intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố tác động đến việc vận dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

58
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án được thực hiện nhằm xác định các nhân tố tác động và mức độ tác động của từng nhân tố đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam. Từ việc nhận diện nhân tố tác động và mức độ tác động của chúng, luận án gợi ý một số chính sách cần thiết nhằm nâng cao tính khả thi của việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam, để từ đó có thể giúp các DNNVV tại Việt Nam hoàn thiện và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trong sân chơi hội nhập quốc tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố tác động đến việc vận dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam

  1. 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH  TRẦN NGỌC HÙNG CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC VẬN DỤNG KẾ TOÁN QUẢN TRỊ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI VIỆT NAM TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2016
  2. 2 Công trình này được hoàn thành tại: Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. TRẦN VĂN THẢO 2. TS. ĐOÀN NGỌC QUẾ Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp nhà nước họp tại: Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, vào hồi giờ, ngày tháng năm 2016 Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện Quốc gia hoặc thư viện Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
  3. 3 PHẦN MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Trong quá trình hội nhập vào “Thế giới phẳng” theo xu hướng toàn cầu hoá, môi trường kinh doanh truyền thống ngày càng có nhiều đối thủ tham gia, thay đổi nhanh hơn và ngày càng trở nên khó lường hơn bao giờ hết (Thomas Friedman, 2005). Tuy nhiên, việc môi trường kinh doanh thay đổi đem lại cả nguy cơ lẫn cơ hội cho các doanh nghiệp cũng như các ngành kinh tế. Doanh nghiệp đứng trước sự lựa chọn hoặc là tự đào thải, hoặc là thay đổi để kịp nhịp phát triển: thay đổi về cấu trúc doanh nghiệp, về chiến lược cũng như triết lý quản trị; điều này làm cho doanh nghiệp ngày càng thích ứng tốt hơn, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng nhanh hơn thông qua các quyết định kịp thời (Langfield-Smith & ctg, 2009). Khi bắt đầu xu hướng hội nhập, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) nói riêng đứng trước những cơ hội và thách thức mới. Với quy mô sản xuất nhỏ, tiếp cận nguồn vốn khó khăn, sử dụng lao động trình độ thấp … đặc biệt là chưa quen vận dụng kế toán quản trị (KTQT) nên các DNNVV gặp nhiều bất lợi khi cạnh tranh với các công ty lớn, các tập đoàn nước ngoài. Theo các điều khoản chung khi tham gia vào WTO cũng như các tổ chức thương mại khác như ASEAN, hoặc là việc ký kết hiệp định thương mại tự do giữa VN và Liên minh kinh tế Á – Âu (vào ngày 29-5-2015 vừa qua) … thì theo lộ trình Việt Nam phải dỡ bỏ dần các hàng rào thuế quan khiến việc giao thương trở nên dễ dàng hơn. Tuy nhiên điều đó cũng có nghĩa là mức độ cạnh tranh sẽ trở nên gay gắt hơn (Ban Công tác về việc gia nhập WTO của Việt Nam, 2006). Tuy nhiên một vấn đề đáng quan ngại ở đây là nền kinh tế của Việt Nam lại chậm đổi mới từ bên trong do đặc thù chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Vì vậy các DNNVV không những không tận dụng được nhiều cơ hội mà lại phải đối diện với nhiều khó khăn do quá trình hội nhập tạo ra. Một khi môi trường kinh doanh thay đổi theo xu hướng hội nhập toàn cầu, một thách thức lớn đặt ra cho các nhà quản trị Việt Nam là phải vận dụng các công cụ kỹ thuật quản trị mới để ứng phó, nhằm gia tăng lợi thế cạnh tranh của DN mình. Chính vì vậy, hơn bao giờ hết các DNNVV cần phải nhanh chóng vận dụng KTQT để giúp các nhà quản trị có được các thông tin kịp thời và thích hợp, hữu hiệu, hiệu quả nhằm hỗ trợ quá trình ra quyết định. Tuy nhiên, với lịch sử hình thành kinh tế thị trường muộn so với các nước trên thế giới, việc giảng dạy đào tạo KTQT tại Việt Nam mới chỉ bắt đầu từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ 20, do đó hiện nay phần lớn bộ phận kế toán công tác tại các DNNVV tại Việt Nam vẫn còn bỡ ngỡ ít nhiều đối với việc vận dụng KTQT. Qua khảo sát sơ bộ của tác giả cũng như những nghiên cứu trước đây, cho đến nay việc vận dụng KTQT vào hoạt động quản trị trong các DNNVV vẫn còn nhiều vướng mắc, hệ quả tất yếu là thực trạng tỷ lệ vận dụng KTQT trong các DNNVV nói chung còn thấp, các công cụ kỹ thuật KTQT được vận dụng hầu hết là công cụ kỹ thuật truyền thống và hiệu quả đóng góp cho công tác quản trị chưa cao. Tuy nhiên trong thực tế việc vận dụng KTQT chịu sự tác động của
  4. 4 nhiều nhân tố bên trong lẫn bên ngoài doanh nghiệp, và các nhân tố này có thể làm gia tăng tính khả thi của việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam hoặc ngược lại. Do đó việc nghiên cứu nhằm nhận diện và lượng hóa mức độ tác động của từng nhân tố đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam là chủ đề rất quan trọng và hữu ích. Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn nội dung nghiên cứu “Các nhân tố tác động đến việc vận dụng kế toán quản trị trong các DNNVV tại Việt Nam” để thực hiện luận án của mình. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Luận án được thực hiện nhằm xác định các nhân tố tác động và mức độ tác động của từng nhân tố đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam. Từ việc nhận diện nhân tố tác động và mức độ tác động của chúng, luận án gợi ý một số chính sách cần thiết nhằm nâng cao tính khả thi của việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam, để từ đó có thể giúp các DNNVV tại Việt Nam hoàn thiện và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trong sân chơi hội nhập quốc tế. Để đạt được mục tiêu trên, tác giả đặt ra hai câu hỏi nghiên cứu như sau:  Q1: Thực trạng của việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam trong thời gian qua?  Q : Các nhân tố nào tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam, mức 2 độ tác động của từng nhân tố và mối tương quan giữa chúng với nhau? 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu của luận án là các DNNVV tại Việt Nam đã, đang hoặc sẽ có ý định vận dụng dụng KTQT. Qua đối tượng nghiên cứu này, luận án sẽ nhận diện các nhân tố nào tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam, mức độ tác động của từng nhân tố và mối tương quan giữa chúng với nhau 4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Có nhiều nhóm nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DN nói chung và DNNVV tại Việt Nam. Tuy nhiên, tác sẽ sẽ chọn lọc những nhóm nhân tố phù hợp hoặc mang tính chất đặc thù với nền kinh tế thị trường mới mở cửa của Việt Nam. Ngoài ra do hạn chế về thời gian và nguồn lực thực hiện của luận án, tác giả giới hạn phạm vi tiến hành khảo sát các DNNVV chủ yếu nằm tập trung ở hai thành phố lớn như TP HCM, Hà Nội và các tỉnh lân cận hai thành phố đó, mục đích để đa dạng hóa sự khác biệt về nhân tố văn hóa, cơ cấu tổ chức, chiến lược kinh doanh … giữa các vùng miền đặc trưng của Việt Nam. Bên cạnh đó tác giả sẽ lựa chọn ngẫu nhiên một số DNNVV tại các tỉnh, thành phố nhỏ có nền kinh tế chậm phát triển trên cả nước để đa dạng hóa sự khác biệt các đặc trưng cơ bản về quy mô, trình độ lực lượng lao động…Thời gian khảo sát trong vòng 12 tháng kể từ tháng 01 năm 2015.
