intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất ở Việt Nam

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

72
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án được thực hiện với mục đích phân tích, đánh giá khía cạnh bình đẳng giới trong tiếp cận đất với tư cách là một yếu tố nguồn lực sản xuất trực tiếp. Thông qua việc xây dựng khung phân tích và sử dụng cách tiếp cận nghiên cứu định lượng với phương pháp thống kê mô tả và mô hình hồi qui dựa trên số liệu thống kê qui mô lớn, mang tính đại diện cho cả nước, luận án đã phân tích và đánh giá thực trạng bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất ở Việt Nam ở cả 2 góc độ là khả năng được sử dụng đất để sản xuất và khả năng sử dụng đất sản xuất để thu lợi, từ đó đề xuất quan điểm định hướng và các nhóm giải pháp để cải thiện vấn đề này trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất ở Việt Nam

  1. 1 2 PHẦN MỞ ĐẦU cầu hóa và hội nhập vào nền kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng; (ii) Sự biến đổi khí hậu trên phạm vi toàn cầu; và (iii) Sự thay đổi về chất trong phát triển kinh tế và giảm 1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu nghèo ở Việt Nam. Trong vòng hai thập kỷ trở lại đây, vấn đề giới và bình đẳng giới đã trở thành 2. Tổng quan nghiên cứu vấn đề chính yếu trong các diễn đàn phát triển trên phạm vi toàn thế giới. Với nhiều Luận án đã tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước về bình đẳng giới nỗ lực của chính phủ các quốc gia và các tổ chức quốc tế, bình đẳng giới đã có những trong tiếp cận đất sản xuất theo 2 nhóm (i) các nghiên cứu về bình đẳng giới nói tiến bộ vượt bậc ở một số lĩnh vực, tuy nhiên, ở một số lĩnh vực khác, bình đẳng giới chung; (ii) các nghiên cứu về bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai để rút ra những hầu như có rất ít sự thay đổi, trong đó phải kể tới là bình đẳng giới trong việc tiếp cận hạn chế và khoảng trống nghiên cứu cho luận án, cụ thể như sau: và kiểm soát các yếu tố nguồn lực đặc biệt là yếu tố đất đai. Cơ sở dữ liệu toàn diện - Về phạm vi nghiên cứu: Hầu hết các nghiên cứu về bình đẳng giới trong tiếp về Giới và quyền sử dụng đất của FAO đã chỉ ra rằng, tính trung bình, phụ nữ chiếm cận đất đai đều là các nghiên cứu ngoài nước do đó bối cảnh chính sách rất khác so tới 43% lực lượng lao động trong khu vực nông nghiệp ở các nước đang phát triển, với Việt Nam. trong khi chỉ có khoảng từ 5 - 30% những người có nắm giữ đất nông nghiệp là phụ - Nội dung nghiên cứu: nữ, ngay cả khi có cơ hội nắm giữ đất đai thì diện tích đất nắm giữ của phụ nữ cũng • Các nghiên cứu trong và ngoài nước chủ yếu nghiên cứu tiếp cận đất đai của nhỏ hơn so với nam giới. Việc vẫn còn tồn tại khoảng cách giữa phụ nữ và nam giới phụ nữ và xem việc tăng cường khả năng tiếp cận đất của phụ nữ là tăng cường bình trong tiếp cận đất sản xuất là một trong các nguyên nhân làm hạn chế cơ hội kinh tế đẳng giới. của phụ nữ, khiến năng suất trong sản xuất nông nghiệp của phụ nữ thấp hơn nam giới, • Đất đai chủ yếu được xem xét dưới góc độ là một tài sản chứ không phải là từ đó tạo ra khoảng cách giới về thu nhập. Ngoài ra, bất bình đẳng giới trong tiếp cận một nguồn lực sản xuất, do đó các khía cạnh và tiêu chí đánh giá chưa phản ánh đất còn khiến cho các nỗ lực giảm nghèo của các quốc gia bị hạn chế đi nhiều. Bên được hết nội dung của tiếp cận đất với vai trò là nguồn lực sản xuất trực tiếp. cạnh tác động tích cực tới nỗ lực giảm nghèo của các quốc gia, bình đẳng giới trong - Dữ liệu và Phương pháp nghiên cứu: tiếp cận đất sản xuất còn góp phần gia tăng các chỉ số về sức khỏe, dinh dưỡng và giáo • Dữ liệu sử dụng cho nghiên cứu phần lớn dựa trên nguồn số liệu sơ cấp thông dục của nền kinh tế, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. qua điều tra mẫu nhỏ không mang tính đại diện cho cả nước. Việt Nam là một nước đang phát triển vẫn phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp • Chưa có nghiên cứu sử dụng mô hình kinh tế lượng để ước lượng mức độ bất và tình trạng nghèo còn chiếm một tỷ lệ tương đối cao. Nhận thức được vai trò của bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai, đồng thời chỉ ra yếu tố ảnh hưởng tới bất bình bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai đối với việc cải thiện năng suất trong nông đẳng giới trong tiếp cận đất đai. nghiệp, bảo đảm an ninh lương thực và giúp giảm nghèo bền vững, Chính phủ Việt Với những hạn chế trên, luận án: “Bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất Nam trong thời gian vừa qua đã có nhiều nỗ lực đổi mới các chính sách, pháp luật ở Việt Nam” kỳ vọng sẽ lấp được một phần của khoảng trống này trong nghiên cứu. nhằm tăng cường bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất điển hình như Luật Bình 3. Mục đích nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu đẳng giới 2006, Luật đất đai 2003. Tuy nhiên, có thể nguyên nhân sâu xa của vấn đề 3.1. Mục đích nghiên cứu bất bình đằng giới trong tiếp cận đất đai vẫn chưa được giải quyết triệt để thông qua Mục tiêu tổng quát của Luận án là: bằng cách tiếp cận mang tính khoa học khía cạnh các chính sách hiện hành, dẫn tới nội dung này vẫn chưa được cải thiện nhiều. Chính bình đẳng giới trong việc tiếp cận đất sản xuất, sử dụng phương pháp nghiên cứu định vì lẽ đó, việc xây dựng được khung nghiên cứu bao gồm nội hàm, tiêu chí đánh giá và lượng đánh giá thực trạng vấn đề này ở Việt Nam hiện nay để từ đó đưa ra định hướng và xác định các nhân tố tác động đến bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai, đánh giá một khuyến nghị chính sách thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực này thời gian tới. cách hệ thống thực trạng bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất ở Việt Nam hiện Các mục đích nghiên cứu cụ thể bao gồm: nay để từ đó đi tìm nguyên nhân khiến bất bình đẳng giới vẫn còn tồn tại nhằm đưa (i) Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về bất bình đẳng giới trong ra các chính sách giúp cải thiện được tình trạng này là cần thiết, đặc biệt trong giai tiếp cận đất đai, xây dựng khung phân tích bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất đoạn tới, Việt Nam sẽ phải đương đầu với một loạt các vấn đề có ảnh hưởng tới quá (ii) Trên cơ sở khung phân tích, đánh giá thực trạng bình đẳng giới trong tiếp cận trình phát triển và từ đó ảnh hưởng tới vấn đề bình đẳng giới, như: (i) Quá trình toàn đất đai dưới góc độ là một yếu tố nguồn lực sản xuất ở Việt Nam
