intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa dệt may Việt Nam

Chia sẻ: Cogacoga Cogacoga | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

81
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án làm rõ các vấn đề lý luận về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành Dệt May làm cơ sở cho việc phân tích và đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của các DNNVV ngành Dệt May Việt Nam, đồng thời cung cấp các luận cứ khoa học trong việc đề xuất các định hướng và các giải pháp cốt yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các DNNVV ngành Dệt may phục vụ cho việc thực hiện các chiến lược phát triển ngành trong thời gian tới. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa dệt may Việt Nam

  1. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong khoảng 10 năm trở lại đây, ngành Dệt May đã có những bước phát   triển đáng kể. Tốc độ  tăng trưởng bình quân năm của giá trị  sản xuất ngành  Dệt May giai đoạn 2005 – 2015 đạt 13,64%, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình  quân giai đoạn này đạt 18,61%,đưa ngành Dệt May trở  thành ngành có vai trò   quan trọng  đối với nền kinh tế­xã hội Việt Nam (năm 2015, kim ngạch xuất  khẩu dệt may đạt 22,8 tỷ  USD, chiếm 14,06% tổng kim ngạch xuất khẩu cả  nước), và ngành Dệt May Việt Nam cũng có vị  trí quan trọng trên thị  trường  dệt may thế  giới. Cụ thể, Việt Nam nằm trong tốp 5 quốc gia xuất khẩu dệt   may lớn nhất thế  giới, chiếm 3,8% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may toàn  cầu. Tuy có tốc độ phát triển cao, giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn, nhưng giá  trị gia tăng trong các mặt hàng dệt may của Việt Nam thấp, tỷ suất lợi nhuận   trong gia công chỉ vào khoảng 5 – 8%, và chỉ  được xếp vào nước có nền công   nghiệp sản xuất dệt may và thời trang vào loại trung bình trên thế  giới (Theo   BMI, 2012) nhưng năng lực cạnh tranh của ngành Dệt May còn nhiều khuyết  điểm, sự  liên kết giữa các mắt xích chưa chặt chẽ  khiến giá trị  gia tăng còn  thấp. Một trong những yếu tố  quan trọng khiến cho năng lực cạnh tranh của  ngành còn nhiều khiếm khuyết và thiếu tính bền vững là do tuy số lượng doanh  nghiệp trong ngành lên đến gần 6.800 doanh nghiệp nhưng phần lớn các doanh   nghiệp này là những doanh nghiệp siêu nhỏ hoặc nhỏ với nguồn vốn yếu, sản  xuất phân tán khắp cả nước. Do hầu hết các doanh nghiệp dệt may Việt Nam   là nhỏ và siêu nhỏ, vốn yếu, khả năng đầu tư phát triển công nghệ  không cao,   khả  năng huy động vốn đầu tư  thấp, hạn chế  khả  năng đổi mới công nghệ,   trang thiết bị. Chính quy mô nhỏ  đã khiến các doanh nghiệp chưa đạt được   hiệu quả kinh tế nhờ quy mô, và chỉ có thể  cung ứng cho một thị trường nhất   định. Do đó, khi thị trường gặp vấn đề, các doanh nghiệp dệt may sẽ  gặp khó  khăn trong việc điều chỉnh phương thức thâm nhập thị trường hoặc chuyển đổi  sang thị trường khác. Trước thực trạng yếu kém về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp   nhỏ  và vừa (DNNVV) của ngành Dệt May cũng đang đứng trước thách thức  cạnh tranh gay gắt cả  ở  trong và ngoài nước, đặc biệt là các doanh nghiệp có  quy mô nhỏ  và vừa. Để  nâng cao năng lực cạnh tranh cho các các DNNVV   ngành Dệt May Việt Nam cần thiết có những nghiên cứu tổng thể nhằm đánh  giá thực trạng năng lực cạnh tranh của các DNNVV trong ngành từ đó đề xuất  được các chính sách và giải pháp nhằm giúp các doanh nghiệp này có thể  tồn   tại và phát triển bền vững ngay trong nước cũng như  thị  trường quốc tế trong  bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng của nền kinh tế nước ta hiện nay. Xuất   phát từ những lý do đó, tác giả đã lựa chọn vấn đề “Nâng cao năng lực cạnh   tranh của các doanh nghiệp nhỏ  và vừa Dệt May Việt Nam”   làm đề  tài  nghiên cứu Luận án tiến sĩ.
  2. 2 2. Mục đích, đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Làm rõ các vấn đề lý luận về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp   ngành Dệt May làm cơ  sở  cho việc phân tích và đánh giá thực trạng năng lục   cạnh tranh của các DNNVV ngành Dệt May Việt Nam, đồng thời cung cấp các   luận cứ khoa học trong việc đề  xuất các định hướng và các giải pháp cốt yếu   nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các DNNVV ngành Dệt may phục vụ  cho việc thực hiện các chiến lược phát triển ngành trong thời gian tới. 2.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là DNNVV ngành Dệt May và năng  lực cạnh tranh của các DNNVV ngành Dệt May trong mối quan hệ  phát triển  kinh tế­xã hội và hội nhập kinh tế của Việt Nam. 2.3. Phạm vi nghiên cứu Về thời gian: Các DNNVV dệt may Việt Nam giai đoạn 2010 ­ 2014. Về  không gian:  Luận án tập trung nghiên cứu các DNNVV dệt may  sản xuất may mặc, không nghiên cứu lĩnh vực dệt trong phạm vi cả nước.  3. Những đóng góp của luận án Thứ  nhất, hệ  thống hóa và luận giải một số  cơ  sở  lý luận về  nâng cao   năng lực cạnh tranh của DNNVV của một số  tác giả  trong nước và thế  giới.  Trên cơ  sở  tổng quan về  mặt lý luận tăng cường năng lực cạnh tranh của  doanh nghiệp, đã phân tích và đề  xuất sử  dụng các nhóm chỉ  tiêu, yếu tố  cấu  thành năng lực cạnh tranh của DNNVV ngành Dệt May. Thứ hai, trên cơ sở  phân tích kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh  của một số  DNNVV trên thế  giới như: Trung Quốc,  Ấn Độ, Thổ  Nhĩ Kỳ  đã   làm rõ các tham vấn về nâng cao năng lực cạnh tranh cho các DNNVV dệt may   Việt Nam. Thứ ba, trên cơ sở khảo sát, phân tích và đánh giá về thực trạng năng lực  cạnh tranh của DNNVV dệt may giai đoạn 2010­ 2014, Luận án rút ra được các  thành tựu nổi bật và phát hiện được những bất cập làm hạn chế năng lực cạnh  tranh của DNNVV dệt may Việt Nam trong thời gian qua. Thứ tư, trên cơ sở kết quả phân tích về thực trạng năng lực cạnh tranh của   DNNVV dệt may thời gian qua, Luận án đã đề xuất hệ thống các giải pháp đột phá và  các giải pháp hỗ trợ khác, đặc biệt là hệ thống các giải pháp đột phá mang tính trọng  tâm trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNVV dệt may thời gian tới. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử  dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử  làm phương pháp luận, trong quá trình nghiên cứu luận  án đã sử  dụng các  phương pháp: (1)­ Phương pháp phân tích thống kê; tổng hợp; phương pháp chuyên gia,  trong đó tổng hợp, trích dẫn, kế thừa một số công trình nghiên cứu của các học   giả, các số  liệu phản  ánh kết quả  kinh doanh và năng lực cạnh tranh của 