  5. 5 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Luận án đã được thực hiện theo một quá trình xuyên suốt và áp dụng kết hợp hai phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng như sau: - Phương pháp định tính: dùng công cụ phỏng vấn kết hợp với xin ý kiến chuyên gia để xác định các nhóm nhân tố có thể tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam. Từ nội dung trao đổi, tác giả sẽ sử dụng kết quả thảo luận cuối cùng để làm cơ sở để xây dựng bảng câu hỏi phục vụ cho công tác khảo sát. - Phương pháp định lượng: dùng công cụ khảo sát để tập hợp các dữ liệu bằng cách chọn mẫu và gửi bảng khảo sát trực tiếp đến các đối tượng có liên quan đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam, từ đó tiếp tục dùng công cụ phần mềm SPSS để kiểm định dữ liệu được tập hợp từ các cuộc khảo sát để kiểm tra lại độ tin cậy của các thang đo các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam, đồng thời tìm ra các nhân tố mới và đo lường mức độ tác động của chúng. Các công cụ sử dụng bao gồm Chi bình phương (Chi-square), Conbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích hồi quy đa biến. 6. NHỮNG ĐIỂM MỚI VÀ CÁC ĐÓNG GÓP KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN 6.1. Những điểm mới của luận án Xem xét và đối chiếu với những nghiên cứu đã được các nhà khoa học trong nước thực hiện trước đây thì luận án đã thực hiện được một số điểm mới như sau: - Thứ nhất, khám phá thêm các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam. - Thứ hai, đo lường mức độ tác động của các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam bằng các phương pháp định tính và định lượng. - Thứ ba, từ những khám phá đó tác giả đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm làm gia tăng tính khả thi của việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam. 6.2. Các đóng góp khoa học của luận án Luận án là một công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc của tác giả. Kết quả nghiên cứu của luận án đã đóng góp khoa học một số điểm cơ bản như sau: - Một là, thông qua việc tổng hợp thực tiễn vận dụng KTQT trong các DNNVV tại một số quốc gia và khu vực, rút ra được những bài học kinh nghiệm cho việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam. - Hai là, thông qua kết quả nghiên cứu, tác giả đã đề xuất các giải pháp đồng bộ để góp phần làm gia tăng tính khả thi của việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam.
  6. 6 - Ba là, kết quả nghiên cứu này cũng góp phần làm tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích cho các nghiên cứu khoa học liên quan khác cũng như áp dụng trong thời gian tới tại những cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Việt Nam. 7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN  Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu có liên quan đến luận án.  Chương 2: Cơ sở lý thuyết về kế toán quản trị và các nhân tố tác động đến việc vận dụng kế toán quản trị vào DNNVV.  Chương 3: Thiết kế nghiên cứu.  Chương 4: Kết quả nghiên cứu và bàn luận.  Chương 5: Kết luận và kiến nghị. CHƯƠNG 1- TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1. CÁC NGHIÊN CỨU CÔNG BỐ Ở NƯỚC NGOÀI 1.1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu Mặc dù các DNNVV đóng vai trò quan trọng cả về mặt kinh tế và xã hội, tuy nhiên trên thế giới việc nghiên cứu về KTQT tại DNNVV được đánh giá là chưa đầy đủ (Marriott & Marriott, 2000; Mitchell & Reid, 2000). Các nghiên cứu liên quan đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV có thể tóm tắt ở một số mảng như sau: - Thứ nhất, các nghiên cứu tổng thể liên quan về sự thay đổi và nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi trong việc vận dụng KTQT trong các DN nói chung qua các giai đoạn phát triển của KTQT. - Thứ hai, các nghiên cứu liên quan về việc vận dụng KTQT trong các DNVVV. - Thứ ba, nghiên cứu về các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DN nói chung và DNNVV nói riêng. 1.1.2. Nhận xét Qua việc nghiên cứu các công trình nghiên cứu trên thế giới, tác giả nhận thấy các nghiên cứu trước đã chỉ ra được được tiến trình và xu hướng phát triển của KTQT từ việc vận dụng vào DN những công cụ kỹ thuật quản trị sơ lược ban đầu cho đến những hệ thống hoạch định phát triển phức tạp ngày nay, những thay đổi của KTQT để có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của DN và các nguyên nhân dẫn đến những sự thay đổi trong việc vận dụng KTQT vào DN nói trên. Ngoài ra, mặc dù trước đây chưa nhiều các nhà nghiên cứu quan tâm đến thực trạng vận dụng KTQT trong các DNNVV, tuy nhiên với sự gia tăng cạnh tranh do quá trình phẳng hóa thế giới mang lại, ngày càng có nhiều các nghiên cứu thực trạng vận dụng KTQT trong các DNNVV ở cả các nước đã và đang phát
  7. 7 triển. Các khảo sát nghiên cứu không những đã chỉ ra mức độ vận dụng cũng như các công cụ kỹ thuật được sử dụng trong các DNNVV mà bên cạnh đó, bằng các phương pháp định tính và định lượng, cũng đã chỉ ra một số các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT vào DN nói chung và các DNNVV nói riêng. 1.2. CÁC NGHIÊN CỨU CÔNG BỐ Ở TRONG NƯỚC 1.2.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu Theo các khảo sát, nghiên cứu về việc áp dụng KTQT vào DN Việt Nam nói chung và DNNVV nói riêng trong một giai đoạn dài từ 1997 cho đến 2010 (Phạm Văn Dược 1997, Trần Anh Hoa 2003, Phạm Ngọc Toàn 2010) thì cho đến nay các DN chưa chú trọng đến việc vận dụng các công cụ kỹ thuật của KTQT vào hoạt động quản lý DN, thậm chí ở một số các DNNVV còn chưa có khái niệm về vận dụng KTQT hoặc chưa có bộ máy KTQT riêng biệt để phục vụ cho nhu cầu quản trị của DN. 1.2.2. Nhận xét Tại Việt Nam, qua một quá trình nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển KTQT tại Việt Nam, các tác giả đã đề xuất các phương hướng về vận dụng và xây dựng KTQT tại các DN Việt Nam. Việc phân tích chi tiết và đưa ra các mô hình KTQT cho mỗi loại hình DN khác nhau về ngành nghề (sản xuất, thương mại), về quy mô (DNNVV, DN lớn) … đã giúp cho việc vận dụng KTQT vào các DN có được hướng đi rõ ràng hơn. Tuy nhiên cho đến nay tại Việt Nam vẫn còn thiếu các khảo sát chỉ ra các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam theo phương pháp định tính và định lượng, để từ đó có thể đưa ra các giải pháp nhằm gia tăng mức độ khả thi của việc vận dụng KTQT trong các DNNVV. 1.3. KHE HỔNG NGHIÊN CỨU VÀ ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ 1.3.1. Xác định khe hổng nghiên cứu Từ việc xem xét, đánh giá các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài tác giả nhận thấy việc vận dụng KTQT cho các DNNVV tại Việt Nam mặc dù có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần tạo nên sự thành công cho DNNVV tại Việt Nam trong kinh doanh nhưng còn vướng mắc là mặc dù tính cấp thiết cao nhưng hiện nay qua các cuộc khảo sát từ trước đến nay tỷ lệ vận dụng KTQT trong DNNVV lại thấp, đặc biệt là đối với DN nhỏ và siêu nhỏ. Hiện nay tại Việt Nam mặc dù đã có những nghiên cứu về việc vận dụng KTQT vào các DNNVV, tuy nhiên chưa có những nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng với độ tin cậy cao, có tính khách quan về các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam. Thay vào đó, các công trình chỉ mới tập trung vào việc xây dựng định hướng, xây dựng các mô hình vận dụng KTQT cho các loại hình DN khác nhau … trên quan điểm và kinh nghiệm của các tác giả. 1.3.2. Định hướng nghiên cứu của tác giả Từ việc xác định khe hổng nghiên cứu nói trên, trên quan điểm kế thừa và tiếp tục nghiên cứu về việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam, luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu một cách trực tiếp và