  2. 3 4 (iii) Phân tích các nguyên nhân tác động tới hiện trạng bất bình đẳng giới trong tiếp 6. Đóng góp chính của luận án cận đất sản xuất ở Việt Nam Luận án đã có một số đóng góp chính như sau: (iv) Đề xuất các chính sách nhằm thực hiện bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản - Về mặt lý luận: xuất – một trong các nguồn lực sản xuất quan trọng ở Việt Nam. (i) Các nghiên cứu trước đây chủ yếu xem xét và phân tích bình đẳng giới trong 3.2. Câu hỏi nghiên cứu tiếp cận đất đai dưới góc độ là một yếu tố tài sản, Luận án đã xây dựng được khung Để thực hiện mục tiêu tổng quát trên, các câu hỏi nghiên cứu cụ thể của luận án là: phân tích bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai dưới góc độ là yếu tố nguồn lực sản (1) Quan điểm thế nào là bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai dưới góc độ là một xuất, theo đó bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất được xem xét theo cả 2 góc độ yếu tố nguồn lực sản xuất? là khả năng được sử dụng đất để sản xuất và khả năng sử dụng đất sản xuất để thu lợi. (2) Nội dung và các tiêu chí đánh giá bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất là gì? (ii) Luận án đã đề xuất các khía cạnh và tiêu chí đánh giá bình đẳng giới trong (3) Những yếu tố nào ảnh hưởng tới bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất? tiếp cận đất sản xuất. Cụ thể, 2 góc độ phân tích bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản (4) Việt Nam hiện nay có bất bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất hay không? xuất được đánh giá theo 5 khía cạnh, đó là: (1) Khả năng có đất sản xuất; (2) Nguồn (5) Biểu hiện của vấn đề bất bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất ở Việt Nam gốc đất sản xuất; (3) Được đảm bảo quyền sử dụng đất; (4) Quy mô đất sản xuất sử hiện nay như thế nào? dụng; (5) Năng suất đất. (6) Những nguyên nhân nào gây ra tình trạng bất bình đẳng giới trong tiếp cận đất (iii) Trong nghiên cứu, Luận án sử dụng cách tiếp cận định lượng với phương sản xuất ở Việt nam? pháp thống kê mô tả và mô hình hồi qui dựa trên số liệu thống kê qui mô lớn, mang (7) Những chính sách nào cần hoàn thiện để thực hiện bình đẳng giới trong tiếp tính đại diện cho cả nước để đánh giá thực trạng bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản cận đất sản xuất ở VN trong thời gian tới? xuất ở Việt Nam (trước đây các nghiên cứu chủ yếu sử dụng phương pháp định tính và 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu phương pháp phân tích thống kê mô tả, hầu như có rất ít nghiên cứu sử dụng mô hình 4.1. Đối tượng nghiên cứu hồi qui kinh tế lượng để phân tích, nếu có cũng chỉ dựa trên số liệu điều tra với giới Đối tượng nghiên cứu của luận án là bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất, hạn đối tượng điều tra trong phạm vi nhỏ). cụ thể là quyền/ cơ hội ngang nhau trong khả năng sử dụng đất làm đầu vào trực tiếp (iv) Với các mô hình hồi quy, bên cạnh phương pháp hồi quy Probit thông cho quá trình sản xuất giữa hộ gia đình do nam giới làm chủ hộ và hộ gia đình do nữ thường, luận án sử dụng phương pháp hồi quy với thủ tục Heckman 2 bước để đảm bảo giới làm chủ hộ. Dưới góc độ nghiên cứu của luận án, đất sản xuất đồng nghĩa với đất tính không chệch và vững của các giá trị ước lượng. Ngoài ra Mô hình ước lượng phân nông nghiệp trong phân loại đất đai của Việt Nam. rã Oaxaca - Blinder cũng được sử dụng để giải thích sự khác biệt trong tiếp cận đất sản 4.2. Phạm vi nghiên cứu xuất giữa hộ gia đình chủ hộ nam giới và chủ hộ nữ giới - Về không gian: Luận án nghiên cứu trên phạm vi cả nước có phân tổ theo vùng kinh tế và thành thị - nông thôn. - Về mặt thực tiễn: - Về thời gian: Luận án chủ yếu tập trung phân tích và đánh giá thực trạng theo Dựa vào dữ liệu thống kê có tính đại diện cho cả nước (số liệu điều tra mức sống số liệu của năm 2012. Dựa vào các dữ liệu thứ cấp từ các cuộc điều tra thì số liệu dân cư – VHLSS 2012) và bằng phương pháp phân tích định lượng, luận án chỉ ra rằng: 2012 là số liệu mới nhất tính tới thời điểm hiện nay. (i) Trên phạm vi cả nước, có sự tồn tại bất bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản 5. Cấu trúc của Luận án xuất với lợi thế thuộc về các hộ gia đình có chủ hộ là nam giới trong cả 2 góc độ, trong Ngoài phần mở đầu, kết luận và các phụ lục, Luận án được cấu trúc thành 4 chương: đó bất bình đẳng giới trầm trọng hơn trong khía cạnh sử dụng đất sản xuất để thu lợi. Chương 1: Cơ sở lý luận nghiên cứu bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất. (ii) Sự khác biệt giới trong tiếp cận đất sản xuất có sự khác biệt theo vùng và Chương 2: Phương pháp nghiên cứu và nguồn số liệu. dân tộc: bất bình đẳng giới ở các vùng phía nam lớn hơn so với các vùng ở khu vực Chương 3: Thực trạng bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất ở Việt Nam. phía bắc. Đặc biệt, ở vùng miền núi phía Bắc và nhóm dân tộc thiểu số có hiện tượng bất bình đẳng giới “ngược” trong khía cạnh có đất sản xuất với bất lợi thuộc về các Chương 4: Quan điểm định hướng và khuyến nghị chính sách cải thiện bình hộ gia đình chủ hộ nam giới. đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất ở Việt Nam
  3. 5 6 (iii) Trong các yếu tố tác động tới bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai, các yếu Với khái niệm bình đẳng giới được nêu ra ở trên, tác giả luận án cho rằng: bất tố thuộc về phong tục tập quán, văn hóa, nhận thức (thể chế phi chính thức), cơ chế bình đẳng giới tồn tại khi có sự khác biệt trong so sánh tương quan về vai trò, vị trí chính sách (thể chế chính thức) và thị trường (các yếu tố bên ngoài) có tác động lớn và tiếng nói của nam và nữ giới. Giá trị gắn cho vai trò của giới nam hoặc giới nữ hơn so với các yếu tố thuộc về đặc điểm hộ gia đình (các yếu tố bên trong). Ngoài ra, được xã hội thừa nhận chính là cơ sở quyết định khả năng tiếp cận tài sản và nguồn kết quả định lượng cũng chỉ ra rằng, việc tồn tại sự phân biệt giới do ảnh hưởng của lực của gia đình và xã hội, cũng như tiếng nói khác nhau của nam và nữ. yếu tố văn hóa, phong tục tập quán có xu hướng làm gia tăng bất bình đẳng trong tiếp 1.1.2. Các khía cạnh của bình đẳng giới cận đất sản xuất giữa các hộ gia đình có chủ hộ là nam giới và chủ hộ là nữ giới, Cùng với quá trình phát triển, các khía cạnh nội hàm của bình đẳng giới cũng trong khi đó những nỗ lực đạt bình đẳng giới trong các lĩnh vực khác có xu hướng dần hoàn thiện. Trong nghiên cứu gần đây nhất của Ngân hàng thế giới, Báo cáo phát làm thu hẹp khoảng cách giới trong tiếp cận đất đai. triển thế giới 2012, bình đẳng giới được tập trung xem xét theo 3 khía cạnh phúc lợi (iv) Qua những phát hiện thực tế, luận án đưa ra các gợi ý giải pháp, chính sách chính,đó là: (i) sự tích tụ năng lực của con người (nguồn vốn con người và nguồn lực để thực hiện bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai dưới góc độ là 1 yếu tố nguồn lực sản sản xuất); (ii) sử dụng năng lực đó để nắm bắt các cơ hội kinh tế và tạo thu nhập (việc xuất tại Việt Nam trong những năm tới, cụ thể: (i) Hoàn thiện thể chế chính thức đảm tham gia và nhận thu nhập từ nền kinh tế); và (iii) tính đại diện: việc sử dụng các bảo bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất; (ii) Đổi mới công tác truyền thông nâng năng lực tích lũy được để tác động đến lợi ích của cá nhân và cộng đồng (tiếng nói và cao nhận thức của xã hội đặc biệt là phụ nữ về quyền bình đẳng giới trong tiếp cận đất ảnh hưởng của phụ nữ trong các lĩnh vực đời sống ở cấp độ cá nhân và cộng đồng). sản xuất; (iii) Nâng cao năng lực tự thân của phụ nữ (iv) Tổ chức thực hiện và theo dõi, Theo các khía cạnh đó, trong các nghiên cứu phân tích đánh giá về bình đẳng đánh giá thực hiện các chính sách liên quan đến quyền bình đẳng giới trong tiếp cận giới thường tập trung vào các nội dung cụ thể sau: đất sản xuất; (v) Thúc đẩy hoạt động của thị trường đất nông nghiệp. (i) Sự tích tụ năng lực của con người: Đánh giá kết quả của giáo dục và y tế theo tất cả các tiêu chí đối với cả nam và nữ; cơ hội tiếp cận các yếu tố nguồn lực sản CHƯƠNG 1 xuất như đất đai, tín dụng và các đầu vào cho sản xuất của nam giới và phụ nữ CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU BÌNH ĐẲNG