  3. 3 DNNVV Dệt may và một số đối thủ cạnh tranh chính trong việc đánh giá thực  trạng năng lực cạnh tranh của DNNVV Dệt may. (2)­ Phương pháp thu thập thông tin qua việc thực hiện điều tra, khảo sát   thực tế: điều tra phỏng vấn qua mẫu phiếu điều tra với số  lượng 300 phiếu   điều tra, có 285 phiếu trả lời, đối tượng điều tra là các nhà quản lý, các khách  hàng sử dụng sản phẩm của các DNNVV trong ngành Dệt May. (3)­ Ngoài ra, luận án sử dụng các phương pháp phân tích cả định tính và   định lượng các số liệu từ các báo cáo tổng kết, từ kết quả điều tra thực tế, sử  dụng ma trận SWOT để  phân tích các điểm mạnh, điểm yếu, cơ  hội và thách  thức đối với DNNVV Dệt May trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh so với  một số đối thủ cạnh tranh chính. Việc sử dụng các phương pháp trên có phân tích và so sánh cho phù hợp   với nội dung cần nghiên cứu của luận án, đặc biệt là có kế  thừa, sử dụng các   kết quả  nghiên cứu của các công trình nghiên cứu, các tư  liệu hiện có trong   sách báo, tạp trí, internet và các báo cáo nghiên cứu chuyên sâu. 5. Bố cục của luận án  Ngoài phần mở  đầu, kết luận, danh mục các bảng, biểu, danh mục từ  viết tắt và tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương: Chương 1: Cơ  sở  lý luận về  cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của   doanh nghiệp nhỏ và vừa Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và  vừa Dệt may Việt Nam Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ  và vừa Dệt may Việt Nam. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC  CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA  NGÀNH DỆT MAY 1.1. Khái niệm về cạnh tranh và lợi thế cạnh tranh 1.1.1. Khái niệm cạnh tranh “Cạnh tranh” là một phạm trù kinh tế  cơ  bản. Qua lịch sử  có thể  thấy  nổi lên hai trường phái tiêu biểu: trường phái cổ điển và trường phái hiện đại.   Trường phái cổ  điển với các đại biểu tiêu biểu như: Adam Smith; John Stuart   Mill; Darwin và C.Mác đã có những đóng góp nhất định trong lý thuyết cạnh  tranh này. Trường phái hiện đại với hệ thống lý thuyết đồ sộ với 3 quan điểm  tiếp cận: tiếp cận theo tổ chức ngành với đại diện là trường phái Chicago và  Harvard; tiếp cận tâm lý với đại diện là Meuger, Mises, Chumpeter, Hayek  thuộc học phái Viên; tiếp cận “cạnh tranh hoàn hảo” phát triển lý thuyết của   Tân cổ điển. Như vậy, cạnh tranh là một khái niệm được sử dụng trong nhiều  lĩnh vực khác nhau và có nhiều quan niệm khác nhau dưới các góc độ  khác  nhau.
  4. 4 ­ Theo định nghĩa được A.Lobe có thể  hiểu cạnh tranh là sự  cố  gắng  của hai hay nhiều người thông qua hành vi hay khả năng nhất định để cùng đạt   được một mục đích. ­ Khi bàn về cạnh tranh, Adam Smith cho rằng nếu tự do cạnh tranh, các   cá nhân chèn ép nhau thì cạnh tranh buộc mỗi cá nhân phải cố  gắng làm công  việc của mình một cách chính xác. Ngược lại, chỉ  có mục đích lớn lao nhưng   lại không có động cơ thúc đẩy thực hiện mục đích ấy thì rất ít có khả năng tạo   ra được bất kỳ sự cố gắng nào. Như vậy, có thể hiểu cạnh tranh khơi dậy sự  nỗ lực chủ quan của con người, góp phần làm tăng của cải của nền kinh tế. ­ Khi nghiên cứu về  cạnh tranh, K.Marx cho rằng “ Cạnh tranh là sự   ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa những nhà tư bản nhằm giành giật những   điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ  hàng hóa để  thu lợi nhuận siêu   ngạch”. ­ Kinh  tế   học  của  P.Samuelson   định  nghĩa:  “Cạnh  tranh  là  sự   tranh   giành thị trường để tiêu thụ sản phẩm giữa các nhà doanh nghiệp”. ­ Từ  điển rút gọn về  kinh doanh định nghĩa: “Cạnh tranh là sự  ganh   đua, kình định giữa các nhà kinh doanh trên thị  trường nhằm giành cùng một   loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về  phía mình”, tức là  nâng cao vị thế của người này và giảm vị thế của người khác. ­ Theo từ  điển Bách khoa của Việt Nam thì: “Cạnh tranh (trong kinh   doanh) là hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các   thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế  thị  trường, chi phối quan   hệ  cung cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất và tiêu thụ  sản phẩm có lợi   nhất”. ­ Theo các tác giả  của cuốn Các vấn đề  pháp lý về  thể  chế, về  chính  sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh thì: “Cạnh tranh có thể   được hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành một số nhân   tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường để   đạt được mục tiêu kinh doanh cụ thể”. Ở Việt Nam, khi đề cập đến “cạnh tranh” người ta thường đề  cập đến  vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hóa, dịch vụ mua bán và đó là phương thức   để giành lợi nhuận cao cho các chủ thể kinh tế. Trên quy mô toàn xã hội, cạnh  tranh là phương thức phân bổ  các nguồn lực một cách tối  ưu và do đó nó là   động lực bên trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Mặt khác, với mục tiêu tối   đa hóa lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh, cạnh tranh cũng dẫn đến yếu tố  thúc đẩy quá trình tích lũy và tập trung tư  bản không đồng đều  ở  các doanh   nghiệp. Mặc dù còn nhiều khái niệm khác nhau về cạnh tranh, qua các định nghĩa  trên có thể rút ra những nét chung về cạnh tranh như sau: Thứ nhất, khi nói đến cạnh tranh là nói đến sự ganh đua giữa một (hoặc   một nhóm) người nhằm giành lấy phần thắng của nhiều chủ  thể  cùng tham   dự. Cạnh tranh nâng cao vị  thế  của người này và làm giảm vị  thế  của những  