  8. 8 có hệ thống, đầy đủ về các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả cũng sẽ tiến hành đo lường mức độ tác động của các nhân tố đến việc vận dụng KTQT vào các DNNVV tại Việt Nam. Tác giả lần lượt thực hiện các bước nghiên cứu như sau: Thứ nhất, khảo sát về thực trạng vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam hiện nay. Thứ hai, khảo sát và tổng hợp các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam. Thứ ba, đo lường độ tin cậy và mức độ tác động của các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam. Thứ tư, đưa ra định hướng và giải pháp, kiến nghị nhằm gia tăng tính khả thi của việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1  CHƯƠNG 2 - CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ VÀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC VẬN DỤNG KẾ TOÁN QUẢN TRỊ VÀO DNNVV 2.1. TỔNG QUAN VỀ KTQT 2.1.1. Các khái niệm về KTQT Hầu hết các cuộc cách mạng về sự thay đổi khái niệm KTQT có thể phát triển dựa trên ba trường phái chính; đó là việc phát triển từ các khái niệm của Viện KTQT Hoa Kỳ (IMA), Viện điều lệ KTQT (CIMA) và Hiệp hội kế toán quốc tế (IFAC). Vào năm 1981, IMA đưa ra khái niệm đầu tiên của mình về KTQT dựa trên sự phản ánh về nhu cầu thay đổi của DN đối với thông tin kế toán; tuy nhiên gần đây nhất vào 2008, IMA đưa ra khái niệm về công việc của KTQT là: “… một công việc chuyên nghiệp có liên quan đến việc tham gia vào quá trình ra quyết định, đề ra kế hoạch và hệ thống thực hiện, đồng thời cung cấp những báo cáo tài chính chuyên nghiệp, giúp các nhà quản trị kiểm soát trong việc tạo lập và thực hiện chiến lược của tổ chức” (Anthony A.Atkinson et al., 2012). Sự thay đổi về mặt khái niệm KTQT của IMA phản ánh xu hướng thay đổi vai trò của KTQT ngày càng thể hiện vai trò là một nhân tố của chiến lược kinh doanh nhằm giúp DN quản trị hiệu suất DN, lập kế hoạch và dự toán, quản trị rủi ro, kiểm soát nội bộ, lập báo cáo tài chính ở những thời điểm có sự thay đổi lớn, và thể hiện vai trò chuyên gia trong các phương pháp quản trị chi phí (IMA, 2008). Còn theo CIMA (CIMA, 1986, 10) thì đưa ra khái niệm về KTQT như là việc cung cấp thông tin cho các nhà quản trị nhằm các mục đích: tạo lập các chính sách, hoạch định và kiểm soát các hoạt động của DN, ra quyết định dựa trên các lựa chọn khác nhau, việc chuẩn bị các báo cáo tài chính cho các nhóm đối tượng bên ngoài như cổ đông, chủ nợ, các cơ quan thuế… Sau này trong quá trình hiệu chỉnh lại các thuật ngữ KTQT (CIMA, 2005, 18) thì vai trò của KTQT đã có nhiều bước tiến và thể hiện một vai trò rộng hơn. Nó được khái niệm lại như là việc áp dụng các nguyên lý kế toán và quản trị tài chính nhằm tạo ra, bảo vệ, duy trì lâu dài và gia tăng giá trị của cổ động và các bên có liên quan trong các DN hoạt động vì lợi nhuận và phi lợi nhuận, trong khu vực tư nhân hay khu vực công. Theo
  9. 9 đó, CIMA đã khái niệm lại KTQT một cách chi tiết hơn, nhấn mạnh rằng KTQT là một phần quan trọng của quá trình quản trị trong đó bao gồm việc nhận diện, tạo ra, trình bày, diễn giải các thông tin thích hợp. Sự thay đổi về khái niệm KTQT của CIMA thể hiện rằng KTQT đã tiến đến gần hơn mối quan tâm của các nhà quản trị cấp cao về việc tập trung vào tính hiệu quả, hoạch định chiến lược và tạo ra giá trị. Và đến nay, xu hướng của năm 2015 thì CIMA đã đưa ra khái niệm KTQT đơn giản là bao hàm kế toán, tài chính và quản trị với những công cụ quản lý hàng đầu (CIMA, 2015). Tương tự IFAC đưa ra khái niệm lần đầu vào năm 1989 thì KTQT “… là một quá trình nhận diện, đo lường, tổng hợp, phân tích, chuẩn bị, diễn giải và truyền đạt các thông tin (cả về tài chính lẫn hoạt động) được sử dụng bởi các nhà quản lý nhằm mục đích hoạch định, đo lường và kiểm soát một tổ chức, và để đảm bảo rằng nguồn lực của tổ chức đó được sử dụng một cách phù hợp và có trách nhiệm”. Khái niệm này cũng tương tự như khái niệm truyền thống ban đầu của các tổ chức khác như IMA. Tuy nhiên sau đó 9 năm, vào năm 1998 thì IFAC đã hiệu chỉnh lại, mở rộng đáng kể vai trò của KTQT trong khái niệm mới của mình. Theo đó, KTQT được xem xét như các hoạt động gắn bó, đan xen với tất cả các hoạt động quản trị của tổ chức. Hay nói cách khác, KTQT hướng đến vai trò quản trị nhằm tập trung vào việc tạo ra giá trị cho tổ chức bằng cách sử dụng hiệu quả các nguồn lực với các con người năng động trong những tình huống cạnh tranh. Và sau này theo khái niệm mới về KTQT của IFAC (2002) thì “…KTQT hướng về các quá trình xử lý và kỹ thuật, tập trung vào việc sử dụng một cách có hiệu quả và hiệu suất những nguồn lực của tổ chức, giúp hỗ trợ các nhà quản lý hoàn thành nhiệm vụ gia tăng giá trị cho khách hàng cũng như cổ đông” (Langfield-Smith & ctg., 2009, 6). Theo luật kế toán Việt Nam, KTQT được định nghĩa là “…việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán” (Luật kế toán, khoản 3, điều 4). 2.1.2. Vai trò, chức năng của KTQT Ngày nay trong các DN, KTQT ngày càng đóng vai trò quan trọng trong công tác quản lý. Theo IFAC thì vai trò KTQT thể hiện như một phần không thể tách rời của quy trình quản trị với vai trò cung cấp thông tin cần thiết để kiểm soát những hoạt động hiện tại của DN, hoạch định chiến lược, chiến thuật và hoạt động tương lai của DN; tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn lực; đo lường và đánh giá hoạt động của DN; giảm thiểu tính chủ quan trong quá trình ra quyết định và cải thiện hoạt động giao tiếp trong và ngoài DN (IFAC, 1998,99). Hầu hết các lý thuyết của KTQT đều đề cập đến các chức năng như hoạch định, kiểm soát, đánh giá hiệu quả quản lý, cải thiện và phát triển các chiến lược cạnh tranh, ra quyết định như là những chức năng chính của KTQT để đạt được mục tiêu của công ty (Scapens, 1991; Weetman, 1999; Upchurch, 1998; Atkinson &ctg., 2001). Theo Ersnt & Young và IMA thì “… Các kế toán quản trị viên ngày càng được xem như là những nhà đối tác kinh doanh chứ không còn đơn thuần là những người giữ sổ sách như trước kia nữa, và họ ngày càng tập trung nhiều hơn vào các vấn đề chiến lược chính, vượt ra khỏi giới hạn của kế toán tài chính …” (Ersnt & Young và IMA, 2003, 1). Điều này thể hiện ở việc