GIỚI (ii) Nắm bắt cơ hội kinh tế: đánh giá khả năng tham gia vào thị trường lao động TRONG TIẾP CẬN ĐẤT SẢN XUẤT và sự khác biệt trong tiền lương nhận được trong công việc giữa nam giới và phụ nữ 1.1. Bình đẳng giới (iii) Tính đại diện: Được xem xét dưới các góc độ cụ thể đó là sự khác biệt về quyền 1.1.1. Một số khái niệm ra quyết định của phụ nữ và nam giới thể hiện trong việc tham chính; khả năng thích ứng và - Giới: là một thuật ngữ xã hội để chỉ vai trò xã hội, hành vi ứng xử xã hội và tham gia của phụ nữ trong các hoạt động công cộng; tình trạng bạo lực trong gia đình; và cuối những kỳ vọng liên quan đến nam và nữ. Giới được hình thành do học hỏi từ gia đình, cùng là khả năng đàm phán thương lượng trong các quyết định của hộ gia đình. nhà trường, giao tiếp xã hội, nó khác nhau giữa các nước, các địa phương, thay đổi Từ những đánh giá nêu trên, luận án nhấn mạnh: (i) cơ hội hay khả năng tiếp theo thời gian và quá trình phát triển kinh tế xã hội. Nói cách khác, khi đề cập tới mối cận với các yếu tố nguồn lực sản xuất nói chung và yếu tố đất sản xuất nói riêng của quan hệ giới là nói đến cách thức phân định xã hội giữa nam giới và phụ nữ, liên quan phụ nữ và nam giới là một nội dung trong trong phân tích và đánh giá bình đẳng giới; đến các vấn đề thuộc về thể chế, văn hóa và xã hội chứ không phải là mối quan hệ cá (ii) thêm vào đó, đạt được bình đẳng giới trong việc tiếp cận nguồn lực sản xuất, đặc biệt giữa một nam giới hay phụ nữ nào đó. biệt là đất đai, cùng với giáo dục và y tế là nền tảng năng lực để có thể thực hiện các - Bình đẳng giới: khía cạnh còn lại của bình đẳng giới nói chung. Luận án sử dụng khái niệm bình đẳng giới được đưa ra trong chương 1 điều 5 1.1.3. Các tiêu chí đánh giá bình đẳng giới của Luật bình đẳng giới 2006 của Việt Nam, quan điểm này đồng nhất với quan điểm Khi xây dựng các tiêu chí đánh giá, các công trình nghiên cứu về giới có khi sử được đưa ra trong công ước quốc tế về xóa bỏ mọi loại hình thức phân biệt đối xử với dụng các chỉ số để đo lường tình trạng tuyệt đối của phụ nữ (ví dụ như tỷ lệ đi học phụ nữ (CEDAW), cụ thể:“Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang của trẻ em gái), nhưng cũng có trường hợp sử dụng tiêu chí để đo lường tình trạng nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của tương đối của họ (khoảng cách tỷ lệ đi học của trẻ em trai và trẻ em gái). Chú trọng cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”. đến tình trạng tuyệt đối là rất quan trọng, vì sự cải thiện tuyệt đối là điều kiện cơ bản
  4. 7 8 để đảm bảo quá trình phát triển, tăng cường thêm phúc lợi cho cả nam và nữ. Nhưng - Bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất: Bình đẳng giới trong tiếp cận đất chỉ tập trung vào tình trạng tuyệt đối không thôi là chưa đủ, dù là về quyền hạn hay sản xuất là việc nam giới và nữ giới có quyền/ cơ hội ngang nhau trong khả năng sử việc đòi hỏi các yếu tố nguồn lực, bởi tình trạng tương đối mới thể hiện được mối quan dụng đất làm đầu vào trực tiếp cho quá trình sản xuất. hệ tương đối của nữ và nam, đến lượt mình, mối quan hệ tương đối đó lại ảnh hưởng 1.2.2. Nội dung phân tích và tiêu chí đánh giá bình đẳng giới trong tiếp cận đất đến khả năng tham gia, đóng góp và hưởng lợi từ quá trình phát triển của họ. Do đó khi sản xuất: Từ kết quả tổng quan nghiên cứu, các nội dung phân tích và tiêu chí đánh đánh giá bình đẳng giới cần các tiêu chí đề cập tới cả hai góc độ phân tích trên. giá bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất được đề xuất trong luận án được tổng Tuy nhiên, theo quan điểm của luận án, việc có được một thước đo để lượng hóa hợp lại theo bảng 1.1. được vị thế tương đối của phụ nữ so với nam giới có thể so sánh được ở phạm vi quốc tế Bảng 1.1. Tổng hợp nội dung - tiêu chí - chỉ số đánh giá bình đẳng giới trong tiếp là hết sức khó khăn vì cấu trúc của nền kinh tế, vai trò của thị trường, gia đình và văn cận đất sản xuất hóa là khác nhau giữa các quốc gia. Chính vì thế, các nhà nghiên cứu thường cố gắng sử TT Nội dung Khía cạnh Tiêu chí Chỉ số dụng các thước đo tổng hợp có sự phân biệt giới để đánh giá bình đẳng giới. Các chỉ tiêu 1 Bình đẳng giới về (i) Khả năng có Khả năng có đất của - Tỷ lệ phụ nữ/ nam được biết đến nhiều nhất và phản ảnh tương đối đầy đủ các khía cạnh của bình đẳng giới khả năng được sử đất nam giới = khả năng giới có đất sản xuất theo cách tiếp cận thực chất và quan điểm của CEDAW (1979) là: dụng đất sản xuất có đất của nữ giới - Tỷ lệ người có đất - Chỉ số phát triển giới (Gender Developmment Index - GDI), được tính toán là phụ nữ dựa trên sự khác biệt về giới trong các tiêu chí của chỉ số phát triển con người (ii) Nguồn gốc Cách thức có đất - Cơ cấu đất sản (Human Development Index - HDI); đất sản xuất tương đồng giữa nam xuất của nam giới/ giới và nữ giới, đặc nữ giới theo nguồn - Thước đo quyền lực giới (Gender Empowerment Measure - GEM), đo lường biệt các nguồn trung gốc đất bất bình đẳng giới dưới khía cạnh khai thác cơ hội về kinh tế và chính trị. tính giới - Tỷ lệ phân bổ cho nữ - Chỉ số bất bình đẳng giới (GII) mới được đưa vào trong báo cáo phát triển giới theo mỗi nguồn con người năm 2010, phản ánh sự bất lợi của phụ nữ trên ba khía cạnh: sức khỏe sinh của đất sản xuất sản, quyền lực và thị trường lao động. Chỉ số GII có ý nghĩa quan trọng phản ánh (iii) Được bảo Khả năng được bảo - Tỷ lệ đất sản xuất tổng hợp hơn hai chỉ số GDI và CEM khi đánh gia bất bình đẳng giới trên các đảm quyền sử đảm quyền sử dụng do nam giới/ nữ giới phương diện về phát triển con người dụng đất đất sản xuất của nam sử dụng có - Chỉ số thể chế xã hội và giới (SIGI) là chỉ số được thiết kế nhằm đánh giá các giới = khả năng được GCNQSDĐ khía cạnh là nội hàm của sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ. SIGI tổng hợp đánh giá bảo đảm quyền sử - Tỷ lệ nam giới/ nữ các thể chế xã hội có sự phân biệt đối xử, cụ thể đó là kết hôn sớm, phân biệt đối xử dụng đất sản xuất giới đứng tên trên trong thực thi quyền thừa kế tài sản, bạo lực gia đình, chênh lệch giới tính khi sinh, của nữ giới GCNQSDĐ những hạn chế trong việc tiếp cận các nguồn lực sản xuất cụ thể là đất đai và tín dụng 2 Bình đẳng giới về (i) Quy mô đất Quy mô đất sản xuất - Diện tích đất sử khả năng sử dụng sản xuất sử do nam giới sử dụng dụng trung bình của và tiếp cận với địa vị xã hội đất sản xuất để dụng = quy mô đất sản xuất nam giới/ nữ giới 1.2. Bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất thu lợi do nữ giới sử dụng 1.2.1. Một số khái niệm (ii) Năng suất Năng suất đất của - Thu nhập từ sản - Đất sản xuất: Đất sản xuất là nguồn lực hữu hình, không do sản xuất mà có, đất các hộ gia đình do xuất nông nghiệp được sử dụng làm đầu vào trực tiếp sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ nữ giới làm chủ hộ bình quân/ 1ha đất - Tiếp cận đất sản xuất: tiếp cận đất sản xuất là khả năng sử dụng đất làm đầu ngang bằng với các sản xuất của hộ gia vào trực tiếp cho quá trình sản xuất, không phân biệt có sở hữu hay kiểm soát đất đai hộ gia đình do nam đình chủ hộ nam hay không. Theo đó, tiếp cận đất sản xuất được xem xét dưới 2 góc độ, đó là: khả giới làm chủ hộ giới/ nữ giới năng được sử dụng đất sản xuất và khả năng sử dụng nguồn lực này để thu lợi. Nguồn: Tác giả đề xuất từ phân tích và tổng hợp các tài liệu tổng quan nghiên cứu
