 phương Đông, cho đến tận thế kỷ 19, quan điểm của các nhà triết học và giáo lí của các tôn giáo, hầu hết đều chủ trương hạ thấp thân thể, nhưng thực tế trong sáng tác nghệ thuật, ta lại thấy có vẻ các nghệ sĩ lại đi con đường khác. Đề cao vẻ đẹp hài hòa thân thể: Nghệ thuật điêu khắc thể hiện điều này rõ nhất. Các pho tượng Hy Lạp, đặc biệt là các vị thần, dáng người đẹp, cân đối, da dẻ mịn màng, tay chân nuột nà và có gương mặt thánh thiện, cao sang. Có câu chuyện kể rằng, vào năm 1848, Gớt đã từng khóc trong viện bảo tàng Luvro tại Paris trước bức tượng Vệ nữ ở Milo, vì ông nghĩ, không biết bao giờ nghệ thuật còn có thể ghi lại được vẻ đẹp hài hòa đến như vậy của con người nữa. Thân thể và bản năng - Đề cao niềm vui sống và sự hƣởng thụ khoái lạc cơ thể: Có niềm khoái lạc thân thể như tính dục, ăn uống, trang phục, thậm chí bài tiết… Có những câu chuyện về khoái lạc nam nữ giữa các thầy tu và cô gái cắt cỏ cạnh tu viện, giữa hai người trẻ tuổi yêu nhau trong Chuyện Mười ngày, Chim họa mi của Boccaccio. Có khoái lạc ăn uống trong cuộc đọ ăn giữa Hiệp sĩ áo đen bí ẩn và vị tu sĩ trong Ivanhoe (W. Scott). Hiệu ánh sáng của các bà (E. Zola), kể về những trang phục quyến rũ phụ nữ đến không ngờ. Truyện Trung Quốc cũng có những trang miêu tả tính dục như Kim Bình Mai, chuyện uống rượu, ăn thịt trong Thủy Hử, chuyện ăn uống, trang phục trong Hồng lâu mộng. Ngoài ra còn có các bộ tranh hướng dẫn về sex của Nhật Bản, tranh dân gian Đông Hồ như Đánh ghen, Hứng dừa… cũng là để nói đến niềm vui sống này. Thân thể là một phần của tự nhiên: Vấn đề này thường có hai nội dung. Nội dung thứ nhất là con người gắn bó với thiên nhiên (điều này sẽ được triển khai phần sau). Nội dung thứ hai thường gắn với cái tự nhiên của con người như tuổi già, ốm đau, bệnh tật… Thân thể là hàng hóa: Trong đời sống, người ta khai thác góc độ này để phục vụ ngành thời trang, mỹ phẩm, thuốc thang chữa bệnh, các công cụ làm đẹp, giải phẫu thẩm mỹ… Thân thể mang dấu ấn văn hóa: Thân thể do văn hóa kiến tạo nên. Văn hóa ở đây là cách sống, nếp suy nghĩ và quan niệm thể hiện qua phong tục, trang phục, ẩm thực, cư xử, đức tin, nghệ thuật… Thân thể và chính trị: Trong truyền thống lịch sử Trung Quốc, ta thường thấy các dạng mỹ nhân kế (dùng sắc đẹp để phục vụ một lợi ích nào đó).