  5. 5 người còn lại. Thứ hai, mục đích trực tiếp của cạnh tranh là một đối tượng cụ thể nào   đó mà các bên đều muốn giành giật (như một cơ  hội, một sản phẩm dịch vụ,   một dự  án hay một thị  trường, một nhóm khách hàng…) với mục đích cuối  cùng là kiếm được lợi nhuận cao. Thứ  ba, cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ  thể, có các ràng  buộc chung mà các bên tham gia phải tuân thủ  như: đặc điểm sản phẩm, thị  trường, các điều kiện pháp lý, các thông lệ kinh doanh… Thứ tư, trong quá trình cạnh tranh, các chủ thể tham gia cạnh tranh có thể  sử dụng nhiều công cụ khác nhau: cạnh tranh bằng đặc tính và chất lượng sản  phẩm dịch vụ, cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm dịch vụ; cạnh tranh bằng   nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm (tổ chức các kênh tiêu thụ); cạnh tranh bằng dịch  vụ bán hàng; cạnh tranh bằng hình thức thanh toán… Đúc kết từ những quan điểm trên, xem xét dưới góc độ kinh tế và góc độ  doanh nghiệp, theo tác giả, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các tổ chức (doanh   nghiệp) cố gắng để đạt được những mục tiêu như tăng lợi nhuận, thị phần, và   khối lượng bán hàng bằng cách thay đổi các yếu tố  hỗn hợp: giá cả, sản   phẩm, phân phối và xúc tiến. thông qua việc thực hiện phân bổ một cách hiệu   quả nguồn lực của tổ chức (doanh nghiệp).  1.1.2. Khái niệm lợi thế cạnh tranh Lợi thế cạnh tranh là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trên các tài liệu,  trong nghiên cứu và kinh doanh. Tuy nhiên, cho đến nay dường như  vẫn còn  thiếu một khái niệm chính thống về lợi thế cạnh tranh. Theo cách hiểu thông thường, lợi thế cạnh tranh là sở hữu của những giá   trị  đặc thù, cho phép có thể  “nắm bắt cơ  hội” kinh doanh  để  mang lại lợi   nhuận. Vì vậy, khi nói đến lợi thế cạnh tranh là nói đến lợi thế mà một doanh  nghiệp, một quốc gia đang có và có thể có so với các đối thủ cạnh tranh. Nghĩa  là, lợi  thế  cạnh tranh là một khái niệm vừa có tính vi mô (giữa các doanh  nghiệp trong cùng một ngành của một quốc gia), vừa có tính vĩ mô (giữa các   ngành trong cùng một quốc gia hoặc giữa các quốc gia với nhau). Theo M.Porter: Cạnh tranh là vấn đề  cơ  bản quyết định sự  thành công  hay thất bại của doanh nghiệp…Chiến lược cạnh tranh là sự  tìm kiếm vị  thế  cạnh tranh thuận lợi trong ngành – đấu trường chính của cạnh tranh…Chiến   lược cạnh tranh nhằm mục đích tạo lập một vị thế cạnh tranh thuận lợi và bền   vững trước những sức ép quyết định sự cạnh tranh trong ngành. Có hai vấn đề  trọng tâm làm nền tảng cho việc lựa chọn chiến lược   cạnh tranh. Thứ  nhất là mức độ  hấp dẫn của ngành để  có thể  mang lại lợi  nhuận lâu dài và các yếu tố quyết định điều này…Thứ  hai là vị thế  tương đối  của doanh nghiệp trong ngành. Định vị doanh nghiệp sẽ xác định khả năng thu  lợi nhuận của doanh nghiệp cao hơn hay thấp hơn mức trung bình của ngành.  Một doanh nghiệp có khả  năng định vị  tốt sẽ  có thể  thu lợi nhuận nhiều hơn  ngay cả khi cấu trúc ngành bất lợi và do đó khả  năng sinh lợi của ngành cũng 
  6. 6 khá khiêm tốn. Nền tảng cơ  bản để  hoạt động của doanh nghiệp đạt được mức trên  trung bình trong dài hạn là lợi thế  cạnh tranh bền vững. Cho dù doanh nghiệp  có vô số  điểm mạnh và điểm yếu trước các đối thủ  khác, tựu trung lại có hai   loại lợi thế cạnh tranh mà doanh nghiệp có thể sở hữu: chi phí thấp hoặc khác  biệt hóa. Điều quan trọng của bất cứ thế mạnh hay nhược điểm nào của doanh  nghiệp cuối cùng vẫn là việc ảnh hưởng từ những ưu/ khuyết điểm đó đến chi   phí và sự khác biệt hóa có liên quan. Hai loại lợi thế cạnh tranh cơ bản này kết  hợp với phạm vi hoạt động của một doanh nghiệp đang theo đuổi sẽ cho phép  tạo ra ba chiến lược cạnh tranh tổng quát để đạt được hiệu quả trên mức trung  bình của ngành, đó là chiến lược chi phí thấp, chiến lược khác biệt hóa và   chiến lược tập trung. Về cơ bản lợi thế cạnh tranh phát sinh từ các giá trị mà doanh nghiệp có   thể tạo cho người mua, giá trị này phải lớn hơn các chi phí mà doanh nghiệp đã  bỏ ra. Giá trị này là mức người mua sẵn lòng thanh toán và một giá trị cao hơn   xuất hiện khi mức giá thấp hơn các đối thủ  cạnh tranh; hoặc cung cấp những   tiện  ích độc  đáo khiến người  mua vẫn hài lòng với mức giá cao hơn bình  thường. Do đó, cách giải thích này có thể thấy: Thứ nhất, chiến lược cạnh tranh và mục đích của nó là tìm kiếm, tạo lập   cho doanh nghiệp một vị thế cạnh tranh thuận lợi và bền vững trong ngành trước   các đối thủ. Vì đây chính là điều kiện để doanh nghiệp thu được lợi nhuận trên   mức trung bình và do đó mục tiêu của doanh nghiệp có thể đạt được. Song, điều  đó chỉ  xảy ra khi doanh nghiệp tạo lập và duy trì được lợi thế  cạnh tranh bền  vững. Thứ hai, lợi thế  cạnh tranh của doanh nghiệp xuất hiện và được duy trì  bền vững, nói cách khác doanh nghiệp thu được lợi nhuận trên mức trung bình  trong dài hạn khi cùng một chi phí, doanh nghiệp tạo ra cho người mua một giá   trị vượt trội so với các đối thủ. Vì thế, “Điều quan trọng đối với bất kỳ một tổ  chức kinh doanh nào là phải xây dựng và duy trì được lợi thế  cạnh tranh bền  vững. Nghĩa là doanh nghiệp phải liên tục cung cấp cho thị  trường một giá trị  đặc biệt mà không có đối thủ  nào có thể  cung cấp được”. Bởi vậy, lợi thế  cạnh tranh là khái niệm dùng để  chỉ  vị  thế  cạnh tranh thuận lợi của doanh   nghiệp  so   với   đối  thủ.  Đó   là  “vị   trí  tương   đối”  của  doanh   nghiệp  trên  thị  trường, mà ở vị trí đó cho phép doanh nghiệp có thể mang đến cho khách hàng   một giá trị vượt trội so với các đối thủ. Vì thế, khách hàng sẽ chọn sản phẩm,  dịch vụ  của doanh nghiệp và nhờ  đó doanh nghiệp sẽ  thu được lợi nhuận cao   hơn mức trung bình của ngành. Như  vậy,  lợi thế  cạnh tranh là một khái niệm kinh doanh mô tả  các   thuộc tính cho phép một tổ  chức (doanh nghiêp) thực hiện tốt hơn đối thủ.   Những thuộc tính này có thể bao gồm quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên, vị   trí địa lý, rào cản gia nhập cao, nguồn cung cấp nhân viên có tay nghề cao, khả   năng khai thác và  ứng dụng hiệu quả  công nghệ, trang thiết bị  và các công  