  10. 10 vai trò của các nhân viên kế toán quản trị ngày càng thoát ly ra khỏi chức năng truyền thống từ người “giữ sổ sách” hay “người kiểm soát” chuyển dần sang vai trò hỗ trợ kinh doanh hay nhà tư vấn kinh doanh nội bộ. Trong nghiên cứu của mình gần đây, Valančienė và Gimžauskienė (2007) đã kết luận rằng KTQT hiện đại mở rộng vai trò từ tích hợp số liệu sang vai trò cung cấp thông tin cho việc triển khai chiến lược. Và trọng tâm trước đây của KTQT là hướng đến cổ đông thì giờ hướng đến tổ hợp giải pháp hướng đến cả khách hàng – nhân viên – cổ đông. Nhóm giải pháp này hướng đến việc giám sát thường xuyên, đo lường và quản trị lợi thế chiến lược và kết quả trong tương lai (bằng cách phân bổ chiến lược thành những mục tiêu phù hợp, những thước đo cụ thể bằng bản đồ chiến lược). 2.1.3. Nội dung KTQT Hệ thống KTQT là một hệ thống thông tin nơi tạo ra các thông tin để đáp ứng yêu cầu của các nhà quản trị nhằm mục đích tạo ra giá trị và quản lý các nguồn lực. Nó góp phần tạo nên một hệ thống thông tin rộng khắp toàn DN, bao gồm các thông tin thường xuyên cũng như các thông tin phục vụ cho các mục đích đặc biệt như đánh giá, đo lường, hoạch định, kiểm soát một hoặc nhiều loại sản phẩm, dịch vụ nào đó. Chính vì vậy, hệ thống thông tin KTQT không thể có khả năng đáp ứng được toàn bộ các yêu cầu về thông tin của các nhà quản trị để ra quyết định, thay vào đó những thông tin này có thể phải tìm kiếm từ những nguồn khác, thậm chí là bên ngoài DN (Langfield-Smith 2012, 6- 9). Theo cách tiếp cận của Hiệp hội kế toán công chứng Anh Quốc (ACCA F5 – 2014) thì nội dung của KTQT trong DN có thể tóm tắt ở bốn mảng sau: chi phí và các công cụ kỹ thuật KTQT; các công cụ kỹ thuật ra quyết định; dự toán và kiểm soát; đo lường hiệu quả hoạt động và kiểm soát. 2.2. Một số đặc điểm của DNVVN 2.2.1. Khái niệm DNNVV Cho đến nay, trên thế giới vẫn chưa có sự thống nhất về khái niệm thế nào gọi là DNNVV, mà khái niệm này được xác định bởi các tiêu chí khác nhau theo từng quốc gia, từng ngành công nghiệp khác nhau. Do đó, khái niệm DNNVV trên thế giới có thể được xác định bởi các tiêu thức như: vị trí địa lý, quy mô, số năm thành lập, cấu trúc DN, số lượng nhân viên, doanh thu, tài sản ròng, cấu trúc sở hữu, đổi mới công nghệ … (Deros et al., 2006). Ở Việt Nam, theo nghị định số 56/2009/NĐ-CP của Chính Phủ ban hành ngày 30 tháng 6 năm 2009, DNNVV được chia theo ngành, bao gồm: nông, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp và xây dựng; thương mại và dịch vụ. Bên cạnh đó, tiêu thức chủ yếu để phân loại DNNVV ở Việt Nam là số lao động và số vốn, tuy nhiên cũng không nói rõ là số lao động bình quân hay số lao động tại thời điểm phân loại (vì đây là một tiêu thức gần như liên tục biến động trong năm kinh doanh); cũng như chưa phân biệt rõ được số vốn là vốn kinh doanh đăng ký trên giấy phép hay vốn hoạt động bình quân của DN. 2.2.2. Một số đặc điểm của DNVVN tại Việt Nam
  11. 11 Một cách tổng thể, các DNNVV tại Việt Nam có một số đặc điểm chung nổi bật như: chủ yếu là DN ngoài quốc doanh, trình độ năng lực quản lý của các nhà quản trị ở DNNVV cũng như trình độ tay nghề của người lao động còn thấp, áp dụng công nghệ lạc hậu, năng suất thấp, khả năng tiếp cận và gia nhập thị trường của DNNVV còn thấp, có quy mô nhỏ xét về chỉ tiêu số lượng lao động và khả năng tài chính còn hạn chế … 2.2.3. Thực trạng những khó khăn, thuận lợi khi vận dung KTQT tại các DNNVV tại Việt Nam Xét về tổng thể, với hệ thống chính trị tương đối ổn định, nên hầu như các DN Việt Nam nói chung và các DNNVV nói riêng không bị ảnh hưởng nhiều do sự bất ổn của việc thay đổi từ các chính sách điều hành vi mô – vĩ mô tác động. Thời gian qua cũng như sắp tới, cùng với hàng loạt hiệp định thương mại chuẩn bị được ký kết như TPP, các FTA ký kết giữa khối ASEAN và EU, RCEP (ASEAN+ 6), giữa Việt Nam và Hàn Quốc, Nhật Bản … sẽ tạo ra hàng loạt cơ hội giao thương làm ăn cho các DN Việt Nam nói chung và các DNNVV nói riêng. Bên cạnh đó, lực lượng lao động của Việt Nam thuộc thành phần lao động trẻ, có tri thức, được đào tạo bài bản tại các trường đại học, cao đẳng chuyên nghiệp ngày càng nhiều. Điều này giúp cho các DNNVV thuận lợi trong việc trẻ hóa và nâng cao trình độ năng lực đội quản trị của DN mình, mà còn có thể tận dụng được nguồn nhân công giá rẻ. Về mặt khó khăn, do ảnh hưởng tình hình kinh tế toàn cầu nói chung cũng như nền kinh tế Việt Nam nói riêng, các DNNVV tại Việt Nam cũng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn thách thức. Các khó khăn xuất phát không chỉ từ phía áp lực cạnh tranh từ bên ngoài, mà còn xuất phát từ nội tại của chính các DN. Xét về tổng thể, tình hình kinh tế - xã hội năm 2014 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới hồi phục chậm và không đồng đều giữa các nền kinh tế sau suy thoái toàn cầu. Ngoài ra, tình hình giao thương với một số quốc gia trên thế giới như Nga, các nước trong khối liên minh EU … ít nhiều bị tác động bởi tình hình chính trị bất ổn tại một số quốc gia, nhất là khu vực châu Âu dẫn đến kinh doanh trong lĩnh vực thương mại và công nghiệp cũng như xuất khẩu của khu vực đồng EURO bị ảnh hưởng mạnh bởi các biện pháp trừng phạt kinh tế giữa các nước trong khu vực. 2.3. Các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong DN Từ các kết quả nghiên cứu về việc vận dụng KTQT trên thế giới, có thể rút ra và tổng hợp một số mô hình các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT như sau: Thứ nhất, quy mô DN là một nhân tố quan trọng được cho là có sự tác động đến cả cấu trúc lẫn các sự sắp xếp về mặt kiểm soát trong DN. Thứ hai, nhân tố mức độ cạnh tranh của thị trường cũng được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến mặc dù kết quả trái ngược nhau. Thứ ba, nhân tố thiết kế tổ chức phân quyền được kiểm định chỉ ra tác động đến việc vận dụng KTQT theo hướng là trong DN có tổ chức phân quyền thì lựa chọn các công cụ kỹ thuật KTQT phức tạp hơn so với DN có tổ chức tập quyền. Thứ tư, nhân tố nguồn lực khách hàng được kiểm định chỉ ra tác động đến việc vận dụng KTQT theo hướng là khi DN phải đối mặt với nguồn lực khách hàng càng mạnh thì càng phải lựa chọn vận dụng