  10. 8 CHƢƠNG 2 THÂN THỂ TRONG VĂN HỌC VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ THÂN THỂ TRONG THƠ CA VIỆT NAM 2.1. Thân thể trong văn học 2.1.1. Khái niệm Thân thể trong văn học là một loại kí hiệu thẩm mĩ đặc biệt, nó được cấu tạo, được sắp xếp, có tổ chức, có tính thẩm mỹ cao, mang nhiều tầng ý nghĩa phức tạp, thể hiện những thông tin về con người, lịch sử, xã hội, văn hóa… Thứ hai, thân thể trong văn học có những nguyên tắc kiến tạo riêng. Trong từng thời kì lịch sử khác nhau, nguyên tắc, quy luật, công thức, kiến tạo thân thể trong văn học cũng khác nhau. Nguyên tắc kiến tạo thân thể trong văn học gắn với quan niệm nghệ thuật về con người, một kiểu mô hình thế giới riêng biệt. Cuối cùng, các sắc thái của thân thể trong văn học còn thể hiện qua ngôn từ. Ngôn từ là những từ ngữ mang tính chất nghệ thuật, vừa chứa đựng hình ảnh, vừa mang cảm xúc. Thân thể không chỉ xuất hiện trong văn học mà còn ở cả các nghệ thuật khác như điêu khắc, hội họa, vũ đạo…, nhằm diễn tả những nhận thức về thế giới cũng như quan niệm về con người. Theo Tiệp Nhân – Vệ Hải trong cuốn Từ điển mĩ thuật hội họa thế giới, thân thể đã được sử dụng trong các tác phẩm nghệ thuật từ thời đại đồ đá cũ trong lĩnh vực điêu khắc và kiến trúc. 2.1.2. Biểu hiện của thân thể trong văn học Thân thể trước tiên thể hiện qua toàn bộ những hình ảnh bên ngoài của thân thể (như đầu, tóc, chân, tay, mắt, mũi, miệng, tim, da, thịt… cùng mùi vị của chúng), với mọi hành động (đi, đứng, nằm, ngồi, la, hét..); là những yếu tố bên trong như cảm giác, cảm xúc, tâm trạng (nóng lạnh, cô đơn, buồn, yêu, giận, ghét…) và gián tiếp thông qua đồ vật, trang phục (gương, lược, quần áo…), môi trường (cây cối, vườn, cánh đồng, rừng, dòng sông, biển, phố, căn nhà…) có quan hệ và tác động đến thân thể… - Hình ảnh bên ngoài của thân thể: Ngoại hình là những biểu hiện bên ngoài như những dấu hiệu thông báo về bản chất bên trong của con người, kèm sự đánh giá. Nguyễn Du khi miêu tả ngoại hình Tú Bà “Thoắt trông nhờn nhợt màu da/ Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao”, đã cho thấy không chỉ công việc
  11. 9 “ngủ ngày làm đêm” của mụ chủ lầu xanh, mà còn cả sự ghê tởm của tác giả. - Thế giới bên trong thân thể: Thế giới bên trong, hay còn gọi là thế giới tâm lý của con người là một cấu trúc khá phức tạp, nhiều cấp bậc. Nói theo người xưa thì có lục dục, thất tình. Nói theo mô hình thơ ca truyền thống thì có tâm, chí. Nói như Freud thì đó là những tầng bản năng, tiềm thức, tình cảm và ý thức. Nói theo tâm lí học hiện đại thì tâm lý gồm cảm giác, cảm xúc, tình cảm, nhu cầu, khí chất, ý chí…, về nhận thức thì có các cấp bậc: cảm giác, tri giác, tư duy. 2.1.3. Đặc trưng của thân thể trong văn học 2.1.3.1. Thân thể là một loại kí hiệu thẩm mĩ Khi thân thể được dùng làm phương tiện biểu đạt một nhận thức và cảm xúc nhất định, nó đã trở thành một kí hiệu. Ở góc độ này, các hình ảnh thân thể trong nghệ thuật không phải chỉ có mục đích miêu tả tự thân, mà luôn bao hàm ít nhiều ý nghĩa đằng sau nó, lúc đó thân thể sẽ trở thành kí hiệu. 2.1.3.2. Thân thể trong văn học mang tính quan niệm Trước hết, thân thể trong văn học bộc lộ ý thức, quan niệm của nhà văn, của nhân vật về thân thể con người. Ý thức về thân thể được lớn dần lên theo sự phát triển ý thức nhân loại. Triết học từ xưa vốn quan niệm tách rời thân thể và tinh thần, coi thân thể chỉ là phần xác thịt, chứa đựng phần bản năng rõ nhất của con người như ăn uống, bài tiết, tình dục… 2.1.3.3. Thân thể trong văn học có tính hệ thống Thân thể trong một tác phẩm, một tác giả, một thể loại, một khuynh hướng… đều nằm trong những hệ thống nhất định. Tính hệ thống trước hết có thể nhìn ở các phương diện những nguyên tắc, công thức thể hiện thân thể chung nhất, phổ biến nhất. 2.2. Một số vấn đề về thân thể trong thơ ca Việt Nam 2.2.1. Thân thể trong thơ ca Vấn đề thân thể được thể hiện trong tất cả các thể loại văn học, bởi vì ở đâu có nhân vật thì ở đó có vấn đề thân thể. Các nhà văn, nhà thơ đều coi thân thể như một đối tượng thể hiện, đồng thời cũng coi như một kí hiệu thẩm mĩ gửi gắm những thông điệp riêng đến người đọc. 2.2.2. Thân thể trong thơ ca Việt Nam Thân thể trong văn học là một hiện tượng lịch sử, luôn vận động và thay đổi theo quan niệm về con người… Quan niệm về con người chính là nguyên tắc bề
  12. 10 sâu chi phối cách khắc hoạ thân thể. Trong văn học trung đại, con người chủ yếu là con người vũ trụ, tức con người nhìn thấy mình trong tự nhiên, trong nhịp điệu vần xoay của vũ trụ.