  7. 7 nghệ mới, khả năng đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách hàng, hoặc (và) năng lực   quản trị doanh nghiệp… 1.1.3. Khái niệm năng lực và năng lực cạnh tranh Cạnh tranh gắn liền với hành vi của chủ thể như hành vi của doanh nghiệp   kinh doanh, của cá nhân kinh doanh và của một nền kinh tế. Trong quá trình cạnh   tranh với nhau, để  giành lợi thế  về  phía mình các chủ  thể  phải áp dụng nhiều   biện pháp nhằm duy trì và phát triển lợi thế  của mình trên thị  trường. Các biện   pháp này thể hiện một sức mạnh nào đó của chủ thể, được gọi là năng lực cạnh   tranh hay sức cạnh tranh hoặc khả năng cạnh tranh của chủ thể đó. Khi muốn chỉ  một sức mạnh, một khả năng duy trì vị trí của sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó trên   thị trường thì người ta dùng thuật ngữ “sức cạnh tranh của hàng hóa” hoặc “năng  lực cạnh tranh của hàng hóa”. Hiện nay, các thuật ngữ “năng lực cạnh tranh”, “sức cạnh tranh” và “khả   năng cạnh tranh” được sử dụng nhiều ở Việt Nam và chúng có thể dùng để thay  thế cho nhau. Theo M.Porter, hiện chưa có một định nghĩa nào về năng lực cạnh  tranh được thừa nhận một cách phổ biến, có thể thống kê một số định nghĩa như  sau: ­ Đối với các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh có nghĩa là  sức cạnh tranh trên thị trường nhờ xây dựng và áp dụng chiến lược hợp lý mà  có. ­ Trong Từ  điển thuật ngữ  chính sách thương mại: “Sức cạnh tranh là   năng lực của một doanh nghiệp hoặc một ngành, một quốc gia không bị doanh   nghiệp khác, ngành khác đánh bại về năng lực kinh tế”. Do vậy, khi nghiên cứu năng lực cạnh tranh người ta thường xem xét, phân  biệt năng lực cạnh tranh theo 4 cấp độ: năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực  cạnh tranh ngành, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh sản   phẩm. Tóm lại, năng lực của một doanh nghiệp là những nguồn lực cấn thiết   để doanh nghiệp có thể vận hành và thực hiện được các chiến lược trong sản   xuất, kinh doanh. Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là những nguồn   lực cần thiết để  doanh nghiệp có thể  vận hành và thực hiện được các chiến   lược cạnh tranh trong sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của   doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi  của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn. Như vậy, năng lực cạnh tranh của   doanh nghiệp trước hết phải được tạo ra từ  thực lực của doanh nghiệp. Đây là   các yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được tính bằng các tiêu chí  về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp… một cách riêng  biệt mà cần đánh giá, so sánh với các đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng  một lĩnh vực, cùng một thị trường. Sẽ là vô nghĩa nếu những điểm mạnh và điểm   yếu bên trong doanh nghiệp được đánh giá không thông qua việc so sánh một cách   tương  ứng với các đối tác cạnh tranh. Trên cơ  sở  các so sánh đó, muốn tạo nên  
  8. 8 năng lực cạnh tranh, đòi hỏi doanh nghiệp phải tạo lập được lợi thế so sánh với  đối tác của mình. Nhờ lợi thế này, doanh nghiệp có thể thoả mãn tốt hơn các đòi   hỏi của khách hàng mục tiêu cũng như lôi kéo được khách hàng của đối tác cạnh  tranh. 1.2. Đề xuất mô hình phân tích năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ  và vừa ngành Dệt May Mô hình nghiên cứu được lựa chọn trong luận án về cơ bản mô hình này  phỏng theo mô hình của Michael Porter có lược đi một vài yếu tố “ngoại vi” và  bổ sung thêm yếu tố “nội vi” cho phù hợp với mục đích nghiên cứu của đề tài. Xác lập các tiêu chí và chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của DNNVV   ngành Dệt May dựa trên mô hình của Michael Porter Có rất nhiều tiêu chí dùng để  đánh giá năng lực cạnh tranh của một   doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi xem xét, nghiên cứu và phân tích cụ thể tình hình  thực tế  mỗi lĩnh vực sẽ  có thể  sử  dụng các tiêu chí khác mà phạm vi nghiên  cứu chưa thể  bao quát đầy đủ. Dưới đây là một số  yếu tố  chủ  yếu thường   được xem xét khi đánh giá năng lực cạnh tranh của DNNVV ngành Dệt May   như sau: (i) Năng lực tài chính Một doanh nghiệp muốn cạnh tranh được trước hết phải có đủ năng lực   về  tài chính. Tình hình tài chính của doanh nghiệp thể  hiện sức mạnh của  doanh nghiệp trong cạnh tranh. Trong đó, vốn là một trong những điều kiện  cần để doanh nghiệp duy trì và mở rộng hoạt động của mình. Do đó, khả năng  huy động vốn và sử  dụng vốn hiệu quả  sẽ  làm cho năng lực tài chính của  doanh nghiệp mạnh lên. (ii) Năng lực quản lý và điều hành Đây là tiêu chí đánh giá trình độ quản lý, lãnh đạo doanh nghiệp trong tổ  chức sản xuất của doanh nghiệp. Tiêu chí về  năng lực quản lý và điều hành   doanh nghiệp được xác định bởi hiệu quả  và hiệu lực của các chiến lược,  chính sách kinh doanh cụ thể sau: các chính sách Marketing; chính sách đào tạo   và phát triển nguồn nhân lực; chính sách đầu tư…Tăng cường năng lực quản lý   và điều hành doanh nghiệp góp phần quan trọng trong việc đưa doanh nghiệp  dành thắng lợi trên thương trường trước các áp lực cạnh tranh gay gắt của các   doanh nghiệp trong và ngoài nước. Điều này thể hiện ở việc ban hành các công  cụ quản lý, các chế độ chính sách, các chiến lược kinh doanh và phối hợp mọi   nguồn lực của doanh nghiệp nhằm thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. (iii) Tài sản vô hình của doanh nghiệp Trong cơ chế thị trường, sự cạnh tranh luôn diễn ra quyết liệt, mà yếu tố  quan trọng nhất là vị trí của doanh nghiệp trong lòng khách hàng. Do vậy, uy tín  đóng vai trò quyết định tới sự thành bại trong cuộc chiến để khẳng định sự tồn   tại và sức mạnh của doanh nghiệp. Giá trị vô hình của doanh nghiệp được đánh  giá thông qua hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đến thái độ và hành vi của   khách hàng, các đối tác của doanh nghiệp trong và ngoài nước. Mức độ  nhận 