  12. 12 KTQT ở mức độ phức tạp hơn nhằm cải thiện quá trình ra quyết định và kiểm soát, để có thể đáp ứng được việc duy trì sự thỏa mãn yêu cầu của khách hàng (Abdel-Kader và Luther, R., 2008). Thứ năm, nhân tố tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư ngoại trong DN được kiểm định chỉ ra tác động đến việc vận dụng KTQT theo hướng là khi có sự tham gia của của các nhà đầu tư ngoại, DN sẽ sử dụng nhiều công cụ kỹ thuật KTQT hơn so với những DN không có sự tham gia của các nhà đầu tư ngoại. Thứ sáu, nhân tố ngành nghề kinh doanh/các nhân tố kỹ thuật sản xuất tiên tiến (ATM), kỹ thuật quản trị toàn diện (TQM), kỹ thuật quản trị Just in time … theo lý thuyết ngẫu nhiên đó là các nhân tố quan trọng tác động đến việc vận dụng KTQT. Thứ bảy, nhân tố nhận thức về sự bất ổn của môi trường tác động đến việc vận dụng KTQT theo hướng là khi DN đối mặt với sự bất ổn cao của môi trường thì DN có xu hướng áp dụng tổ chức phân quyền, và kết quả là phải vận dụng KTQT ở mức độ phức tạp hơn. Thứ tám, khi nghiên cứu về tác động của nhân tố văn hóa DN đến việc vận dụng KTQT, AlperErserim (2012) đã chỉ ra rằng các loại hình văn hóa DN như: văn hóa hỗ trợ; văn hóa cải tiến và văn hóa quản lý theo mục tiêu có tác động đến việc vận dụng KTQT. Thứ chín, khi nghiên cứu về nhân tố chiến lược kinh doanh, rất nhiều tác giả đã chỉ ra rằng có sự tác động của nhân tố này lên việc vận dụng KTQT (Langfield-Smith, 1998b; Baines &Langfield-Smith, 2003; Perera et al., 2007; Tuan Zainun Tuan Mat & Malcolm Smith 2014). Thứ mười, trong DNNVV sự hiện diện của các nhân viên kế toán có đủ trình độ chuyên môn là một nhân tố quan trọng tác động đến việc vận dụng KTQT. 2.4. MỘT SỐ LÝ THUYẾT NỀN TẢNG CÓ LIÊN QUAN CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VIỆC VẬN DỤNG KTQT Trong các thập niên vừa qua, có rất nhiều các nghiên cứu trên thế giới dựa trên các lý thuyết được xây dựng nhằm diễn tả các mối liên quan giữa các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong DN. Trong luận án của mình tác giả lựa chọn bốn lý thuyết tiêu biểu để làm nền tảng cơ bản cho nghiên cứu là lý thuyết về mối quan hệ lợi ích – chi phí (cost benefit theory), lý thuyết bất định của các tổ chức, lý thuyết đại diện và lý thuyết về tâm lý xã hội. 2.5. So sánh về nội dung, điều kiện, nhân tố ảnh hưởng vận dụng KTQT cho DNNVV với DN nói chung Xét về tổng thể về nội dung vận dụng KTQT, so với các DN lớn thì các DNNVV thường có xu hướng vận dụng các công cụ kỹ thuật đơn giản hơn, còn các công cụ kỹ thuật như ABC, phân tích biến động, nghiên cứu thị trường và các kỹ thuật cao cấp khác thường chỉ được sử dụng bởi một số ít các DN lớn (Druty et al., 1993). Phần lớn các DNNVV thường chỉ chú ý vào các con số trong báo cáo mà bỏ qua việc đánh giá, và thay vì sử dụng hệ thống thông tin quản trị thì công cụ Microsof Excel được sử dụng. Hơn một nửa số DNNVV được khảo sát đều xác nhận không hề sự dụng các công cụ quản trị chiến lược, các chỉ số phi tài chính … mà thay vào đó lại đánh giá rất cao vai trò của các công cụ hoạt động đơn giản như dự toán, phân tích điểm hòa vốn, các chỉ số thể hiện hiệu quả …
  13. 13 Thông thường DNNVV hay gặp khó khăn do thiếu thốn về mặt nguồn lực, nên việc tuyển dụng một KTQT viên chuyên nghiệp, làm việc toàn thời gian về mảng KTQT là điều ít xảy ra. Thay vào đó nhân sự này hay kiêm nhiệm nhiều công tác khác nhau hoặc có thể thiếu các kỹ năng của một KTQT viên chuyên nghiệp. Và sau này theo như nghiên cứu của CIMA (Michael Lucas & ctg., 2013) về thực trạng vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Anh đã chỉ ra rằng trong các DNNVV thì người chủ/người điều hành DN thường đảm trách luôn công tác KTQT. trong khi đó với nguồn lực tài chính hùng mạnh của mình, các DN lớn thường tổ chức KTQT thành các bộ phận chức năng riêng biệt với bộ máy nhân sự riêng biệt chuyên trách do đó hiệu quả của việc vận dụng KTQT mang lại thường cao hơn. Việc thiếu thốn về mặt nguồn lực không chỉ ảnh hưởng đến nhân sự làm công tác KTQT, mà còn ảnh hưởng đến hệ thống dữ liệu. Nó gây ra sự thiếu hụt các quy trình xử lý phức tạp trong KTQT hay sự thiếu hụt hệ thống hoạch định tài nguyên doanh nghiệp (ERP) trong việc cung cấp dữ liệu cho hoạt động kế toán. Từ đó dẫn đến các thông tin cung cấp cho nhà quản trị sẽ kém giá trị trong việc hỗ trợ ra quyết định về hoạch định và kiểm soát. Ngoài ra, sự thiếu hụt về các lời tư vấn chuyên nghiệp sẽ khiến cho các quyết định về tài chính dựa chủ yếu trên các ý kiến cá nhân (Michael Lucas & ctg., 2013). Một vấn đề khác cũng do việc thiếu hụt nguồn lực gây ra là các DNNVV thường thiếu định hướng về mặt chiến lược cũng như theo dõi quá trình triển khai chiến lược. Điều này xảy ra do hạn chế về mặt quy mô, năng lực nên các DNNVV thường hướng sự tập trung của DN mình vào các hoạt động kinh doanh hàng ngày mà bỏ qua các định hướng lâu dài. Hệ quả tất yếu là các quyết định đầu tư của DNNVV thường được đưa ra dựa trên kinh nghiệm của nhà quản lý, và các dự toán dài hạn về vốn đầu tư thường hay bị bỏ qua, tuy nhiên điều này rất nguy hiểm đến sự tồn tại lâu dài của các DNNVV (Daniela Wiedemann, 2014). Một vấn đề khác của việc vận dụng KTQT trong DNNVV chính là nhận thức hay hiểu biết của người chủ đối với sự đóng góp của KTQT trong thành công của DN. Rất nhiều người chủ muốn giữ lại sự kiểm soát của mình đối với DN, nên không muốn tuyển dụng KTQT viên chuyên nghiệp. Bản thân người chủ trong trường hợp này muốn tự thân mình phân tích dữ liệu DN vì cho rằng các báo cáo của KTQT viên quá tóm lược và không phản ánh toàn bộ bức tranh tổng thể về hoạt động kinh doanh của DN. Bên cạnh đó, việc vận dụng KTQT tại các DNNVV thường hay gặp thái độ ngờ vực, dè chừng từ phía các nhà quản lý và các nhân viên. Sự ngờ vực hay dè chừng này có thể xuất phát từ việc cảm thấy bị đe dọa về quyền lực, hoặc đơn giản là nhân viên cảm thấy bị giao thêm công việc mà không được tưởng thưởng gì thêm, từ đó dẫn đến thái độ không tin tưởng hay chỉ trích … (Michael Lucas & ctg., 2013). KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