  5. 9 10 1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất: Yếu tố tác Tác động tới bình đẳng giới trong TT Nội dung Từ những phân tích tổng quan các nghiên cứu, luận án tổng hợp và đề xuất 4 động tiếp cận đất sản xuất nhóm yếu tố tác động tới bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất, cụ thể: trò quan trọng bởi nó hình (GCNQSDĐ), đây là những rào cản thành một phương thức cho đối với phụ nữ/ nam giới tiếp cận đất Bảng 1.2. Các yếu tố tác động tới bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất việc tiếp cận đất đai. thông qua kênh thị trường khi không Yếu tố tác Tác động tới bình đẳng giới trong đáp ứng được yêu cầu. TT Nội dung động tiếp cận đất sản xuất 4 Hộ gia đình Đặc điểm, cũng như các mối Các đặc điểm của hộ gia đình, tùy 1 Thể chế chính Mọi lĩnh vực liên quan đến - Đây là yếu tố trung tính giới, quan hệ trong gia đình có ảnh thuộc vào từng đặc điểm và mối thức hoạt động của nhà nước, như: nhằm bảo đảm quyền tiếp cận với hưởng tới các quyết định liên quan hệ giữa các đặc điểm trong hộ • Luật pháp đất đai và bình đẳng giới, do đó quan đến việc tiếp cận đất gia đình sẽ có ảnh hưởng tích cực • Khung thể chế nếu luật pháp đủ các điều khoản sản xuất, ví dụ như hoặc tiêu cực tới việc tiếp cận đất đảm bảo thì sẽ có tác động tích cực • Giới tính, trình độ học sản xuất của nam giới và nữ giới. • Chính sách và thực tới bình đẳng giới trong tiếp cận vấn, tuổi, tình trạng thi chính sách đất sản xuất hôn nhân của chủ hộ • Cơ chế thực hiện các • Qui mô hộ - Khi hệ thống luật pháp, chính chức năng của nhà • Thu nhập của hộ sách chưa hoàn thiện, vẫn có kẽ hở nước (tòa án, cảnh • Tỷ lệ người phụ thuộc để thực hành theo luật tục, cộng sát, xây dựng cơ sở hạ của hộ với việc thực thi chính sách chưa tầng, y tế, giáo dục…) • Đặc điểm hoạt động đầy đủ sẽ dẫn tới ảnh hưởng tiêu sản xuất của hộ cực tới bình đẳng giới trong tiếp • …. cận đất sản xuất. Nguồn: Tác giả tổng hợp và đề xuất từ nghiên cứu các công trình nghiên cứu 2 Thể chế phi Các cơ chế, luật lệ, quy Yếu tố này có ảnh hưởng lớn tới Đồng thời, kế thừa nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (WB, 2012), luận án đã chính thức trình hình thành nên các quan hệ giới trong xã hội, tuy giao tiếp xã hội nhưng nhiên các khía cạnh của thể chế phi sơ đồ hóa mối quan hệ giữa các yếu tố tác động tới bình đẳng giới trong tiếp cận đất không liên quan đến chức chính thức như văn hóa, phong tục sản xuất được thể hiện trong hình 1.1 dưới đây: năng của nhà nước, ví dụ: tập quán nếu vẫn còn mang nặng • Văn hóa định kiến giới, thì sẽ tác động tiêu • Phong tục tập quán cực tới bình đẳng giới nói chung • Chuẩn mực xã hội và bình đẳng giới trong tiếp cận đất • Mạng lưới xã hội sản xuất nói riêng 3 Thị trường Những điều kiện cho phép - Thị trường có đặc điểm không phân người mua và người bán trao biệt giới, do đó khi có thị trường và đổi (quyền đối với) bất kỳ có giao dịch liên quan đến đất sản một loại hàng hóa, dịch vụ xuất thì sẽ tác động tích cực tới bình nào theo một số luật lệ nhất đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất Hình 1.1: Mối quan hệ giữa các yếu tố tác động tới bình đẳng giới trong tiếp cận định. Thị trường được xem - Thị trường đất sản xuất đòi hỏi đất sản xuất xét ở đây tập trung vào thị những điều kiện để có thể tham gia trường đất sản xuất. Thị như điều kiện về thu nhập, giấy tờ trường đất sản xuất đóng vai bảo đảm quyền sử dụng đất
  6. 11 12 CHƯƠNG 2 trong tiếp cận đất đai, cũng như những thay đổi trong môi trường đó thông qua việc PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ra đời của các văn bản chính sách của Chính phủ qua các giai đoạn khác nhau. - Phương pháp phân tích thống kê mô tả 2.1. Khung phân tích - Phương pháp mô hình hóa Hai phương pháp phân tích thống kê mô tả và mô hình hóa được trình bày chi tiết trong phần 2.3 2.2.2. Nguồn dữ liệu, số liệu Luận án khai thác các nguồn dữ liệu thứ cấp bao gồm các dữ liệu đã được công bố và các dữ liệu thô từ kết quả của các cuộc điều tra - Khảo sát mức sống dân cư (VHLSS): Luận án khai thác dữ liệu thô ở cấp độ hộ gia đình của cuộc điều tra khảo sát mức sống dân cư năm 2012 bằng phần mềm STATA. Ngoài các thông tin cơ bản về nhân khẩu học, Luận án chủ yếu sử dụng thông tin liên quan đến đất nông nghiệp và sử dụng đất nông nghiệp trong mục 04 của dữ liệu điều tra. - Điều tra hộ gia đình tiếp cận nguồn lực ở Việt Nam (VARHS): Luận án khai thác thông tin liên quan đến tiếp cận đất đai trong điều tra hộ gia đình tiếp cận nguồn lực năm 2012 như những thông tin bổ sung cho nội dung phân tích thực trạng bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất - Các nguồn số liệu khác: Niên giám thống kê, Tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn và thủy sản, Điều tra lao động và việc làm, Điều tra biến động dân số kế hoạch hóa gia đình, báo cáo của các bộ, ngành có liên quan. 2.2. Phương pháp nghiên cứu - Các văn bản chính sách pháp luật của nhà nước: Luận án tập trung khai thác các văn bản Luật Đất đai 2003, 2013; Luật Bình đẳng giới của Việt Nam 2006, Luật 2.2.1. Phương pháp nghiên cứu cụ thể Dân sự 2005, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 Xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu và khung phân tích của Luận án đã được đề - Các báo cáo nghiên cứu của các tổ chức, cá nhân: Các nghiên cứu và báo cáo cập tới ở trên, phương pháp nghiên cứu cụ thể được thực hiện dựa trên cơ sở vận của các tổ chức như Ngân hàng thế giới, UNDP, USAID cũng như các nghiên cứu, báo dụng phương pháp duy vật biện chứng làm phương pháp luận chung, bao gồm: cáo của các cá nhân, tổ chức khác để có cái nhìn đa chiều về vấn đề nghiên cứu - Phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng để đánh giá các nghiên 2.3. Phương pháp phân tích dữ liệu cứu hiện có trong và ngoài nước, từ đó hình thành khung lý thuyết cho nghiên cứu của Nội dung phân tích bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất ở Việt Nam được tác giả. Phương pháp này cũng được sử dụng để đánh giá thực trạng thị trường đất sản thực hiện ở cấp độ hộ, theo đó, phân chia các hộ gia đình vào các hộ gia đình nam xuất, thể chế phi chính thức (văn hóa, phong tục tập quán) ở Việt Nam và bối cảnh cho giới và nữ giới là theo giới tính của chủ hộ, từ đó phân tích sự khác biệt về quyền/ cơ việc thực thi chính sách bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất trong thời gian tới. hội được sử dụng đất làm đầu vào cho sản xuất của các hộ gia đình chủ hộ nam giới - Phương pháp so sánh: Việc phân tích thực trạng là định vị kết quả tại một thời và nữ giới. Cấp độ nghiên cứu này là phù hợp với 2 lý do: (i) Theo quy định của pháp điểm nghiên cứu, do đó với mục đích mô tả thực trạng bình đẳng giới trong tiếp cận luật, đất đai ở Việt nam được phân bổ cho các hộ gia đình chứ không phân bổ cho các đất sản xuất tác giả sử dụng phương pháp so sánh giữa chủ hộ là nam giới và chủ hộ cá nhân. (ii) Các hoạt động sản xuất của cá nhân thường phải gắn với một khu vực là nữ giới tại cùng một thời điểm. thể chế nhất định ở trong nền kinh tế như khu vực thể chế hộ gia đình, nhà nước, phi - Phương pháp phân tích, đánh giá các văn bản chính sách: Phương pháp này tài chính, tài chính, trong đó với sản xuất nông nghiệp – một hoạt động sử dụng đất chủ yếu được dùng để đánh giá môi trường thể chế chính thức về bình đẳng giới làm đầu vào trực tiếp, thì chủ yếu gắn với khu vực hộ gia đình.