  13. 11 CHƢƠNG 3 MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN CỦA THÂN THỂ TRONG THƠ TRỮ TÌNH VIỆT NAM TỪ SAU 1986 ĐẾN NAY Ra đời trong bối cảnh đổi mới và hội nhập, thơ sau 1986 ngày càng đề cao tính nhân bản của con người. Thân thể trong thơ từ 1986 đến nay vừa có sự kế thừa thân thể trong thơ trung đại, thơ lãng mạn, vừa có nét độc đáo, đặc biệt là sự thức tỉnh và giải phóng thân thể. 3.1. Phƣơng diện tự nhiên của thân thể Thân thể trước hết là do bố mẹ sinh ra với tất cả những đặc điểm hình thể, sự cấu tạo cơ thể sinh học với các AND một cách tự nhiên làm nên sự khác biệt trong cảm nhận của mỗi người. Trong thơ Việt Nam sau 1986, thân thể tự nhiên được coi là một phần của thế giới tự nhiên, cảm nhận về tự nhiên bằng tất cả các giác quan và in dấu ấn quê hương bản quán. 3.1.1. Thân thể là một phần của thế giới tự nhiên Văn học Việt Nam nói chung, thơ nói riêng, trong suốt chiều dài lịch sử, thiên nhiên như người bạn đồng hành. Phần lớn các nho sĩ trung đại đều quan niệm con người được sinh ra từ trời đất với ý nghĩa là bộ phận tinh túy nhất của tự nhiên. 3.1.2. Con người cảm nhận thế giới tự nhiên qua thân thể Con người kết nối với tự nhiên bằng các yếu tố cơ thể, bằng các giác quan, qua bàn chân, bàn tay, da thịt, mắt, tai… Các hình ảnh như chạy chân trần trên bãi, úp mặt vào sông quê, hồn nhiên như cây cỏ, trở về trẻ thơ, tắm rửa, gột sạch… là hình ảnh quen thuộc biểu hiện sự kết nối bền chặt này. 3.1.3. Thân thể in dấu ấn quê hương bản quán Mỗi một con người được sinh ra mang một hình hài, một thân thể khác nhau, và thân thể ấy in dấu ấn quê hương bản quán. Đây cũng là một đặc điểm khá nổi bật của thân thể trong thơ sau 1986. 3.2. Phƣơng diện xã hội của thân thể Phương diện xã hội của thân thể là phương diện được kiến tạo bởi xã hội. Trong triết học hiện đại, thân thể con người vừa là do cha mẹ sinh ra với những đặc điểm tự nhiên, vừa là do xã hội tạo ra với những đặc điểm của xã hội. Thân thể
  14. 12 là nơi chịu quy huấn và ràng buộc của xã hội, vì thế thân thể con người in dấu ấn của đời sống xã hội, nói lên những vấn đề xã hội... 3.2.1. Di chứng chiến tranh trên thân thể Thân thể con người tham gia vào các hoạt động của xã hội, những đổi thay của kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, tôn giáo... đều tác động lên thân thể con người. Có thể nói, một trong những tác động mạnh nhất đến thân thể đó là chiến tranh. Chiến tranh không chỉ tàn phá điều kiện tồn tại của thân thể mà trực tiếp hủy hoại thân thể con người. Thơ Việt Nam sau 1986, bên cạnh việc ngợi ca sự hi sinh những con người xả thân vì độc lập dân tộc còn là cái nhìn thẳng thắn vào những mất mát, hi sinh và hệ quả mà chiến tranh để lại lên thân thể con người. 3.2.2. Dấu ấn của đói khát trên thân thể Sau 1986, đất nước vẫn còn nhiều khó khăn, sự nghèo túng. Đói khát in dấu lên thân thể qua những hình ảnh mặt xanh rờn, bàn tay xanh xao, con mắt trẻ đói xin ăn, lưng trần bạc trắng, bụng nhăn lép kẹp, bụng sôi sùng sục vì đói, người hằn những xương, mặt hốc hác, bàn tay để ngửa (ăn xin).... Đó không chỉ là thân thể người bà, người mẹ, người bố, người em mà là của tất cả những kiếp nhân sinh nghèo khổ - những “đồng bào tôi”, “nhân dân tôi”. 