  14. 14 CHƯƠNG 3: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU 3.1. QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU 3.1.1. Thiết kế nghiên cứu Quá trình thực hiện nghiên cứu bao gồm hai bước chính: (1) nghiên cứu tổng quát và (2) nghiên cứu chi tiết. Ở bước nghiên cứu tổng quát tác giả sử dụng phương pháp định tính để khám phá các nhân tố (các biến quan sát) tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam, điều chỉnh và bổ sung chúng thông qua kỹ thuật thảo luận nhóm và lấy kiến kiến chuyên gia. Đến bước nghiên cứu chi tiết thì tất cả các biến sẽ được phân tích theo phương pháp định lượng thông qua các kỹ thuật bao gồm: tập hợp dữ liệu khảo sát bằng cách chọn mẫu và gửi bảng khảo sát trực tiếp đến các đối tượng có liên quan đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam, kiểm tra lại mô hình đo lường, mô hình lý thuyết cũng như các giả thuyết trong mô hình thông qua các mô hình hồi quy tuyến tính và kỹ thuật phân tích nhân tố khám phá (EFA). Như vậy, các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng để giải quyết từng câu hỏi nghiên cứu như sau: (1) Để mô tả và đánh giá “thực trạng vận dụng KTQT và các nhân tố tác động đến vận dụng KTQT của các DNNVV tại Việt Nam thời gian qua”, luận án tiến hành tổng hợp các nghiên cứu trước đây trên thế giới và ở Việt Nam có liên quan, sau đó tiến hành tập hợp các nhân tố tác động thông qua các kỹ thuật phỏng vấn chuyên gia, thảo luận nhóm ... Từ đó tiếp tục hiệu chỉnh các nhân tố tác động để đảm bảo phù hợp với các đặc điểm của DNNVV Việt Nam. (2) Để trả lời câu hỏi “những nhân tố nào tác động đến việc vận dụng KTQT của các DNNVV Việt Nam, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố và mối tương quan giữa chúng với nhau?”, dựa trên kết quả thu thập được ở bước nghiên cứu tổng quát, luận án tiến hành kiểm tra lại mô hình đo lường, độ tin cậy của các biến trong mô hình thông qua các mô hình hồi quy tuyến tính và kỹ thuật phân tích nhân tố khám phá (EFA). Sau đó, dựa vào kết quả nghiên cứu thu được ở trên thông qua khảo sát đánh giá của DNNVV tại Việt Nam, luận án sẽ đề ra các giải pháp nhằm nâng cao tính khả thi của việc vận dụng KTQT tại các DNNVV tại Việt Nam. 3.1.2. Khung nghiên cứu Khung nghiên cứu của luận án được xác định như sau: +Xác định nội dung nghiên cứu: nội dung nghiên cứu của luận án là xác định các nhân tố tác động đến vận dụng KTQT tại các DNNVV tại Việt Nam. Từ đó tiếp tục kiểm định, đo lường mức độ tác động của từng nhân tố. + Lý thuyết nghiên cứu: dựa trên các lý thuyết nền tảng có liên quan đến việc vận dụng KTQT là lý thuyết bất định, lý thuyết đại diện, lý thuyết xã hội học và lý thuyết quan hệ lợi ích – chi phí; tác giả đồng thời tham khảo thêm các nghiên cứu trước của các tác giả trên thế giới có liên quan đến việc vận dụng KTQT trong DNNVV.
  15. 15 + Xây dựng mô hình nghiên cứu: từ việc xác định nội dung nghiên cứu và tổng hợp lý thuyết cũng như các nghiên cứu trước kia, tác giả đồng thời tiến hành xin ý kiến chuyên gia. Sau đó tổng hợp và hiệu chỉnh các nhân tố sao cho phù hợp với đặc điểm của DNNVV Việt Nam và tiến hành đề xuất mô hình nghiên cứu của luận án. Mô hình nghiên cứu đề xuất này sẽ được đem ra bàn luận để hoàn thiện về mặt nội dung trước khi kiểm định. + Ứng dụng phương pháp nghiên cứu định tính: các kỹ thuật của phương pháp sẽ được áp dụng như kỹ thuật phỏng vấn sâu, kỹ thuật xin ý kiến chuyên gia nhằm hoàn thiện hơn mô hình nghiên cứu. Từ đó tiến hành tổng hợp và xây dựng các thang đo để làm cơ sở tiến hành phương pháp nghiên cứu định lượng. + Ứng dụng phương pháp nghiên cứu định lượng: dựa trên mô hình nghiên cứu đề xuất và các thang đo đã xây dựng, tác giả tiến hành kiểm lại độ tin cậy của các thang đo (Cronbach Alpha), áp dụng kỹ thuật phân tích nhân tố khám phá EFA và kỹ thuật phân tích hồi quy tuyến tính. Quy trình nghiên cứu các nhân tố tác động đến vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam Cơ sở lý Thảo luận nhóm Thang đo Thang đo chính thức thuyết (n = 9) nháp Nghiên cứu định lượng (n = 290) -Kiểm tra hệ số Cronbach Đo lường độ tin cậy Alpha biến tổng Cronbach Alpha -Loại các biến có hệ số tương quan biến tổng nhỏ Kiểm tra phương sai trích Phân tích nhân tố khám Kiểm tra các nhân tố rút trích phá EFA Loại các biến có mức tải nhân tố nhỏ Phân tích mô hình hồi quy đa biến 3.2. XÂY DỰNG MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VẬN DỤNG KTQT TRONG DNNVV Dựa vào các lý thuyết nền tảng và các nghiên cứu trước đây trên thế giới về các nhân tố tác động việc vận dụng KTQT trong DN nói chung và DNNVV nói riêng, tác giả xây dựng mô hình nghiên cứu ban đầu bao gồm 10 nhân tố tác động việc vận dụng KTQT trong DNNVV Việt Nam như sau: nhân tố thiết kế tổ chức phân quyền, nhân tố nguồn lực khách hàng, nhân tố tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư NN trong DN, nhân tố ngành nghề kinh doanh, nhân tố nhận thức về sự bất ổn của môi trường, nhân tố trình độ
  16. 16 nhân viên kế toán DN, nhân tố quy mô DN, nhân tố văn hóa DN, nhân tố chiến lược DN, nhân tố mức độ cạnh tranh của thị trường. 3.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH 3.3.1. Thiết kế nghiên cứu định tính Để thực hiện nghiên cứu định tính, tác giả tiến hành Phỏng vấn sâu để tìm hiểu các chủ đề cụ thể xoay xung quanh việc xác định các nhân tố tác động đến khả năng vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam, nhằm thu thập đến mức tối đa thông tin về chủ đề đang nghiên cứu. Từ đó tác giả có thể hiểu biết sâu về một số vấn đề và tình huống cụ thể, thông qua đó có thể đem lại một cách nhìn sâu sắc về hiện tượng đang quan tâm. Để thực hiện điều này, tác giả tiến hành thảo luận và trao đổi trực tiếp với các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực KTQT. Thành phần tham dự các cuộc thảo luận cũng như khảo sát gồm 09 chuyên gia, là những người có kinh nghiệm trong việc vận dụng KTQT trong các DN như kế toán trưởng, giám đốc tài chính, tổng giám đốc, chuyên viên tư vấn, những người tham gia giảng dạy lâu năm về KTQT trong các trường đại học …. 3.3.2. Kết quả thảo luận chuyên gia Sau khi trao đổi bằng các kỹ thuật phỏng vấn sâu và xin ý kiến chuyên gia, kết quả thảo luận về mô hình đề xuất ban đầu về các nhân tố tác động đến khả năng vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam và các tiêu chí đo lường được tổng hợp bao gồm: Nhân tố quy mô DN, Nhân tố chi phí cho việc tổ chức KTQT, Nhân tố văn hóa DN, Nhân tố trình độ nhân viên kế toán DN, Nhân tố chiến lược kinh doanh, Nhân tố mức độ sở hữu của nhà nước, Nhân tố mức độ cạnh tranh của thị trường, và Nhân tố nhận thức về KTQT của người chủ/người điều hành DN. Ngoài ra các chuyên gia cũng tiến hành thảo luận và xây dựng thang đo cho Nhân tố khả năng vận dụng KTQT trong DNNVV Việt Nam. 3.3.3. Xây dựng các giả thuyết nghiên cứu Từ mô hình nghiên cứu đề xuất ở trên, kết hợp với phần bàn luận và thống nhất ý kiến với các chuyên gia tác giả đề xuất 08 giả thiết cần phải kiểm định, bao gồm: Giả thiết H1 - Các DN có quy mô càng lớn thì khả năng vận dụng KTQT thành công càng cao. Giả thiết H2 - Khi vận dụng KTQT nếu yêu cầu về đầu tư chi phí tổ chức KTQT càng thấp thì khả năng vận dụng KTQT thành công càng cao. Giả thiết H3 - Các DN có văn hóa DN hỗ trợ mạnh thì khả năng vận dụng KTQT thành công cao hơn. Giả thiết H4 - Các DN có nhân viên kế toán được đào tạo có chứng chỉ nghề hoặc bằng cấp kế toán chuyên nghiệp thì khả năng vận dụng KTQT thành công cao hơn. Giả thiết H5 - Các DN có chiến lược kinh doanh linh hoạt thì khả năng vận dụng KTQT thành công cao hơn.