  7. 13 14 Khái niệm đất sản xuất tương ứng với khái niệm đất nông nghiệp hiện áp dụng 2.3.2.2. Phương pháp ước lượng ở Việt Nam Để đánh giá thực trạng bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất ở Việt Nam, luận 2.3.1. Thống kê mô tả án sử dụng bộ dữ liệu VHLSS 2012 với phần mềm Stata các phương pháp hồi quy sau: 2.3.1.1. Phương pháp - Hồi quy Probit để đánh giá sự khác biệt về cơ hội có đất sử dụng giữa hộ gia Phương pháp áp dụng là tính trung bình của nhóm chủ hộ nam giới và nhóm đình chủ hộ nam giới và nữ giới, phương trình hồi quy như sau: chủ hộ và kiểm định sự khác biệt giữa giá trị trung bình của hộ gia đình chủ hộ nam Hav_dat = β0 + β1*m1ac2 + βiXi + ei (2.3) giới và chủ hộ nữ giới bằng kiểm định t- test - Hồi quy Heckman 2 bước để đánh giá sự khác biệt trong việc sử dụng đất sản Kiểm định T-Test là phép kiểm định giả thuyết về trung bình của tổng thể, xuất để sinh lợi, với biến phụ thuộc là lndatbq được dùng trong trường hợp ta muốn kiểm định giả thuyết về sự bằng nhau của 2 lndatbq = β0 + β1*m1ac2 + βiXi + ei (2.4) trung bình tổng thể dựa trên 2 mẫu độc lập rút từ 2 tổng thể này. Trong đó m1ac2 là biến đại diện cho giới tính của chủ hộ (m1ac2=1 tương ứng Trong kiểm định T-Test ta có 1 biến định lượng để tính trung bình và 1 biến với chủ hộ là nam giới và m1ac2 = 0 tương ứng với chủ hộ là nữ giới), Xi là các biến định tính dùng để chia nhóm ra so sánh. thứ tự 4 – 28 trong bảng 2.1 Các bước khi thực hiện kiểm định T-Test bao gồm: - Phân rã Oaxaca – Blinder để giải thích sự khác biệt trong tiếp cận đất sản - Bước 1: Đặt giả thuyết Ho: “Không có sự khác nhau về trị hai trung bình tổng xuất giữa hộ gia đình chủ hộ nam giới và chủ hộ nữ giới, theo các yếu tố tác động thể”, tức là khác biệt giữa 2 trung bình là bằng 0. (các biến giải thích) được mô tả trong bảng 2.1, cụ thể: - Bước 2: Thực hiện kiểm định T-Test (Two-sample t test with equal variances) - Phân rã Oaxaca – Blinder cho hàm phi tuyến: - Bước 3: So sánh giá trị Sig của kiểm định t được xác định ở bước 2 với xác suất α: Hav_dat = β0 + βiXi + ei (2.5) + Nếu Sig >α thì ta chấp nhận giả thuyết Ho - Phân rã Oaxaca – Blinder cho hàm tuyến tính: + Nếu Sig
  8. 15 16 trong khi phần lớn các nước trên thế giới có chênh lệch tiền lương giữa lao động nam của phần lớn người dân Việt Nam. Tư tưởng văn hóa Nho giáo đó đã hình thành nên hai và nữ giảm đi thì Việt Nam lại là một trong ít nước có sự gia tăng khoảng chênh lệch. hệ tư tưởng có ảnh hưởng tiêu cực tới bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong Cơ hội có việc làm tốt hơn, phụ nữ khi đi ra ngoài tham gia hoạt động sản xuất phi tiếp cận đất đai nói riêng đó là: (i) tư tưởng gia trưởng, “trọng nam, khinh nữ”; và (ii) Tư nông nghiệp sẽ ít phụ thuộc vào đất đai hơn, tính dễ bị tổn thương giảm, đồng thời tưởng phụ thuộc vào nam giới và xem nhẹ vị thế của mình trong nữ giới. Ngoài ra, vì tự nhận thức của phụ nữ về vai trò của mình cũng như quyền bình đẳng giới sẽ tăng lên. có tư tưởng định kiến giới là phụ nữ chỉ lo việc trong nhà còn nam giới lo việc ngoài xã Tuy nhiên, thu nhập của nữ giới vẫn thấp hơn nam giới sẽ hạn chế cơ hội tham gia thị hội, nên bản thân phụ nữ còn có tâm lý ngại va chạm và có các giao dịch ngoài xã hội. trường giao dịch đất đai với tư cách là người mua của phụ nữ hơn so với nam giới. 3.2.3. Thực trạng thị trường đất sản xuất ở Việt Nam Dưới góc độ tăng cường “tiếng nói”, trong những năm gần đây, tỷ lệ nữ đai Hiện nay ở Việt Nam đã tồn tại thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp, mặc biểu trong các cơ quan dân cử của Việt Nam đều có xu hướng gia tăng, đồng thời, số dù vậy thị trường quyền sử dụng đất trong khu vực nông thôn và nông nghiệp chưa đại biểu nữ giữ các trọng trách quan trọng trong các cơ quan của Quốc hội cũng tăng. phát triển. Theo kết quả điều tra nông nghiệp nông thôn 2011, tính đến nay, các hộ Tuy đã có nhiều cải thiện, song vai trò cộng đồng của phụ nữ ở Việt Nam vẫn thấp gia đình đã được sử dụng hơn 14 triệu ha đất cho hoạt động sản xuất nông nghiệp hơn một cách đáng kể so với nam giới. Khi phụ nữ có ít “tiếng nói” hơn ở cả cơ quan (chiếm 53,6% trong tổng diện tích đất nông nghiệp của cả nước, tuy nhiên bình quân lập pháp, hành pháp và tư pháp sẽ khiến việc ban hành pháp luật, đặc biệt là quá trình số hộ chuyển nhượng QSDĐ và thuê QSDĐ chỉ chiếm 1 - 2%. Thị trường đất đai thực thi pháp luật liên quan đến các lĩnh vực đặc biệt là lĩnh vực đất đai sẽ ít nhiều bị nông thôn ở miền Bắc kém sôi động hơn so với thị trường đất đai nông thôn tại các thiên lệch giới với lợi thế thuộc về nam giới. tỉnh miền Nam. 3.2. Thực trạng các yếu tố tác động tới bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản Việc tồn tại thị trường giao dịch quyền sử dụng đất nông nghiệp, đặc biệt là thị xuất ở Việt Nam trường thứ cấp là một yếu tố có tác động tích cực tới bình đẳng giới trong tiếp cận đất 3.2.1. Thực trạng các chính sách, pháp luật (thể chế chính thức) bảo đảm bình sản xuất, bởi đây là một kênh tiếp cận đất không có sự phân biệt giới, do đó cần thúc đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất ở Việt Nam đẩy sự phát triển của thị trường này. Nhìn vào hệ thống các quy định pháp luật và chính sách hiện hành của Việt Mặc dù không có sự phân biệt giới, song để gia nhập và tận dụng được ưu thế của Nam liên quan đến đất sản xuất, có thể nói rằng, về cơ bản khung pháp lý của Việt thị trường, người tham gia cần phải đáp ứng một số các điều kiện của thị trường như Nam được quy định khá đầy đủ và bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong điều kiện về thu nhập hay đất sản xuất mang ra trao đổi, mua bán cần có giấy chứng tiếp cận đất sản xuất. nhận quyền sử dụng đất. Chính những điều kiện này là những rào cản đối với các hộ gia Tuy nhiên, một số phát hiện mang tính nghiên cứu của luận án về những bất đình chủ hộ là nữ nếu các gia đình này không đáp ứng được do chịu tác động của thực cập của hệ thống thể chế chính thức tác động không tích cực đến bình đẳng giới trong trạng bất bình đẳng giới trong các lĩnh vực khác tiếp cận đất sản xuất thể hiện như sau: 3.2.4. Đặc điểm hộ gia đình Việt Nam ảnh hưởng tới bình đẳng giới trong tiếp cận - Còn một số điều khoản luật chưa đảm bảo quyền thừa kế của phụ nữ đối với đất sản xuất tài sản nói chung và đất đai nói riêng Dưới góc độ trình độ học vấn của chủ hộ, số liệu cho thấy trình độ học vấn của - Điều khoản luật vẫn còn kẽ hở để thực hành theo phong tục tập quán, yếu tố các chủ hộ là nữ thấp hơn đáng kể và có ý nghĩa thống kê so với nam giới. Số năm đi có xu hướng loại trừ phụ nữ trong tiếp cận đất đai. học trung bình của chủ hộ là nữ chỉ là 6,76 năm trong khi con số này của các chủ hộ - Các văn bản hướng dẫn thực hiện luật còn ban hành chậm, thậm chí có điều nam giới là 7,88 năm. Điều này cũng phù hợp với thực trạng bình đẳng giới trong khoản luật nhưng chưa có văn bản hướng dẫn lĩnh vực giáo dục phần trên đã phân tích. Việc các chủ hộ là nữ có trình độ học vấn 3.2.2. Thực trạng yếu tố văn hóa, phong tục tập quán (thể chế phi chính thức) tác thấp hơn so với các chủ hộ là nam giới, có thể là trở ngại đối với việc tiếp cận đất đai động tới bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất của các hộ gia đình đó. Mặc dù đã thoát khỏi chế độ phong kiến hơn nửa thế kỉ, cộng với việc được tiếp Tính trung bình, các chủ hộ nữ giới có tuổi cao hơn các chủ hộ nam giới. Theo cận với nhiều nền văn hóa tiến bộ, cởi mở hơn, song cho đến nay những tư tưởng của tính toán, tuổi trung bình của các chủ hộ nữ là 54,81 năm trong khi con số này của văn hóa Nho giáo vẫn còn khá ăn sâu bám rễ trong ý thức và từ đó ảnh hưởng tới ứng xử các chủ hộ nam giới là 48,07 năm. Việc các chủ hộ nữ giới tuổi cao so với các chủ hộ