3.2.3. Dấu ấn kinh tế thị trường trên thân thể Sang những năm đầu thế kỉ XXI, các nhà thơ có khuynh hướng đưa vào thơ những hình ảnh thân thể phản thơ, đối lập với mĩ học truyền thống, đối lập với ý niệm về thơ ca được xem là chuẩn mực, chính thống, trung tâm trước đó đã gây ra những phản ứng đa chiều gay gắt. 3.3. Phƣơng diện cá nhân của thân thể Ở phương diện cá nhân, thân thể gắn với những thứ riêng tư nhất của con người. Trong thơ sau 1986, thân thể cá nhân gắn với ý thức về cá tính, khát vọng sáng tạo, căn tính, gắn với các trạng thái của thân thể. 3.3.1. Ý thức về cá tính Thân thể trong thơ sau 1986 là bức tranh tự họa về cá nhân, thể hiện ý thức về cá tính của của mỗi nhà thơ. Ý thức về cá tính trở thành khát vọng âm thầm nhưng mãnh liệt của các nhà thơ sau 1986. Hành trình trở về của cái tôi cá nhân trong đời sống con người với muôn nghìn sắc thái. Xu thế chung của thơ
  15. 13 là bộc bạch, giãi bày về chính những khát khao xuất phát từ thân thể của chính mình. Chính vì thế, mỗi nhà thơ đều tìm cách khắc họa chân dung của mình một cách chân thực nhất, khẳng định sắc thái riêng. Sự hình thành đầu tiên của con người là sự hình thành thân thể, bản chất sự tồn tại của con người là sự tồn tại thân thể. Thân thể là cái tạo nên tôi, tạo nên cái độc đáo riêng tôi. 3.3.2. Khát vọng sáng tạo Do khát vọng phản ánh con người cá nhân trong đời sống thường nhật trở nên cấp thiết khiến hình ảnh thân thể trong thơ sau 1986 được thể hiện chân thực hơn, đời thường hơn và cũng sống động hơn thơ ca các giai đoạn trước đó. Đặc biệt hơn, chủ nghĩa nữ quyền đã khuyến khích người nữ: “viết ra chính mình, phải tự khám phá những gì thân xác cảm nhận được, và cách thức để diễn tả thân xác ấy bằng ngôn ngữ. Nghĩa là, nữ giới phải tìm thấy được dục tính khởi nguồn từ trong thân xác của mình và tìm cách viết về cái khoái cảm, cái “jouissance” ấy”, “phụ nữ hãy viết ra thân xác của mình, phải viết về chính mình và đem vào trong văn bản” [198, tr.876] đã làm cho hệ thống hình ảnh thân thể người nữ trở nên phong phú và sinh động hơn. 3.3.3. Ý thức về căn tính 3.3.3.1. Ý thức về nhan sắc Yếu tố quan trọng của thân thể chính là nhan sắc – cái đẹp hình thể, đặc biệt là khi nói về sự hấp dẫn của tính nữ. Cái đẹp mang thiên tính nữ được thể hiện ở trang phục, trang điểm, đường nét, và sự tự tin với hình thể của mình. Ngay từ thời phục hưng giới hội hoạ phương Tây đã miệt mài cho ra đời những bức tranh khỏa thân về các thánh thần, thiếu nữ như Adam, Eva… ca ngợi vẻ đẹp của thân thể con người. 3.3.3.2. Ý thức về thiên chức nữ Thiên chức làm mẹ - tạo ra con người - là thiên chức cao cả nhất. Mặc dù triết học cổ đại miệt thị thân xác, đặc biệt là thân thể nữ, cho đó là dơ bẩn và nguồn gốc của mọi tội lỗi, song nếu không có thân thể người phụ nữ với thiên chức làm mẹ thì không thể duy trì giống nòi, tạo dựng thế hệ mai sau. Nói về sự sinh đẻ là đề tài quen thuộc trong lịch sử văn học thế giới. Thơ Việt Nam sau 1986, đặc biệt thơ của các tác giả nữ, khao khát làm mẹ được thể hiện một cách mãnh liệt như một sự thể hiện quyền uy và thiên chức của người phụ nữ.