  17. 17 Giả thiết H6 - Các DN có tỷ lệ sở hữu nhà nước không quá bán hoặc đại diện vốn nhà nước không nắm giữ các vị trí lãnh đạo chủ chốt như giám đốc, kế toán trưởng thì khả năng vận dụng KTQT thành công cao hơn. Giả thiết H7 - Các DN hoạt động trong thị trường có mức độ cạnh tranh càng cao thì khả năng vận dụng KTQT thành công cao hơn. Giả thiết H8 - Các DN có người chủ/người điều hành DN có hiểu biết về KTQT, đánh giá cao tính hữu ích của các công cụ kỹ thuật KTQT thì khả năng vận dụng KTQT thành công cao hơn. 3.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG Từ kết quả thảo luận chuyên gia, tác giả tiến hành Xây dựng thang đo, bảng câu hỏi khảo sát và tiến hành khảo sát. Sau khi thu thập, tác giả tiến hành làm sạch dữ liệu và sau đó phân tích dữ liệu theo các mục tiêu và các giả thuyết nghiên cứu đưa ra. Tác giả sử dụng phần mềm SPSS 20 phục vụ cho việc phân tích, thống kê, xử lý dữ liệu và chạy hồi quy tuyến tính bội. Dựa trên số lượng biến độc lập đưa vào phân tích là 29 biến, kích thước mẫu nghiên cứu chính thức n ≥ 50 + 8 x 29 = 282 là phù hợp trong việc chạy phân tích EFA và hồi quy bội. Đối tượng khảo sát là các Giám đốc tài chính, Giám đốc điều hành hoặc các trưởng phòng ban, Kế toán trưởng, kế toán viên, chuyên viên KTQT và những người có khả năng tham gia trực tiếp trong công tác KTQT của doanh nghiệp. Trên cơ sở các giả thuyết và các biến được trình bày ở phần trên, luận án đề xuất phương trình hồi quy dự kiến phản ánh mối tương quan giữa “Khả năng vận dụng KTQT và các nhân tố tác động khả năng vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam” theo phương trình hồi quy như sau: POSSi= α + β1SIZEi + β2COSTi + β3CULTi+ β4QUALi + β5STRAi + β6STATi + β7COMPi + β8PERCi +ε Trong đó: - POSS: Khả năng vận dụng KTQT của công ty mẫu thứ i - α: Hằng số (constant term) - βi: Hệ số các biến giải thích - εi: Phần dư (Residual) Các biến SIZEi, COSTi, CULTi, QUALi, STRAi, STATi, COMPi và PERCi lần lượt là các biến Quy mô doanh nghiệp (SIZE), Chi phí cho việc tổ chức KTQT (COST), văn hoá DN (CULTURE), Trình độ nhân viên kế toán trong DN (QUALIFICATION), Chiến lược doanh nghiệp (STRATEGY), Mức độ sở hữu của nhà nước (STATE OWN), Mức độ cạnh tranh của thị trường (COMPETITION) và Nhận thức của người chủ/điều hành doanh nghiệp (PERCEPTION) của doanh nghiệp thứ i. Ngoài ra, khi thiết lập mô hình hồi quy tuyến tính đa biến trên, luận án sẽ làm rõ có sự xuất hiện của hiện tượng đa cộng tuyến hay không. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
  18. 18 CHƯƠNG 4 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN Từ các phương pháp sử dụng nghiên cứu đã được lựa chọn trong luận án, cũng như số liệu tổng hợp được từ mẫu nghiên cứu, trong chương này tác giả mong muốn làm rõ quá trình thu thập và khảo sát, cũng như quá trình tính toán ra kết quả nghiên cứu cuối cùng. Từ đó, luận án sẽ trình bày kết quả nghiên cứu với độ tin cậy và khách quan cao hơn, nhằm đảm bảo ý nghĩa khoa học của luận án, phục vụ cho các công tác nghiên cứu tiếp theo sau này, cũng như làm tiền đề cho việc triển khai thuận lợi khi ứng dụng vào thực tiễn kinh doanh. 4.1. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 4.1.1. Kết quả khảo sát về mối liên hệ giữa việc vận dụng KTQT và quy mô DN + Trong số 186 DNNVV Việt Nam xác nhận có vận dụng KTQT tại DN thì loại hình DN quy mô vừa chiếm tỷ trọng áp đảo đến 80.1% (tương ứng với 149 DN), kế tiếp là DN nhỏ với tỷ lệ 19.4% (tương ứng với 36 DN). Số DN siêu nhỏ có vận dụng KTQT chiếm tỷ lệ cực kỳ khiêm tốn với tỷ lệ 0.5% (tương ứng với 1 DN). + Ngược lại trong số 104 DNNVV Việt Nam xác nhận không có vận dụng KTQT tại DN thì loại hình DN quy mô siêu nhỏ chiếm tỷ trọng áp đảo đến 63.5% (tương ứng với 66 DN), kế tiếp là DN nhỏ với tỷ lệ 26% (tương ứng với 27 DN). Số DN vừa không có vận dụng KTQT chiếm tỷ lệ cực kỳ khiêm tốn với tỷ lệ 10.5% (tương ứng với 11 DN). Ngoài ra, theo kết quả khảo sát ở trên, giá trị Sig. = 0.00 < 0.01 nên kết luận là việc vận dụng KTQT và nhân tố quy mô DN có mối liên hệ với độ tin cậy 99%. Như vậy trong các DNNVV hoạt động tại Việt Nam thì xu hướng thể hiện khá rõ mối liên hệ tỷ lệ thuận giữa quy mô DN và việc lựa chọn vận dụng KTQT như là công cụ quản lý theo chiều hướng là doanh nghiệp có quy mô càng lớn thì nhu cầu và xu thế quản trị càng cao và phức tạp, nên việc lựa chọn KTQT như là phương tiện quản lý được nhiều doanh nghiệp chấp nhận. 4.1.2. Kết quả nghiên cứu định lượng Bảng vị trí quan trọng của các yếu tố Biến độc lập Giá trị tuyệt đối % F8 0.940 19.16 F1 0.916 18.67 F5 0.892 18.19 F2 0.843 17.19 F7 0.562 11.46 F4 0.548 11.17 F3 0.204 4.16 Tổng số 4,905 100
  19. 19 Như vậy bảy nhân tố đại diện bao gồm mức độ sở hữu của nhà nước (STATE OWN), mức độ cạnh tranh của thị trường (COMPETITION), văn hoá DN (CULTURE), nhận thức của người chủ/điều hành doanh nghiệp (PERCEPTION), quy mô doanh nghiệp (SIZE), chi phí cho việc tổ chức KTQT (COST) và chiến lược doanh nghiệp (STRATEGY) lần lượt đóng góp 19.16%, 18.67%, 18.19%, 17.19%, 11.46%, 11.17% và 4.16% vào việc tác động làm gia tăng tính khả thi khi vận dụng KTQT vào các DNNVV tại Việt Nam. Tuy vậy, mô hình với 07 nhân tố đại diện nhưng chỉ phản ánh được 34.8% vấn đề nghiên cứu có nghĩa là sẽ còn có những nhân tố khác, biến quan sát khác có thể cũng ảnh hưởng đến việc vận dụng KTQT nhưng chưa được nghiên cứu này bao quát hết trong mô hình nghiên cứu hiện tại do giới hạn về phạm vi, thời gian và loại hình doanh nghiệp được khảo sát đã