  9. 9 biết được tiềm lực này thông qua mức độ nhận biết/hiểu rõ/quen thuộc về sản   phẩm, những đặc điểm hình ảnh cụ thể, những yếu tố cân nhắc khi mua  sắm,   mức độ thỏa mãn hay sự giới thiệu cho những người khác. (iv) Trình độ trang thiết bị và công nghệ Ngày nay, khoa học và công nghệ  đóng vai trò quan trọng đối với doanh  nghiệp trong việc sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ cạnh tranh trên thị trường. Sự thay  đổi của công nghệ ảnh hưởng đến chu kỳ sống của một sản phẩm hoặc một dịch   vụ.  (v) Năng lực Marketing Hệ  thống bán hàng và các hoạt động Marketing đưa sản phẩm đến với   khách hàng, thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Sức mạnh cạnh tranh  được tạo ra bởi hoạt động marketing và bán hàng hết sức to lớn. Chất lượng   phục vụ  khách hàng góp phần không nhỏ  tới việc nâng cao chất lượng sản   phẩm dịch vụ. Nó xây dựng hình  ảnh tốt đẹp của doanh nghiệp trong lòng   khách hàng, giữ  khách hàng trung thành với sản phẩm của doanh nghiệp. Để  đánh giá năng lực Marketing của doanh nghiệp cần phải  đánh giá được hệ  thống các tiêu chí như: hệ thống phân phối; các chính sách về  giá; chiết khấu;  hoa hồng hay các chính sách chăm sóc khách hàng. Đặc biệt các hoạt động  quảng bá tuyên truyền sản phẩm dịch vụ cũng như hình ảnh của doanh nghiệp. (vi) Cơ cấu tổ chức Việc xem xét, phân tích sự phù hợp của mô hình tổ chức và bộ máy quản   lý một cách thường xuyên sẽ  giúp doanh nghiệp hạn chế  được các bất cập   đang tác động bất lợi đến hoạt động sản xuất chung của một doanh nghiệp   đồng thời đưa ra các quyết định về điều chỉnh, hoàn thiện mô hình tổ chức hợp  lý sẽ  giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn doanh nghiệp được  hiệu quả. (vii) Nguồn nhân lực Con người là yếu tố quan trọng quyết định đến sự tồn tại, phát triển của  doanh nghiệp. Trình độ, chất lượng đội ngũ lao động  ảnh hưởng đến chất  lượng của sản phẩm dịch vụ mà doanh nghiệp đang cung cấp. Lao động phải  có trình độ, cùng với lòng hăng say làm việc thì mới tiếp cận, vận hành được   công nghệ trình độ cao. Đó là cơ sở để tạo nên sức mạnh cạnh tranh cho doanh  nghiệp. Tiêu chí về  trình độ  của người lao động được đánh giá thông qua sự  phát triển trình độ của người lao động và năng suất lao động. (viii) Năng lực đầu tư nghiên cứu và phát triển Nghiên cứu và phát triển đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện và   ứng dụng những công nghệ  mới kịp thời, để  tạo lợi thế  cạnh tranh trên thị  trường như: phát triển sản phẩm mới trước đối thủ cạnh tranh; nâng cao chất   lượng sản phẩm; cải tiến quy trình sản xuất để giảm chi phí… Hoạt động này   có sự  khác nhau giữa các doanh nghiệp, giữa các ngành, đồng thời còn phụ  thuộc vào  nhiều yếu tố như: đặc trưng của sản phẩm; nguồn nhân lực; nguồn   vốn; sự  hỗ  trợ  của Chính phủ… Các doanh nghiệp theo đuổi chiến lược phát 
  10. 10 triển sản phẩm mới rất quan tâm đến hoạt động R&D, liên kết với các đơn vị  nghiên cứu khác để đưa các công trình nghiên cứu mới vào sản xuất. (ix) Năng lực hợp tác trong nước và quốc tế Hội nhập Kinh tế quốc tế, trước hết các doanh nghiệp phải khẳng định  được vị  thế  trên thị  trường trong nước trên cơ  sở  tăng cường hợp tác kinh   doanh với các đối tác trong nước để các bên cùng có lợi. Sau đó buộc các doanh  nghiệp  phải  cân  nhắc, xem  xét  đến khả   năng tham  gia kinh  doanh trên  thị  trường quốc tế  mà không chỉ  bó hẹp chiếm lĩnh thị  trường trong nước. Việc  tham gia hợp tác quốc tế sẽ tận dụng được các cơ hội để mở rộng thị trường,   tìm các đối tác để  cùng kinh doanh có lợi. Khi đó doanh nghiệp có thể  đứng  vững trên thương trường, khẳng định vị  thế  của doanh nghiệp  ở  thị  trường   trong và ngoài nước.  Từ  các chỉ  tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ  và   vừa trên ta có thể tổng hợp lại như sau: Bảng 1.1. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành Dệt May Nhóm chỉ số Các chỉ số thành phần Năng lực tài chính ­ Tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận ­ Tỷ suất lợi nhuận ­ Tăng trưởng thị phần Năng lực quản lý và  ­ Khả năng phân tích đối thủ cạnh tranh điều hành ­ Phân tích và dự báo môi trường kinh doanh ­ Năng lực hoạch định và tổ chức thực hiện chiến lược Tài sản vô hình của  ­ Khả năng nâng cao thương hiệu và uy tín doanh nghiệp doanh nghiệp ­ Khả năng nâng cao thương hiệu về sản phẩm, dịch vụ  trên thị trường Trình độ trang thiết bị  ­ Năng lực về công nghệ và công nghệ ­ Khả  năng  ứng dụng KHCN vào cung cấp sản phẩm dịch   vụ ­ Khả năng và tốc độ đổi mới công nghệ ­ Mức độ hiện đại và công nghệ đang sử dụng Năng lực Marketing ­ Năng lực nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ ­ Khả năng giảm giá bán ­ Khả năng phân phối và xúc tiến hỗn hợp Cơ cấu tổ chức ­ Độ linh hoạt trong tổ chức, đổi mới sản xuất ­ Mức độ chuyên môn hóa trong sản xuất Nguồn nhân lực ­ Đánh giá lao động ­ Động lực đối với người lao động Năng lực đầu tư R&D ­ Phương tiện và thiết bị dành cho R&D ­ Nguồn nhân lực cho R&D Năng lực hợp tác trong  ­ Khả năng liên doanh, liên kết, hợp tác trong nước nước và quốc tế ­ Khả năng hợp tác quốc tế trong mở rộng thị trường Nguồn: Kế thừa từ mô hình Michael Porter
  11. 11 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA DỆT MAY VIỆT NAM 2.1. Đánh giá cụ thể năng lực cạnh tranh của các DNNVV ngành Dệt May  qua kết quả khảo sát thực tế Hoạt động cạnh tranh của DNNVV dệt may gặp nhiều khó khăn, thách  thức khi những đối thủ cạnh tranh trực tiếp là các doanh nghiệp quy mô lớn và  các doanh nghiệp có vốn đầu tư  trực tiếp nước ngoài (FDI). Việc chiếm lĩnh  khả  năng cạnh tranh bằng nhiều khía cạnh của doanh nghiệp quy mô  lớn,  doanh nghiệp FDI bởi những sản phẩm đa dạng, những chính sách phân phối  sản phẩm hiệu quả, chính sách tài chính  ổn định và phát triển...Những khó   khăn, thách thức này là rào cản lớn đối với DNNVV, gây ra nhiều khó khăn cho   hoạt động của sản xuất kinh doanh của DNNVV.  Điều này được thể  hiện  thông qua một số chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của DNNVV như sau: 2.1.1. Năng lực tài chính Năng lực tài chính có vai trò quan trọng trong hoạt động của DNNVV dệt  may, năng lực tài chính quyết định việc đầu tư  máy móc, thiết bị, công nghệ  hiện đại, năng lực tài chính quyết định việc có mở  rộng sản xuất kinh doanh  hay không, hay năng lực tài chính quyết định đến thu nhập của người lao động.  Một số chỉ tiêu tài chính của DNNVV dệt may được khái quát trong bảng 2.1. Bảng 2.1 Một số chỉ tiêu về năng lực tài chính của DNNVV ngành Dệt  May  Đơn vị: Giá trị (nghìn tỷ đồng); Tốc độ (%) Năm STT Chỉ tiêu 2010 2011 2012 2013 2014 1 Doanh thu Tổng doanh thu 502,34 570,86 616,47 715,80 1.1 861,538 5 6 5 8 1.2 Tốc độ tăng doanh thu ­ 13,64 7,98 16,11 20,35 2 Lợi nhuận 2.1 Tổng lợi nhuận 8,724 10,962 13,153 19,144 16,583 2.2 Tốc độ tăng lợi nhuận ­ 25,63 19,98 45,54 ­13,37 3 Vốn đầu tư 3.1 Tổng vốn đầu tư 39,724 48,375 44,650 37,259 69,627 Tốc   độ   tăng   vốn   đầu  3.2 ­ 21,77 ­7,70 ­16,55 86,87 tư Nghĩa vụ nộp ngân   4 sách 4.1 Nộp NSNN 1,7448 2,1924 2,6306 3,8288 3,3166 4.2 Tốc độ tăng nộp NSNN ­ 25,65 19,98 45,54 ­13,37