  16. 14 3.3.3.3. Ý thức về giải phóng tính dục Đi vào khai thác yếu tố bản ngã xuất phát từ nhu cầu thân thể, các tác giả nữ thiên về khám phá tình yêu, đặc biệt là thế giới nhục cảm bản năng, một phạm vi mà quan niệm truyền thống coi là “vùng cấm”. 3.3.3.4. Ý thức phái tính Ý niệm về phái được hình thành khi người ta phân biệt sự khác nhau về thân thể của đàn ông và đàn bà. Phái tính chỉ những đặc trưng bản chất của từng phái với cấu tạo thân thể khác nhau giữa nam và nữ. Kinh Thánh quan niệm, đàn bà được sinh ra từ một phần cơ thể của đàn ông, từ xương sườn của đàn ông, “cái mà ông Bossuet gọi là xương thừa của ông Adam” [122; tr.321]. 3.3.3.5. Nỗi buồn và sự cô đơn Nỗi buồn và sự cô đơn là trạng thái gắn liền với thân thể con người. Đây cũng là phạm trù tư tưởng của triết học hiện sinh, chi phối mạnh mẽ xu hướng văn học đương đại. Thơ Việt Nam sau 1986 chịu tác động lớn của chủ nghĩa hiện sinh.
  17. 15 CHƢƠNG 4 NGUYÊN TẮC KIẾN TẠO THÂN THỂ TRONG THƠ TRỮ TÌNH VIỆT NAM SAU 1986 4.1. Nguyên tắc gắn kết thân thể với tự nhiên 4.1.1. Thân thể gắn kết với thế giới động vật Trong các yếu tố của văn hóa, con người và động vật có mối liên hệ đặc biệt. Trải qua thăng trầm của lịch sử, con người không ngừng nỗ lực khẳng định mình trong thế giới muôn loài, muốn chứng tỏ khả năng độc lập, li khai, thậm chí cải tạo, biến đổi tự nhiên nhưng con người đã, và vẫn đang là một thành tố của tự nhiên, của giới động vật. Điều này được chứng minh ngay trong danh từ con người. Dù muốn hay không, ý thức hay vô thức, con người tự thân vẫn có mối quan hệ nguồn cội với động vật. Chân lí cổ sơ con thú trong mỗi con người và con người thoát thai từ con thú trở thành nguồn cảm hứng và chất liệu sáng tạo biết bao kiệt tác nghệ thuật, đặc biệt là ở các bức tượng điêu khắc nửa người nửa vật trong di sản văn minh nhân loại. 4.1.2. Thân thể gắn kết với thế giới thực vật Sự gắn kết giữa thân thể con người với thế giới thực vật được thể hiện ở cách gọi tên cỏ cây, bộ phận của cỏ cây bằng tên gọi bộ phận cơ thể người như: lá gan, lá phổi, quả tim, quả thận, cuống rốn, chùm gân, giọng chua, tư tưởng chín muồi, cái gốc của tư tưởng, ươm mầm tương lai… 4.1.3. Thân thể gắn kết với các hiện tượng tự nhiên khác 4.1.3.1. Thân thể gắn với đất Trong thơ trữ tình Việt Nam sau 1986, thân thể thường được gắn với hình ảnh đất. Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, đất là bản nguyên thụ động, mang tính nữ, là bóng tối, là âm, đối lập với trời là bản nguyên chủ động, mang tính nam, là ánh sáng, là dương… Kinh dịch cũng cho rằng, mọi con người đều sinh ra từ đất, vì đất là đàn bà, là mẹ - mẹ đất Gaia. Đất là biểu tượng của sản sinh và tái sinh, là bản thể vũ trụ, được xem như tử cung sinh ra mọi vật. Hình ảnh đất luôn gắn liền với hình ảnh thân thể người phụ nữ như bầu sữa, ngực, bàn tay, trứng,… đặc biệt là hình ảnh bàn chân, giày. Điều này đã được chứng minh từ trong truyền thuyết, thần thoại, sử thi và thơ ca các giai đoạn văn học,