nêu ra ở phần mở đầu. Qua kết quả hồi qui chứng tỏ vai trò của các yếu tố trong việc tác động đến việc vận dụng KTQT được phân định thứ bậc rõ rệt. Vì thế, giải pháp nhằm tăng cường tính khả thi khi vận dụng KTQT phải dựa vào kết quả kiểm định các nhân tố ảnh hưởng nhưng cần được điều chỉnh qua thời gian khi giá trị vị thế của các nhân tố trên có sự thay đổi theo thời gian, không gian và điều kiện kinh tế, chính trị. 4.2. BÀN LUẬN VỀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU: 4.2.1. Đối với nhóm các nhân tố mức độ sở hữu của nhà nước trong DN: Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng nhân tố Mức độ sở hữu của nhà nước trong DN tương thích với mức độ khả thi của việc vận dụng KTQT theo hướng là khi mức độ sở hữu của nhà nước trong DN không quá 49% và đại diện phần vốn của nhà nước trong DN không nắm giữ các vị trí quản trị chủ chốt như giám đốc/kế toán trưởng/chủ tịch HĐQT … sẽ làm gia tăng mức độ khả thi của việc vận dụng KTQT trong DN. 4.2.2. Đối với nhóm các nhân tố mức độ cạnh tranh của thị trường: Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng Mức độ cạnh tranh về thị trường của các DNNVV tương thích với mức độ khả thi của việc vận dụng KTQT theo hướng là mức độ của các hành động cạnh tranh của các đối thủ, mức độ cạnh tranh về thị phần/doanh thu, mức độ cạnh tranh về giá cả càng cao, số lượng các đối thủ cạnh tranh trong cùng phân khúc thị trường càng nhiều sẽ làm gia tăng mức độ khả thi của việc vận dụng KTQT. 4.2.3. Đối với nhóm các nhân tố văn hóa DN: Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng trong DN có sự hỗ trợ từ các nhà quản trị đối với nhân viên hay có sự đồng thuận về mục tiêu phát triển chung, có sự hỗ trợ lẫn nhau từ các nhân viên trong các phòng ban sẽ làm gia tăng mức độ khả thi của việc vận dụng KTQT; đó chính là các đặc điểm của nền văn hóa DN hỗ trợ hoặc văn hóa DN hướng về mục tiêu. 4.2.4. Đối với nhóm các nhân tố nhận thức của người chủ/điều hành doanh nghiệp: Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng nhân tố Nhận thức của người chủ/điều hành doanh nghiệp tương thích với mức độ khả thi của việc vận dụng KTQT theo hướng là khi người chủ/người điều hành DN đánh giá cao về tính hữu ích các công cụ kỹ thuật KTQT, có hiểu biết về các công cụ kỹ thuật KTQT, có
  20. 20 nhu cầu càng cao về việc vận dụng KTQT hay chấp nhận mức chi phí càng cao trong việc đầu tư vận dụng KTQT sẽ làm gia tăng mức độ khả thi của việc vận dụng KTQT. 4.2.5. Đối với nhóm các nhân tố quy mô doanh nghiệp: Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng quy mô của DNNVV tương thích với mức độ khả thi của việc vận dụng KTQT theo hướng là quy mô DN càng lớn thể hiện qua doanh thu, số lượng nhân viên hoạt động bình quân, số lượng các phòng ban với chức năng rõ ràng, độc lập thì khả năng thành công cao hơn. 4.2.6. Đối với nhóm các nhân tố chi phí cho việc tổ chức KTQT: Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng chi phí cho việc tổ chức KTQT của các DNNVV tương thích với mức độ khả thi của việc vận dụng KTQT theo hướng là nếu yêu cầu chi phí về đầu tư công nghệ phục vụ việc tổ chức KTQT trong DN thấp hay yêu cầu chi phí tư vấn từ các tổ chức/chuyên gia về tổ chức KTQT trong DN thấp sẽ làm gia tăng mức độ khả thi của việc vận dụng KTQT. 4.2.7. Đối với nhóm các nhân tố chiến lược DN: Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng chiến lược của DNNVV tương thích với mức độ khả thi của việc vận dụng KTQT theo hướng là nếu DN nếu đang vận dụng một trong các chiến lược như: sản xuất hàng hóa, dịch vụ chuyên biệt theo yêu cầu của khách hàng, cung cấp dịch vụ hỗ trợ sau bán hàng hay luôn tạo sự nhanh chóng thay đổi sản lượng sản xuất thì khả năng thành công cao hơn. 4.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT TỪ HÀM Ý KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU: Từ hàm ý kết quả nghiên cứu ở trên, tác giả đề xuất các nhóm giải pháp dựa trên tác động của các nhân tố như: mức độ cạnh tranh của thị trường, nhận thức của người chủ/điều hành doanh nghiệp, chiến lược doanh nghiệp, chi phí cho việc tổ chức KTQT, nhân tố văn hoá DN, quy mô doanh nghiệp và mức độ sở hữu của nhà nước. Các nhóm giải pháp này lần lượt áp dụng cho các DNNVV tại Việt Nam theo cách phân loại: DN siêu nhỏ, DN nhỏ và DN vừa. 4.3.1. Giải pháp đối với các DN siêu nhỏ: Theo kết quả khảo sát việc vận dụng KTQT tại các DN siêu nhỏ thường hay thất bại hoặc khó triển khai bởi sự tác động theo hướng bất lợi của một số nhân tố như: + Quy mô DN quá nhỏ (số lượng lao động dưới 10 người) nên khó thành công khi vận dụng KTQT; + Nhận thức của người chủ/điều hành doanh nghiệp: thường không đánh giá cao tính hữu ích của các công cụ kỹ thuật KTQT (thông thường mô hình DN này chủ yếu đến từ các hộ gia đình kinh doanh nhỏ lẻ, và người chủ DN thường tự mình quyết định tất cả); + Chiến lược kinh doanh: hầu như thông thường không có chiến lược kinh doanh rõ ràng hoặc thậm chí không quan tâm đến xây dựng chiến lược kinh doanh (chỉ chú trọng đến hoạt động kinh doanh diễn ra hàng ngày). Tuy nhiên thay vào việc triển khai mô hình KTQT một cách chính thức và bài bản, tác giả khuyến nghị người chủ/ điều hành DN nên tự trang bị thêm các kiến thức ban đầu về KTQT để có thể thực hiện tốt hơn vai trò quản trị trong quá trình điều hành DN. Bên cạnh kinh nghiệm kinh doanh truyền thống của bản thân, người chủ DN cũng có thể tự trang bị thêm những công cụ kỹ thuật đơn giản để
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2