  12. 12 Nguồn: Tổng cục Thống kê và tổng hợp của tác giả 2015 Bảng 2.1 cho thấy: tổng doanh thu của DNNVV dệt may đều tăng qua các  năm, từ  năm 2010 – 2014. Đây là dấu hiệu tốt đánh giá hoạt động sản xuất  kinh doanh của DNNVV có hiệu quả. Điển hình tổng doanh thu năm 2014 tăng  20,35% so với năm 2013, chứng tỏ  tốc độ  tăng của ngành dệt may nói chung,  của DNNVV dệt may nói riêng là lớn. Bảng 2.1 cũng cho thấy: mặc dù tổng  doanh thu tăng qua các năm, nhưng lợi nhuận không phải năm nào cũng tăng.  Điều này được thể hiện ở năm 2014 so với năm 2013, tuy doanh thu tăng nhưng   lợi nhuận năm 2014 lại giảm so với năm 2013, nguyên nhân một phần do năm  2014 DNNVV gặp nhiều khó khăn khi cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu, giá  nguyên vật liệu đầu vào tăng cao và phải đầu tư nhiều vào cơ sở vật chất, máy  móc thiết bị... 2.1.2. Năng lực quản lý và điều hành Trong những năm trở lại đây, đối với DNNVV công tác quản lý và điều  hành ở cấp độ vĩ mô đã có sự chuyển biến tích cực. Điều này được thể hiện ở  mức độ đánh giá của chính cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp khi được   khảo sát. Tuy nhiên, sự chậm trễ và kém linh động của thời gian trước đã ảnh  hưởng đáng kể  đến việc quản lý và điều hành, do đó muốn thay đổi không   phải một sớm, một chiều có thể  thay đổi được ngay. Sự  nhận thức thấy tầm   quan trọng của việc quản lý và điều hành sẽ  tác động tích cực đến hiệu quả  của nó.  Bên cạnh đó, đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn, với doanh nghiệp  FDI của ngành dệt may thì yếu tố  này đóng vai trò quan trọng. Các đối thủ  cạnh tranh này chú trọng và thường xuyên điều chỉnh cách thức  điều hành  nhằm gắn sát sườn với cán bộ, công nhân viên của doanh nghiệp. Điển hình có   thể  thấy hàng loạt hệ  thống văn bản, các quy định của doanh nghiệp được   điều chỉnh đúng thời điểm, nhằm tạo thuận lợi cho cán bộ, công nhân viên làm  việc một cách phù hợp hơn.  Qua kết quả khảo sát của tác giả  có thể  đánh giá các DNVVV yếu kém  hơn các đối thủ cạnh tranh chính về năng lực quản lý và điều hành. Lý giải cho   phần này cũng xuất phát từ  nhận thức theo cách mô hình quản lý gia đình, các  DNNVV bị động hơn trong việc thay đổi cách thức quản lý và điều hành theo   thời gian. Số liệu khảo sát kết quả này của DNNVV, doanh nghiệp quy mô lớn  và doanh nghiệp FDI lần lượt theo mức độ  cao ­ khá ­ trung bình là: 44 ­ 82 ­  156/285 phiếu đánh giá (phụ lục ­ mẫu phiếu số 1). 2.1.3. Tiềm lực vô hình (giá trị phi vật chất của doanh nghiệp) Tiềm lực vô hình là một trong những vũ khí cạnh tranh sắc bén của doanh   nghiệp trên thị trường. Đo lường giá trị này rất khó mà đó là những giá trị được  cảm nhận bởi chính khách hàng của doanh nghiệp. Đối với các DNNVV dệt  may trên thị trường hiện nay gặp bất lợi trong cạnh tranh với các đối thủ chính,  điều này cũng dễ hiểu bởi hình ảnh của các DNNVV là không rõ nét trong tâm  trí khách hàng trên thị trường. Các doanh nghiệp này ít chú trọng đến việc xây 
  13. 13 dựng và phát huy hình ảnh của mình. Họ cho rằng, vấn đề trọng tâm là làm sao  để tiêu thụ được nhiều sản phẩm hàng hóa.  Việc làm không bài bản và thiếu khoa học, nên các DNNVV không nhận  thức được sự tác động mạnh mẽ và hiệu quả của giá trị phi vật chất của doanh  nghiệp, làm cho giá trị của doanh nghiệp được nâng cao. Do vậy, các DNNVV  thường gặp bất lợi khi cạnh tranh với các đối thủ chính trên thị trường.  Kết quả  khảo sát của tác giả  cũng đã chỉ  ra nhược điểm này của các  DNNVV dệt may trên thị trường Việt Nam. Làm sao để nâng cao giá trị phi vật   chất của DNNVV để tăng dấu ấn của doanh nghiệp trong tâm trí khách hàng là   việc làm cần thiết trong DNNVV hiện nay. Kết quả  khảo sát của DNNVV,  doanh nghiệp quy mô lớn và doanh nghiệp FDI ngành dệt may lần lượt theo   mức độ cao – khá – trung bình là: 26 – 59 – 183/285 phiếu đánh giá (phụ lục –   mẫu phiếu số 1). 2.1.4. Trình độ trang thiết bị và công nghệ Trình độ trang thiết bị và công nghệ sẽ quyết định đến khả năng sản xuất   ra sản phẩm của doanh nghiệp. Sản phẩm đạt chất lượng ở cấp độ nào, trình độ  trang thiết bị và công nghệ quyết định đến năng suất và giá thành sản phẩm của   doanh nghiệp.  Đối với các DNNVV trình độ trang thiết bị và công nghệ được đánh giá ở  một số  nội dung như: Năng lực  ứng dụng công nghệ  vào sản xuất của các   doanh nghiệp này hạn chế nhiều so với các đối thủ cạnh tranh chính. Một mặt   do khó khăn về nguồn vốn của doanh nghiệp, DNNVV thường tận dụng những   trang thiết bị cũ, điều đó làm giảm năng suất và chất lượng sản phẩm, dẫn đến  giá thành sản phẩm cao. Mặt khác, đa số các DNNVV sản xuất  ở quy mô nhỏ  lẻ, manh mún nên không chú trọng nhiều đến trang thiết bị và công nghệ.  Thêm vào đó, khi muốn  ứng dụng trang thiết bị  và công nghệ  hiện đại   vào sản xuất, buộc các DNNVV phải chuẩn bị  được đội ngũ nhân lực có tay  nghề, trình độ  nhằm đáp  ứng yêu cầu về   ứng dụng khoa học kỹ  thuật. Đảm  bảo có thể  sử  dụng một cách thành thạo công nghệ  hiện đại, nhằm đạt hiệu   quả kinh tế cao.  Thực tế, đối với các doanh nghiệp dệt may quy mô lớn, hay các doanh   nghiệp FDI luôn có nền tảng tài chính vững mạnh, họ  sẵn sàng đầu tư, đổi   mới công nghệ nhằm tăng năng suất, chất lượng và giảm giá thành sản phẩm.   Điều này rất quan trọng để doanh nghiệp có thể cạnh tranh trên thị trường.  Kết quả  khảo sát của tác giả  về  yếu tố  trình độ  trang thiết bị  và công   nghệ  cũng cho thấy, đa số  các DNNVV được khảo sát thống nhất quan điểm,  thiếu vốn, cách tiếp cận các tổ chức, tín dụng hạn chế đã dẫn đến kết quả  là   khó khăn trong việc ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại trong sản xuất sản  phẩm. Điều đó được thể hiện đối với các DNNVV, doanh nghiệp quy mô lớn   và doanh nghiệp FDI ngành dệt may theo mức độ  cao – khá – trung bình lần   lượt là: 19 – 91 – 152/285 phiếu đánh giá (phụ lục – mẫu phiếu số 1) . Kết quả 