  18. 16 tùy cách thức biểu hiện. Mẫu gốc đất bao gồm các biến thể của nó như: núi đồi, hang động, gò, đống, rừng, khu vườn, cánh đồng, đồng cỏ…. Trong thơ Việt Nam sau 1986, hình ảnh thân thể gắn liền với đất và các biến thể của nó xuất hiện nhiều lần ở sáng tác của nhiều tác giả.... 4.1.3.2. Thân thể gắn với nước Trong thơ trữ tình Việt Nam sau 1986, thân thể bộc lộ nhiều phẩm chất khi gắn với hình ảnh nước. Khi gắn kết hai thực thể này lại với nhau, thơ sau 1986 đã khai thác các mối tương quan: nước là cội nguồn sự sống của thân thể; nước là không gian tái sinh của thân thể; nước là không gian trải nghiệm của thân thể; nước là không gian gột rửa của thân thể, nước là nguồn sống đồng thời cũng là nguồn chết, mang chức năng tạo sinh và hủy hoại đối với thân thể con người… Những mối tương quan này ta thường gặp trong những truyền thuyết cổ xưa nhất cũng như trong những tác phẩm văn học cổ điển và hiện đại trên thế giới. Nước với các tính chất của nó được gắn liền với đặc tính thân thể, “là dạng thức thực thể của thế giới, là nguồn gốc sự sống và là yếu tố tái sinh thể xác và tinh thần, là biểu tượng của khả năng sinh sôi nảy nở, của tính thanh khiết, tính hiền minh, tính khoan dung và đức hạnh” [67, tr.710]. 4.2. Nguyên tắc gắn kết thân thể với tính giao Khi kiến tạo ngôn ngữ thân thể, thơ trữ tình Việt Nam sau 1986 đặc biệt chú ý gắn thân thể với tính giao. Nguyên tắc gắn kết thân thể với tính giao không phải đến thơ sau 1986 mới xuất hiện mà văn học thời nào cũng có, tuy cách thức biểu hiện khác nhau. Văn học Việt Nam nói chung thơ nói riêng sau đổi mới, do bối cảnh xã hội trong nước đổi thay cùng với sự ảnh hưởng của văn hóa phương Tây và phong trào “thân thể tả tác” ở Trung Quốc đã khiến trào lưu sáng tác gắn kết thân thể với tính giao phát triển mạnh mẽ. Khi sử dụng nguyên tắc này, thơ sau đổi mới đã nỗ lực khám phá sự phong phú của cái tôi ẩn giấu, phá vỡ những cấm kị, đổi mới tư tưởng, giải phóng cá nhân… 4.3. Nguyên tắc trần trụi, lãng mạn hoá thân thể Nếu nguyên tắc trần trụi hóa thân thể thiên về phản ánh mặt trái, mặt tiêu cực của xã hội và con người thì nguyên tắc lãng mạn hóa thân thể lại hướng đến những điều nhân văn và cao đẹp hơn. Có nhiều tác giả sử dụng nguyên tắc này khi đưa các hình ảnh thân thể vào thơ, tiêu biểu như Trần Dần, Dương Tường, Hoàng Hưng,
  19. 17 Trần Quang Quý, Nguyễn Quang Thiều, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Ly Hoàng Ly … 4.3.1. Nguyên tắc trần trụi hóa thân thể Thơ sau 1986 với phương châm "Tôi là con người. Đối với tôi chẳng có gì của con người là xa lạ cả” [3, tr.642] đã viết về thân thể một cách trần trụi nhất. Những hình ảnh mà trước kia được xem là không bao giờ có thể xuất hiện, là vùng cấm kị không được nhắc tới, thì nay, những hình ảnh ấy xuất hiện lan tràn trên những trang thơ. 4.3.2. Nguyên tắc lãng mạn hóa thân thể Nếu nguyên tắc trần trụi hóa thân thể là những khía cạnh tồn đọng trong đời sống xã hội thì lãng mạn hóa thân thể lại là cái đích hướng tới, một sự đột phá và giải