  9. 17 18 nam giới có thể sẽ tác động tích cực tới khả năng tiếp cận đất sản xuất của phụ nữ bởi 80%, cao hơn tương đối so với các hộ gia đình có chủ hộ là nam giới. Việc nguồn thu nhiều tuổi hơn thường sẽ có kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp tốt hơn, nhưng đồng nhập từ sản xuất nông nghiệp của các hộ gia đình vẫn phụ thuộc rất lớn vào hoạt thời nhiều tuổi cũng sẽ khiến những ảnh hưởng của văn hóa và phong tục tập quán động trồng trọt, đặc biệt là các hộ gia đình có chủ hộ là nữ, cho thấy các hộ gia đình thiên lệch giới ăn sâu vào trong nhận thức của các chủ hộ nữ hơn tạo ra những rào chủ hộ nữ là đối tượng dễ bị tổn thương hơn trong các chính sách liên quan đến tiếp cản từ chính phía phụ nữ để nỗ lực tiếp cận đất sản xuất bình đẳng với nam giới cận đất sản xuất ở Việt Nam. Khi xem xét tình trạng hôn nhân theo giới tính của chủ hộ, trong số các hộ gia đình 3.3. Thực trạng bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất ở Việt Nam do phụ nữ làm chủ hộ, khoảng 40% là hiện có cả vợ và chồng, 46% ở trong tình trạng góa 3.3.1. Bình đẳng giới về khả năng được sử dụng đất để sản xuất bụa, trong khi con số này tương ứng của các gia đình có chủ hộ nam giới là 95,4% và 3.3.1.1. Bình đẳng giới về khía cạnh khả năng có đất 2,5% (tác giả tính toán dựa vào VHLSS 2012). Tình trạng hôn nhân của chủ hộ có ít Đánh giá khả năng có đất sản xuất dưới góc độ tỷ lệ hộ gia đình có đất sản nhiều ảnh hưởng tới việc tiếp cận đất đai của các hộ gia đình, nhất là dưới góc độ xem xét xuất, sự khác biệt giữa chủ hộ nam và chủ hộ nữ có không đáng kể, mặc dù sự khác nguồn gốc của đất, bởi những hạn chế của các thể chế chính thức cũng như phi chính thức biệt này là có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5%. Theo đó, tính trung bình cả nước hiện hành, con dâu, đặc biệt là khi ở trong tình trạng góa bụa, không được phân chia tài từ dữ liệu VHLSS 2012, có khoảng 31% hộ gia đình chủ hộ là nam giới hiện đang sử sản từ phía gia đình nhà chồng dụng hay quản lý đất nông nghiệp trong khi con số này của các hộ gia đình do nữ giới Quy mô của hộ gia đình có chủ hộ là nữ giới thấp hơn có ý nghĩa thống kê so làm chủ hộ là 25%. với các gia đình chủ hộ nam giới (3,28 người so với 4,1 người). Qui mô hộ nhỏ hơn, Ở khu vực nông thôn, hiện có khoảng 35% hộ gia đình có đất nông nghiệp, và tuổi trung bình của chủ hộ nữ cao hơn khiến cho tỷ lệ phụ thuộc trong các hộ gia đình tính trung bình, tỷ lệ hộ gia đình chủ hộ nữ có đất sản xuất còn cao hơn đôi chút so chủ hộ nữ cao hơn so với các hộ gia đình chủ hộ nam giới, theo đó tỷ lệ phụ thuộc ở với các hộ gia đình chủ hộ nam giới. Điều này thể hiện một điểm sáng về bình đẳng các hộ gia đình chủ hộ nữ năm 2012 là 16,5%, trong khi con số này ở các hộ gia đình giới trong tiếp cận đất đai. nam giới chủ hộ là khoảng 10% (tác giả tính toán theo VHLSS 2012), điều này sẽ khiến Tuy nhiên, nếu so sánh tương quan với tỷ lệ các hộ gia đình do nam giới làm chủ các hộ gia đình chủ hộ nữ ít nhiều gặp bất lợi trong quá trình phát triển kinh tế hộ, ngoài hộ và nữ giới làm chủ hộ, có thể khẳng định rằng, trên phạm vi cả nước, tồn tại bất bình ra đây còn là một yếu tố có thể giải thích được cho khả năng tiếp cận đất sản xuất của hộ đẳng giới trong cơ hội tiếp cận đất sản xuất. Dựa vào bộ số liệu VHLSS 2012, hiện có gia đình bởi khi tiến hành giao đất lần đầu cho các hộ sản xuất nông nghiệp vào những khoảng 29% tổng số hộ gia đình ở Việt Nam có sử dụng hoặc quản lý đất nông nghiệp, năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, để đảm bảo công bằng, giảm xung đột, Nhà nước đã trong đó, 6,6% là các hộ gia đình chủ hộ nữ có đất, còn lại 22,7% là các hộ gia đình chủ giao đất cho các hộ theo chế độ bình quân (quy định diện tích đất nông nghiệp bình hộ nam. Từ đó cũng cho thấy, trong số những hộ gia đình hiện đang quản lý và sử dụng quân đầu người lớn trong hộ và giao diện tích đất theo số lượng người lớn trong hộ). đất, chỉ có 22,5% có chủ hộ là nữ, còn lại 77,5% thuộc về các chủ hộ là nam giới. Tỷ lệ Xét theo đặc điểm của các hộ gia đình theo các nhóm thu nhập, số liệu năm hộ gia đình hiện sử dụng hay quản lý đất sản xuất có chủ hộ là nữ thấp hơn tỷ lệ hộ gia 2012 cho thấy tình trạng thu nhập của các hộ gia đình có chủ hộ là nữ ít nhiều tốt hơn đình có chủ hộ nữ trong tổng số hộ gia đình hiện nay (26,14%). Kiểm soát các yếu tố tác động khác tới việc tiếp cận đất đai của các hộ gia so với các hộ gia đình có chủ hộ là nam giới. Theo đó, có tới 25,4% hộ gia đình có chủ hộ là nữ nằm trong nhóm thu nhập cao nhất, trong khi con số này ở các hộ gia đình, mô hình hồi quy Probit cho thấy, tính trên phạm vi cả nước, khi các yếu tố khác đình có chủ hộ là nam giới chỉ là khoảng 20%. Điều kiện kinh tế của hộ phản ánh khả không đổi, xác suất có đất của các hộ gia đình có chủ hộ là nam giới chỉ cao hơn các hộ năng hộ gia đình có thể tham gia vào các giao dịch đất đai nhằm gia tăng khả năng gia đình chủ hộ nữ giới là 0,037 (3,7%). Mức độ chênh lệch về khả năng có đất sản tiếp cận đất của hộ. xuất giữa các hộ gia đình có chủ hộ là nam giới và nữ giới cũng giảm đi khi xem xét Đặc điểm hoạt động kinh tế có sự khác biệt đáng kể giữa các hộ gia đình có riêng ở khu vực nông thôn, cụ thể mức chênh lệch xác suất có đất sản xuất giữa hộ gia chủ hộ là nam giới và nữ giới, theo đó chỉ có khoảng 12% hộ gia đình có chủ hộ là nữ đình chủ hộ nam và chủ hộ nữ chỉ còn là 0,023 (2,3%) giới hoạt động tự sản xuất nông nghiệp, trong khi có khoảng 26% hộ gia đình có chủ Kết quả ước lượng phân rã Oaxaca – Blinder (bảng 3.8) cũng cho thấy có sự hộ là nam giới hoạt động sản xuất trong khu vực này. Tuy nhiên, xét riêng đối với các chênh lệch trong khả năng có được đất sản xuất giữa các hộ gia đình có chủ hộ là nam hộ sản xuất nông nghiệp, tỷ lệ các gia đình có nguồn thu nhập chính dựa vào nguồn giới và nữ giới trên phạm vi cả nước, theo đó tỷ lệ hộ gia đình chủ hộ nữ có đất sản xuất thu từ hoạt động trồng trọt của các hộ gia đình do nữ giới làm chủ chiếm tới khoảng thấp hơn 5,1 điểm phần trăm so với các hộ gia đình chủ hộ nam giới.