  14. 14 điều tra này chứng tỏ  DNNVV ít thay đổi và  ứng dụng công nghệ  tiên tiến,   hiện đại hơn so với các đối thủ cạnh tranh chính. 2.1.5. Năng lực Marketing ‒ Chính sách giá bán sản phẩm Trước tình hình ngày càng khó khăn của thị  trường như  hiện nay, việc  các DNNVV sử  dụng chính sách giá bán linh hoạt và hiệu quả  là cần thiết.  Nhưng điều đó dường như khó thực hiện, DNNVV chưa linh động, bám sát thị  trường trong việc điều chỉnh chính sách giá bán một cách linh hoạt, nhằm đáp   ứng tâm lý và thị  hiếu của khách hàng. Các DNNVV thường xây dựng chính  sách giá bán sản phẩm trong khoảng thời gian dài, khó điều chỉnh chính sách  giá bán vì thị trường nhỏ hẹp, chủ yếu là các nhà buôn bán nhỏ lẻ, thị trường là  thị trường ngách. Điều này gây bất lợi so với các đối thủ cạnh tranh chính trong   cạnh tranh.  Chính sách giá bán linh hoạt giúp khách hàng tiếp cận sản phẩm dễ dàng   hơn, tác động trực tiếp đến số  lượng sản phẩm tiêu thụ  của doanh nghiệp.  DNNVV khó khăn trong việc đảm bảo doanh số  bán khi thị  trường có sự  biến  động, những tác động của thị trường làm thay đổi thói quen, khả năng thanh toán   của khách hàng. Do đó, trong mọi hoàn cảnh và điều kiện của thị  trường các   DNNVV cần xây dựng chính sách giá bán sản phẩm một cách linh hoạt, nhằm  đảm bảo doanh số tiêu thụ.  Kết quả  khảo sát cho thấy đa số  các doanh nghiệp được khảo sát đều  đánh giá mức độ linh hoạt của chính sách giá bán là trung bình, thậm trí một số  doanh nghiệp còn đánh giá chỉ  tiêu này là thấp. Chỉ  tiêu này  ở  các DNNVV so  với doanh nghiệp quy mô lớn và doanh nghiệp FDI theo mức độ  cao – khá –   trung bình lần lượt là: 61 – 105 – 127/285 phiếu đánh giá (phụ lục – mẫu phiếu   số 1). ‒ Chính sách chăm sóc khách hàng Chính sách chăm sóc khách hàng của các DNNVV còn nhiều yếu kém,   thiếu tính chuyên nghiệp và đôi khi không tồn tại ở một số doanh nghiệp. Việc   thiếu chuyên nghiệp trong việc xây dựng và  ứng dụng chính sách chăm sóc  khách hàng, làm cho các DNNVV gặp nhiều khó khăn  đối với khách hàng.  Khách hàng dường như không có thói quen mua lặp lại đối với sản phẩm của   DNNVV, vì đại đa số  DNNVV khi bán được sản phẩm thì sẽ  ít và thậm trí  không quan tâm đến việc khách hàng sử dụng sản phẩm đó như thế nào.  Kết quả khảo sát chỉ tiêu này của DNNVV so với doanh nghiệp quy mô   lớn và doanh nghiệp FDI theo mức độ  cao – khá – trung bình lần lượt là: 18 –   107 – 126/285 phiếu đánh giá (phụ lục – mẫu phiếu số 1). ‒ Chính sách quảng cáo, khuyến mại và tiếp thị Thời gian gần đây các DNNVV đã bắt đầu và dần ý thức được việc xây   dựng những chương trình xúc tiến bán hàng cho doanh nghiệp mình, một trong   những chính sách mà các DNNVV xây dựng và áp dụng ngoài thị trường đó là   việc khuyến mại bằng nhiều hình thức khác nhau. Trong đó chính sách giảm 
  15. 15 giá bán sản phẩm được các DNNVV áp dụng nhiều nhất, việc áp dụng chính  sách này đem lại hiệu quả tức thời cho các DNNVV, một mặt nó tác động trực   tiếp đến sức mua của khách hàng, mặt khác các doanh nghiệp có thể  giảm   lượng hàng tồn kho và thu hồi vốn nhanh nhất. Bên cạnh đó, chính sách quảng  cáo và tiếp thị các DNNVV ít quan tâm hơn, đây là yếu điểm lớn của DNNVV   so với các đối thủ  cạnh tranh chính. Các DNNVV cho rằng chính sách này  không tác động trực tiếp đến hiệu quả  bán hàng của doanh nghiệp, nên nhiều  doanh nghiệp đã không xây dựng và áp dụng chính sách này.  Để  nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNVV trên thị  trường, cần xây  dựng và áp dụng chương trình xúc tiến bán hàng một cách khoa học và thường  xuyên. Một mặt các DNNVV nâng cao nhận thức để thấy tầm quan trọng của  chương trình xúc tiến bán hàng, mặt khác đây là vũ khí cạnh tranh quan trọng   của DNNVV so với các đối thủ  cạnh tranh chính trên thị  trường. Tỷ  lệ  các   DNNVV sử dụng công cụ khuyến mại ngày càng tăng cao, việc xây dựng và áp  dụng chính sách quảng cáo và tiếp thị cũng đã trở thành việc cần thiết đối với  các doanh nghiệp này.  Tóm lại, qua kết quả khảo sát, phân tích cho thấy năng lực marketing của   DNNVV bất lợi đáng kể  so với các đối thủ  cạnh tranh. Tỷ  lệ  lớn các doanh   nghiệp được khảo sát cho rằng, năng lực marketing của doanh nghiệp  ở  mức  khá so với các đối thủ  cạnh tranh chính (chiếm tới 50,1%), và nhiều doanh  nghiệp cũng khẳng định năng lực marketing của doanh nghiệp chỉ  ở mức trung  bình so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt, trong hệ thống chỉ  tiêu này thì chỉ tiêu năng lực nghiên cứu thị trường và chăm sóc khách hàng của  DNNVV, chỉ  ở mức trung bình so với đối thủ cạnh tranh chính (chiếm tới trên   44%). 2.1.6. Về cơ cấu tổ chức Hiện nay hầu hết các DNNVV cơ cấu tổ chức là đơn giản, gọn nhẹ. Số  lượng các phòng, ban đều hạn chế nhằm giảm thiểu chi phí cho doanh nghiệp.  Bộ máy tổ chức tinh gọn cũng vì đặc thù của các doanh nghiệp này, sản phẩm  đơn giản, khách hàng chủ yếu ở thị trường ngách, nên các phòng, ban chỉ đảm   bảo tối thiểu cho hoạt động của doanh nghiệp. Ví dụ  như, đa số  các DNNVV   bộ  phận thiết kế sản phẩm là không có, nếu có cũng chỉ  dừng lại  ở mức hạn  chế về quy mô và số  lượng nhân viên. Việc đơn giản hóa bộ  phận các phòng,   ban dẫn đến các DNNVV thiếu tính chuyên nghiệp trong tổ chức. Một bộ phận  có thể phải đảm nhận nhiều công việc khác nhau.  Trong khi đó, các đối thủ  cạnh tranh chính của DNNVV thì cơ  cấu tổ  chức được bố  trí một cách đầy đủ, khoa học và có tính chuyên môn hóa cao.  Việc các đối thủ cạnh tranh xây dựng cơ cấu tổ chức đầy đủ, sẽ đảm bảo việc  tạo ra sản phẩm một cách đa dạng, có tính cạnh tranh cao hơn. Sản phẩm đa  dạng sẽ  dẫn đến tình trạng những khách hàng  ở  thị  trường phụ  cũng có thể  được đáp  ứng sản phẩm, điều đó dẫn đến việc các DNNVV dần dần sẽ  mất   thị phần vào tay đối thủ cạnh tranh. 