thoát con người trong cuộc sống hiện tại. 4.4. Nguyên tắc tƣợng trƣng, siêu thực hóa thân thể Thơ sau 1986 cùng với sự đổi mới, cởi trói tư tưởng là sự đổi mới, cởi trói trong hình ảnh và hình thức biểu đạt. Nguyên tắc tượng trưng và siêu thực hóa thân thể là một trong những thành quả của sự đổi mới thơ ca giai đoạn này. Những nhà thơ tiêu biểu cho nguyên tắc sáng tác này chủ yếu là các nhà thơ trưởng thành từ trước 1975 như Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng, Trần Dần, Hoàng Hưng... 4.4.1. Nguyên tắc tượng trưng hóa thân thể Đứng trên quan điểm, lập trường sáng tác, tự ý thức sứ mệnh cao cả của mình, chủ nghĩa tượng trưng chủ trương đi vào khám phá những vùng đất bí ẩn của cái đẹp, tôn thờ cái đẹp và hướng tới mỗi câu từ đều mang theo một giá trị đặc biệt, có nhạc tính và gợi cảm hơn là có nghĩa. Chính bởi vậy, câu thơ của chủ nghĩa tượng trưng khá ngắn gọn, ngôn ngữ thuần khiết và trau chuốt được hình thành qua một cú pháp rời rạc với nhiều tỉnh lược, câu từ có thể tối nghĩa, bài thơ không truyền tải một ý nghĩa nhất định mà chỉ là một tập hợp âm thanh và nhịp điệu, là mê lộ của từ ngữ, ngôn ngữ thơ trở nên khó hiểu. Trên lập trường sáng tác đó của chủ nghĩa tượng trưng, nguyên tắc tượng trưng hóa thân thể trong thơ sau đổi mới ở Việt Nam đã thổi một luồng gió mới vào nền văn học nước nhà.
  20. 18 4.4.2. Nguyên tắc siêu thực hóa thân thể Nếu nguyên tắc lãng mạn hóa thân thể thường sử dụng những biện pháp tu từ như ẩn dụ, hóa dụ, nói quá… thì nguyên tắc siêu thực lại sử dụng những hình ảnh xa nhau để làm “nảy lên ánh lửa, bùng lên hình ảnh. Sự kết hợp này không thuần lý và bị lí trí phản kích. Mặc kệ. Nhà thơ cứ tiến, cứ sáng tạo những hình ảnh độc đáo, không tưởng, trải rộng chất thơ trong lượng ảnh và chất ảnh, trong cõi mộng – thực, thực – mộng của mình.” [75, tr.154]. Thế giới siêu thực chỉ có thể cảm thấy trong giấc mơ, trong tiềm thức, lúc đãng trí, thần kinh suy nhược, tinh thần rối loạn… Và đây mới là mảnh đất của nghệ sĩ, qua đó họ mới có thể khám phá ra những điều sâu kín mà thiêng liêng, bí ẩn mà chính xác trong cuộc sống con người. 4.5. Nguyên tắc gắn kết thân thể với các biểu tƣợng, ẩn dụ Biểu tượng, ẩn dụ là những tín hiệu nhỏ trong hệ thống tín hiệu của tác phẩm văn chương, là phương tiện nghệ thuật để tác giả lý giải sự vật, hiện tượng, cắt nghĩa đời sống. Biểu tượng, ẩn dụ được sinh ra từ hiện thực đời sống và được nuôi dưỡng, phát triển qua đôi bàn tay sáng tạo, trí tưởng tượng của nhà thơ. Ở mỗi ẩn dụ, biểu tượng là những lớp ý nghĩa khác nhau do tâm lí, văn hóa mỗi thời đại, cộng đồng cấp cho. Trong văn học, biểu tượng và ẩn dụ thường mang tính đa nghĩa với khả năng khái quát sâu rộng. Thơ Việt Nam giai đoạn sau 1986 đã sử dụng hệ thống biểu tượng, ẩn dụ như một thao tác thường trực, mang tính hệ thống. Dưới góc độ thân thể trong văn học, ta thấy có sự biến đổi mạnh mẽ trong xu hướng sử dụng các biểu tượng, ẩn dụ trong thơ đương đại.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2