  10. 19 20 Kết quả cũng chỉ ra khoảng cách giới trong khả năng có đất sản xuất của các hộ các yếu tố văn hóa, phong tục tập quán tới khả năng có được đất sản xuất của các hộ gia đình chủ yếu do các yếu tố quan sát được (E +EC chiếm 93,3% trong tổng sự gia đình theo giới tính của chủ hộ là khá lớn. khác biệt). Điều này là hoàn toàn phù hợp với bối cảnh của Việt Nam. Bên cạnh đó, mặc 3.3.1.3. Bình đẳng giới về bảo đảm quyền sử dụng đất dù kết quả định lượng các yếu tố không quan sát được (C) ảnh hưởng đến khả năng có Việc có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giữa các hộ có chủ hộ là nam giới và đất sản xuất không có ý nghĩa thống kê, song giá trị của hệ số chặn có giá trị tương đối các hộ có chủ hộ là nữ giới cũng có sự khác nhau một cách đáng kể, với thực trạng là tỷ lớn (-0,32) trong khi tổng ảnh hưởng của các yếu tố không quan sát được chỉ có -0,003, lệ đất có sổ đỏ ở các hộ gia đình do nữ giới làm chủ cao hơn so với các hộ gia định do điều này ngụ ý rằng không phải những phân biệt giới trong các lĩnh vực gắn với đặc nam giới làm chủ. Tuy nhiên, khi nhìn vào cơ cấu người đứng tên trong sổ đỏ số liệu điểm của hộ gia đình, mà chính là những định kiến giới ăn sâu trong nhận thức của mỗi điều tra cho thấy, các hộ gia đình có chủ hộ nữ, tỷ lệ chủ hộ đứng tên trên giấy chứng người cả nam giới và nữ giới là rào cản đối với việc tiếp cận đất của các hộ gia đình chủ nhận quyền sử dụng đất thấp hơn với các hộ gia đình chủ hộ nam, trong khi 8,6% sổ đỏ hộ nữ, từ đó gây ra bất bình đẳng giới trong khả năng có đất sản xuất. của các hộ gia đình chủ hộ nữ đứng tên chồng của chủ hộ, tỷ lệ này ở các gia đình chủ Sự khác biệt giữa hộ gia đình chủ hộ nam và chủ hộ nữ trong tỷ lệ có đất sản hộ nam giới chỉ là 2,8%. Các hộ gia đình chủ hộ nữ còn dễ bị tổn thương trong việc tiếp xuất có sự khác biệt theo vùng, cụ thể các vùng phía nam có khoảng cách giới cao cận đất đai khi có tới 19,5% hộ gia đình có chủ hộ là nữ có giấy chứng nhận quyền sử hơn các vùng phía bắc. Đặc biệt ở khu vực miền núi phía bắc, các hộ gia đình chủ hộ dụng đất đứng tên người khác (không có mối quan hệ họ hàng với gia đình). nam lại có tỷ lệ có đất sản xuất thấp hơn so với các chủ hộ nữ, trong khi ở vùng này 3.3.2. Bình đẳng giới về khả năng sử dụng đất sản xuất để thu lợi chủ yếu là các hộ gia đình chủ hộ nam. Thực trạng tương tự cũng diễn ra đối với 3.3.2.1. Bình đẳng giới về quy mô đất sản xuất sử dụng nhóm đồng bào dân tộc thiểu số. Trong khía cạnh này, hiện nay ở Việt Nam còn tồn tại bất bình đẳng giới giữa 3.3.1.2. Bình đẳng giới về nguồn gốc đất các hộ gia đình có chủ hộ là nam giới và chủ hộ là nữ giới, theo đó các hộ gia đình có Kết quả tính toán từ dữ liệu VARHS cho thấy, mặc dù cơ cấu đất theo nguồn chủ hộ là nam giới có diện tích đất sản xuất lớn hơn đáng kể và có ý nghĩa thống kê gốc đất sản xuất của các hộ gia đình có sự tương đồng giữa các chủ hộ nam và nữ, tuy so với các hộ gia đình có chủ hộ là nữ giới. nhiên, trong tất cả các hình thức phân bổ đất, tỷ lệ hộ gia đình có chủ hộ nữ đều thấp hơn Dựa vào VHLSS 2012, tính trung bình cả nước, với các hộ hiện đang sử dụng so với các gia đình chủ hộ nam (tỷ lệ hộ gia đình chủ hộ nữ chỉ chiếm trung bình khoảng đất sản xuất, tổng diện tích đất sử dụng của các hộ gia đình có chủ hộ là nữ chỉ đạt 17% trong tổng số hộ gia đình trong mỗi hình thức phân bổ đất). Trong đó, riêng hình 3.434,75 m2, thấp hơn mức bình quân của cả nước và bằng khoảng 58% so với diện thức có đất thông qua kênh thừa kế, tỷ lệ của các hộ gia đình chủ hộ nữ giới chỉ bằng 1/7 tích đất trung bình của các hộ gia đình có chủ hộ nam giới. so với các hộ gia đình chủ hộ nam Kiểm soát các yếu tố tác động, diện tích đất bình quân đầu người của các hộ Khi xem xét theo vùng, cách thức có đất của các hộ gia đình có sự khác biệt gia đình nam giới làm chủ hộ cao hơn khoảng 28% so với các hộ gia đình chủ hộ nữ, đáng kể giữa các tỉnh điều tra, mặc dù vậy cơ cấu đất sản xuất có sự khá tương đồng khoảng cách này giảm xuống chỉ còn khoảng 17% khi áp dụng thủ tục hồi quy giữa các giữa chủ hộ nam và chủ hộ nữ, cụ thể các hộ gia đình tại các tỉnh đồng bằng Heckman 2 bước. Kết quả phân rã Oaxaca cho thấy các yếu tố có thể quan sát được miền Bắc và duyên hải miền trung phần lớn có được đất sản xuất thông qua Nhà nước có xu hướng thu hẹp khoảng cách giới, trong khi các yếu tố không quan sát được có hay xã giao, trong khi các tỉnh Tây nguyên lại có tỷ lệ lớn các mảnh đất có được ảnh hưởng lớn và có xu hướng nới rộng khoảng cách về diện tích đất bình quân giữa thông qua mua bán hay thuê mướn trên thị trường. Đặc biệt, ở các tỉnh miền núi phía các hộ gia đình chủ hộ nam và nữ. bắc như Lai Châu, Điện Biên có tới gần 70% đất sản xuất của các hộ có được là Bên cạnh diện tích đất sản xuất trung bình nhỏ hơn, có tới 60% các hộ gia đình do nữ thông qua khai hoang và lấn chiếm. Tuy nhiên, tỷ lệ phân chia cho các chủ hộ nữ theo giới làm chủ hộ có diện tích đất nhỏ hơn 0,2 ha, thậm chí 22% hộ có diện tích nhỏ hơn 500 tất cả các nguồn gốc đất đều thấp ở tất cả các tỉnh (trung bình chỉ đạt khoảng 15 – m2, con số này của các hộ gia đình do nam giới làm chủ hộ tương ứng là 45% và 10%. 20% ở mỗi hình thức phân bổ đất), nhưng có sự khác biệt đáng kể giữa các tỉnh. Theo Thêm vào đó, tốc độ gia tăng quy mô đất sản xuất của các hộ gia đình có chủ tính toán của tác giả dựa vào VARHS, các tỉnh vùng đồng bằng, có tỷ lệ dân số dân hộ là nam giới cũng cao hơn tương đối so với các hộ gia đình có chủ hộ là nữ giới tộc Kinh cao thì tỷ lệ phân bổ cho các hộ gia đình chủ hộ nữ cao hơn so với các tỉnh (tốc độ tăng quy mô đất sản xuất giai đoạn 2010 – 2012 của chủ hộ nam giới là 8,3%, miền núi phía Bắc hay Tây nguyên. Điều này một lần nữa cho thấy ảnh hưởng của con số tương ứng của chủ hộ nữ giới chỉ đạt 5,7% - tác giả tính toán dựa vào VHLSS
  11. 21 22 2010, 2012), do đó nếu cứ theo xu thế này, khoảng cách giới trong nắm giữ đất đai sẽ Thứ tư, quy mô đất sản xuất do các gia đình chủ hộ là nữ đang sử dụng nhỏ ngày càng mở rộng ra hơn nhiều so với các gia đình có chủ hộ là nam Khoảng cách giới trong quy mô diện tích đất nông nghiệp hiện đang sử dụng Thứ năm, bất bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai diễn ra dưới khía cạnh năng của các hộ gia đình cũng có sự khác biệt theo vùng, cụ thể khoảng cách giới về diện suất đất. tích đất sản xuất hiện đang nắm giữ của các hộ gia đình lớn nhất ở khu vực Thứ sáu, Khoảng cách giới với lợi thế thuộc về các gia đình chủ hộ nam giới TDMNPB, trong khi khu vực Tây Nguyên hầu như không có sự khác biệt giới trong trong tiếp cận đất sản xuất có sự khác biệt theo vùng và dân tộc. Đặc biệt có xu hướng diện tích đất nắm giữ của các hộ gia đình “ngược” trong khả năng có đất sản xuất ở khu vực Trung du và miền núi phía Bắc. 3.3.2.2. Bình đẳng giới về năng suất đất Các hạn chế tồn tại trên xuất phát từ các nguyên nhân sau: Thu nhập từ sản xuất nông nghiệp của các hộ gia đình bình quân/ ha đất nông Thứ nhất, đó là các nguyên nhân liên quan đến các thể chế chính thức nghiệp có sự khác biệt đáng kể và có ý nghĩa thống kê giữa chủ hộ nam giới và chủ Thứ hai, các nguyên nhân liên quan đến thể chế phi chính thức hộ nữ, theo đó thu nhập bình quân của các hộ gia đình có chủ hộ nam giới đạt hơn 58 Thứ ba, nguyên nhân thuộc về quá trình tổ chức thực hiện các chính sách pháp triệu đồng/ ha trong khi thu nhập bình quân của các hộ gia đình do nữ giới làm chủ luật hướng tới việc thực hiện bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất chỉ đạt khoảng 27 triệu đồng/ ha đất sản xuất (tính toán của tác giả dựa vào VHLSS Thứ tư, nguyên nhân liên quan đến thị trường đất đai 2012). Bên cạnh sự bất lợi trong thu nhập từ nông nghiệp của các hộ gia đình chủ hộ Thứ năm, nguyên nhân tự thân của phụ nữ là nữ giới do diện tích đất sản xuất nhỏ hơn, khoảng cách giới trong thu nhập nông CHƯƠNG 4 nghiệp bình quân giữa các hộ gia đình còn được lý giải thông qua sự khác biệt trong QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH hoạt động sản xuất của các hộ gia đình có chủ hộ là nam giới và chủ hộ là nữ giới CẢI THIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG TIẾP CẬN ĐẤT SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM 3.4. Đánh giá bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất ở Việt Nam 3.4.1. Những khía cạnh tích cực và nguyên nhân 4.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế ảnh hưởng tới việc thực hiện bình đẳng giới Thứ nhất, khả năng có đất sản xuất nông nghiệp của các hộ gia đình có sự trong tiếp cận đất sản xuất khác biệt không đáng kể giữa các hộ có chủ hộ là nam giới và nữ giới Bối cảnh quốc tế và trong nước có những yếu tố thuận lợi đối với việc thực Thứ hai, khả năng có đất sản xuất là tương đối bình đẳng ở khu vực nông thôn, hiện bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất ví dụ, các văn bản quốc tế và chính khu vực sản xuất nông nghiệp của nền kinh tế. sách pháp luật trong nước về bình đẳng giới đã tương đối hoàn thiện, bình đẳng giới Kết quả trên có được một phần là nhờ các đổi mới trong chính sách đất nông nói chung đã đạt được những thành tựu nhất định cả trong nước và quốc tế; ở cả hai nghiệp của Việt Nam kể từ đổi mới đến nay, cũng như các chính sách pháp luật đảm bảo phạm vi này đều đã có các cơ quan chuyên trách về bình đẳng giới... Nhưng bên cạnh quyền bình đẳng giới. Ngoài ra, Kết quả ước lượng từ mô hình nghiên cứu định lượng đã đó vẫn còn nhiều yếu tố khó khăn như biến đổi khí hậu, khủng hoảng kinh tế thế giới chỉ ra rằng việc các hộ gia đình chủ hộ là nữ có các hoạt động sản xuất và nguồn thu trên phạm vi toàn cầu, sự đa dạng dân tộc và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế với nhập ngoài hoạt động nông nghiệp cũng góp phần thu hẹp khoảng cách giới trong khả tốc độ nhanh của Việt Nam. năng tiếp cận đất sản xuất các hộ gia đình. 4.2. Quan điểm định hướng cải thiện bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất 3.4.2. Những khía cạnh hạn chế và nguyên nhân Thứ nhất: Thực hiện bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai là một “mắt xích” quan Thứ nhất, các hộ gia đình chủ hộ là nữ hiện đang nắm giữ và quản lý đất đai trọng nhất trong quá trình đạt được bình đẳng giới nói chung và giảm nghèo bền vững. chiếm tỷ lệ thấp Thứ hai: Thực hiện bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai phải tiến hành đồng Thứ hai, bất bình đẳng giới tồn tại trong tất cả các hình thức tiếp cận với đất sản bộ với việc tăng cường bình đẳng giới trong các lĩnh vực khác xuất, đặc biệt các hộ gia đình có chủ hộ nữ gặp bất lợi nhất trong kênh thừa kế từ gia đình Thứ ba: Thực hiện bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai gắn liền với mở rộng Thứ ba, Các chủ hộ nữ gặp bất lợi lớn hơn tương đối trong việc được bảo đảm cơ hội tiếp cận đất sản xuất chung cho cả hai giới quyền sử dụng đất so với nam giới, điều này khiến các chủ hộ nữ dễ bị tổn thương Thứ tư: Lấy hiệu quả sử dụng đất và nâng cao thu nhập hộ gia đình là dấu hiệu hơn trong khả năng được sử dụng đất cho sản xuất. hoàn thiện các chính sách thực hiện bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất
  12. 23 24 Thứ năm: Thực hiện chính sách bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai phải chú KẾT LUẬN trọng yếu tố đặc trưng vùng miền và văn hóa Thứ sáu: Mục tiêu cải thiện tình trạng bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản Luận án, với đề tài “Bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất ở Việt Nam” đã xuất trong thời gian tới trước hết là tập trung vào khắc phục những điểm bất cập đang hệ thống hóa được các tài liệu nghiên cứu trước đó trong lĩnh vực để đưa ra khung lý trở nên phổ biến hiện nay ở Việt Nam thuyết bao gồm nội dung, các khía cạnh và tiêu chí đánh giá, các yếu tố tác động tới 4.3. Khuyến nghị giải pháp tăng cường bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai với tư cách là yếu tố nguồn lực sản xuất. Đồng 4.3.1. Hoàn thiện thể chế chính thức đảm bảo bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai thời, dựa trên khung lý thuyết đó, với việc sử dụng cách tiếp cận nghiên cứu định - Luật Đất đai và luật Dân sự được điều chỉnh theo hướng đảm bảo quyền bình lượng thông qua kết hợp phương pháp thống kê mô tả và mô hình kinh tế lượng dựa đẳng giới trong tiếp cận đất đai trên nguồn dữ liệu thứ cấp điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) để phân - Các văn bản dưới luật được hoàn thiện theo hướng ban hành các qui định chặt tích hiện trạng, cũng như chỉ ra các yếu tố tác động tới bình đẳng giới trong tiếp cận chẽ đảm bảo quyền bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai đất đai ở Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra một số khuyến nghị chính sách cải thiện 4.3.2. Đổi mới công tác truyền thông nâng cao nhận thức của xã hội về quyền bình bình đẳng giới trong tiếp cận đất đai thời gian tới. đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất Tuy luận án đã đạt được những mục tiêu nghiên cứu đề ra, song tác giả luận án - Xác định đúng nhóm đối tượng cần truyền thông cho rằng, vì nhưng lý do cả khách quan và chủ quan, luận án còn những điểm hạn chế - Xây dựng nội dung truyền thông phù hợp với đối tượng và bất cập: - Cách thức truyền thông phù hợp với nội dung và đối tượng cần truyền thông (i) Các kết luận của luận án về thực trạng bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản - Thời điểm thực hiện hoạt động truyền thông phù hợp với nội dung và đối xuất ở Việt Nam được đưa ra trên cơ sở xem xét sự khác biệt trong tiếp cận đất đai của các hộ gia đình theo giới tính của chủ hộ, điều này không phản ánh được hết tượng cần truyền thông những khác biệt trong cơ hội tiếp cận của phụ nữ và nam giới nói chung và đồng thời - Đảm bảo ngân sách thực hiện hoạt động truyền thông cũng che lấp sự phức tạp của cac mối quan hệ giới tính bên trong hộ. 4.3.3. Nâng cao năng lực tự thân của phụ nữ (ii) Bên cạnh đó, dữ liệu điều tra mức sống hộ gia đình (VHLSS) mặc dù là - Tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật và các dịch vụ pháp lý liên quan đến nguồn dữ liệu có chất lượng, mang tính đại diện cả nước, song dữ liệu này không đất đai cũng như quyền bình đẳng giới cho phụ nữ cung cấp các thông tin chi tiết, do đó, dựa vào bộ số liệu này, luận án chưa thực hiện - Tiếp tục thực hiện bình đẳng giới trong giáo dục, đặc biệt ở các cấp học cao được đầy đủ các nội dung phân tích để đánh giá toàn diện và sâu hơn các khía cạnh - Khuyến khích phụ nữ tham gia đào tạo nghề, chuyển đổi cơ cấu việc làm tiếp cận đất sản xuất của các hộ gia đình. - Hỗ trợ tài chính và kỹ thuật sản xuất cho các nữ làm chủ hộ gia đình (iii) Việc sử dụng duy nhất cách tiếp cận phân tích định lượng cũng hạn chế - Có cơ chế tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích các chủ hộ nữ quản lý đất việc đưa ra được những minh chứng cụ thể mang tính thực tiễn khi giải thích các yếu tham gia cánh đồng mẫu lớn tố ảnh hưởng tới khía cạnh nghiên cứu. 4.3.4. Tổ chức thực hiện và theo dõi, đánh giá thực hiện các chính sách liên quan (iv) Nghiên cứu mới dừng ở việc đánh giá thực trạng bình đẳng giới trong tiếp đến quyền bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất cận đất sản xuất và các nguyên nhân đây ra bất bình đẳng giới trong lĩnh vực này mà 4.3.5. Thúc đẩy hoạt động của thị trường đất đai chưa đánh giá tác động của bất bình đẳng giới trong tiếp cận đất sản xuất tới thu nhập - Cải cách thủ tục hành chính quản lý đất nhằm kích hoạt và thúc đẩy hoạt động có của hộ gia đình cũng như các khía cạnh phúc lợi khác. hiệu quả của thị trường đất nông nghiệp chính thức ở khu vực nông thôn. Những hạn chế trên đây sẽ là chủ đề cho hướng nghiên cứu tiếp theo của tác - Cần có cơ chế khuyến khích sự phát triển của thị trường thuê/ cho thuê đất giả trong quá trình theo đuổi hướng nghiên cứu về bình đẳng giới- một hướng nghiên sản xuất hơn là thị trường mua bán quyền sử dụng đất cứu ngày càng được quan tâm cả về lý luận và thực tiễn của lĩnh vực Kinh tế phát - Cân nhắc việc dỡ bỏ chính sách hạn điền đối với việc sử dụng đất nông nghiệp triển. Tác giả rất mong muốn nhận được ý kiến đóng góp và sự giúp đỡ tích cực của các chuyên gia, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước để hoàn thiện và phát triển thêm nghiên cứu của mình.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2