  16. 16 Kết quả khảo sát cho thấy, các DNNVV đều đánh giá cơ cấu tổ chức, sản   xuất của doanh nghiệp chỉ ở mức trung bình (chiếm khoảng 45%), trong đó yếu   tố tính chuyên môn hóa trong sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp là bất lợi thế  nhất (chiếm gần 52%) so với đối thủ  cạnh tranh. Yếu tố  này ở  mức khá chỉ  là  32,2%. 2.1.7. Về nguồn nhân lực Nguồn nhân lực của DNNVV là vấn đề  lớn mà các doanh nghiệp này đề  cập tới, khi muốn tăng khả năng cạnh  tranh với các đối thủ chính. Số lượng và  chất lượng nhân lực trong DNNVV đều thiếu, doanh nghiệp thường sử  dụng  nguồn nhân lực  ở  mức độ  trung bình, nhằm giảm chi phí. Mặt khác, nguồn   nhân lực trong các DNNVV dường như  không làm việc trong thời gian dài,  mang tính cố  định, mà thường thay đổi nơi làm việc khi có cơ  hội tốt hơn.   Thực trạng này đã tồn tại trong các DNNVV thời gian dài, muốn thay đổi thì  phải thay đổi từ nhận thức của chính lãnh đạo và chủ doanh nghiệp. Hơn nữa,   công tác đào tạo nhằm duy trì và phát triển nhân lực trong mỗi doanh nghiệp  cũng không được thực hiện thường xuyên. Họ  cho rằng, với trình độ  và tay  nghề hiện có của nhân lực thì chỉ sử dụng ở mức độ đấy, không cần nâng cao   trình độ, tay nghề. Như  vậy, sau thời gian hệ quả tất yếu sẽ là đội ngũ nhân  lực trong doanh nghiệp sẽ hạn chế về tay nghề, yếu về chuyên môn. Gián tiếp   làm giảm tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. 
  17. 17 Thực trạng nguồn nhân lực của DNNVV dệt may được khái quát như  sau: Bảng 2.2. Thực trạng lực lượng lao động của DNNVV DM giai đoạn 2010 –  2014 Đơn vị: SL: Số lượng (người); Tỷ lệ (%) Năm  Cơ cấu  2010 2011 2012 2013 2014 TT lao động Tỷ  Tỷ  Tỷ  Tỷ  Tỷ  (Người) SL SL SL SL SL lệ lệ lệ lệ lệ Tổng   số  1 563.080 100 630.929 100 701.320 100 815.753 100 1.573.820 100 LĐ 2 Trên ĐH 281 0,04 316 0,04 422 0,06 571 0,07 1.574 0,10 Đại học và  3 28.154 5,00 40.632 6,44 56.176 8,01 90.549 11,1 195.154 12,4 CĐ 4 Trung cấp 19.708 3,49 38.108 6,04 57.929 8,26 104.008 12,75 213.095 13,54 5 Công nhân 291.112 51,70 375.213 59,47 440.428 62,80 467.753 57,34 946.653 60,15 Chưa   qua  6 223.937 39,77 176.660 28,01 146.365 20,87 152.872 18,74 217.344 13,81 đào tạo Nguồn: Niên giám thống kê và tổng hợp của tác giả 2014 Số liệu bảng 2.2 cho thấy: từ năm 2010 đến năm 2014 số lượng nhân lực  ngành DM của DNNVV tăng lên, từ  trên 500.000 lao động năm 2010 tăng lên  trên 1,5 triệu lao động năm 2014. Đây là số liệu đáng mừng đối với ngành, tốc   độ  tăng số  lượng lao động của ngành có sự  chuyển dịch theo hướng tích cực.   Lao động chưa qua đào tạo có xu hướng giảm dần, lao động có trình độ  (đặc  biệt lao động có trình độ cao) có xu hướng tăng đáng kể. Tỷ  lệ lao động chưa  qua đào tạo năm 2010 khoảng gần 40%, đến năm 2014 đã giảm xuống chỉ còn  gần 14%. Tỷ lệ lao động trình độ trên đại học năm 2010 chỉ ở mức 0,04%, năm   2014 tăng lên 0,1%. Đây là thời cơ tốt để các doanh nghiệp tăng khả năng cạnh   tranh. Hình 2.1. Cơ cấu lao động DNNVV ngành DM theo trình độ năm 2014 Nguồn: Tổng hợp của tác giả 2014 Hình 2.1 cho thấy cơ  cấu lao động DNNVV ngành DM năm 2014 thì tỷ  lệ công nhân chiếm cao nhất (trên 60%), thấp nhất là lao động có trình độ  trên 
  18. 18 đại học (chiếm tỷ  lệ  0,1%). Thực trạng lao động có trình độ  cao đang thiếu  trầm trọng, cần có những chiến lược và giải pháp để  đào tạo và thu hút lao   động có trình độ vào làm việc trong ngành DM thời gian tới. Kết quả khảo sát  cũng cho thấy chất lượng và trình độ  lao động của DNNVV so với đối thủ  cạnh tranh cũng thấp, tỷ  lệ  cao – trung bình – thấp tương  ứng là: 3 – 121 –   149/285 phiếu đánh giá (phụ lục – mẫu phiếu số 1). Hơn nữa, yếu tố tạo động  lực khuyến khích người lao động của DNNVV so với đối thủ cạnh tranh cũng   yếu, tỷ  lệ  cao – trung bình – thấp tương  ứng là: 2 – 86 – 151/285 phiếu đánh  giá (phụ lục – mẫu phiếu số 1). 2.1.8. Năng lực đầu tư nghiên cứu và triển khai Nghiên cứu khoa học là một trong những nhiệm vụ thường xuyên để các  doanh nghiệp có thể  tạo ra sản phẩm mới.  Ứng dụng NCKH hiệu quả  góp  phần sản xuất sản phẩm có chất lượng cao hơn, giá thành rẻ  hơn và quan  trọng là tăng sức cạnh tranh trên thị trường.  Thực tế cho thấy, các DNNVV thường ít chú trọng đến khâu này. Họ cho   rằng công tác R&D quá tốn kém và không có lợi ích, việc nghiên cứu đòi hỏi  phải có đội ngũ nhân lực có trình độ  cao, có khả  năng ứng dụng vào sản xuất  kinh   doanh   của   doanh   nghiệp.   Kết   quả   khảo   sát   cho   thấy:   tỷ   lệ   lớn   các  DNNVV cho rằng việc R&D là không quan trọng đối với doanh nghiệp, cụ thể  các DNNVV cho rằng năng lực R&D của doanh nghiệp so với đối thủ  cạnh  tranh theo các tiêu chí: Rất quan trọng – Quan trọng – Không quan trọng lần   lượt là: 26 – 93 – 166/285 phiếu đánh giá (phụ lục – mẫu phiếu số 4). Điều này  đồng nghĩa với việc các DNNVV không quan tâm đến công tác R&D.  Bên cạnh đó, năng lực  ứng dụng NCKH và cải tiến kỹ  thuật vào sản   xuất của DNNVV cũng có nhiều hạn chế. Đây là yếu điểm lớn, một mặt là do  trình độ  năng lực nhân lực của doanh nghiệp yếu kém, không có khả năng đáp  ứng. Mặt khác, do các DNNVV không có những bộ  phận chuyên trách về  lĩnh  vực NCKH để  đảm trách công việc này. Kết quả  khảo sát cho thấy tỷ  lệ  các   DNNVV đánh giá về mức độ: Rất quan trọng – Quan trọng – Không quan trọng  lần lượt là: 40 – 103 – 142/285 phiếu đánh giá (phụ lục – mẫu phiếu số 4).  Từ những số liệu và thực trạng của DNNVV có thể  thấy: do không chú  trọng và quan tâm đến khâu R&D đã làm cho sức cạnh tranh của DNNVV so   với đối thủ cạnh tranh chính bị bất lợi. 2.1.9. Năng lực hợp tác trong nước và quốc tế  DNNVV ngành dệt may hiện nay chủ yếu hoạt động ở thị trường trong   nước, các DNNVV có mối quan hệ  chặt chẽ  với các doanh nghiệp khác trong  ngành. Chính điều này đã tạo thói quen cho DNNVV khách hàng chủ yếu là nội   địa, khách hàng nội địa dễ  tính và có nhiều lựa chọn hơn cho doanh nghiệp   cung cấp sản phẩm. Việc chỉ duy trì khách hàng nội địa làm cho DNNVV khó   có thể  cạnh tranh với các đối thủ  chính. Nói cách khác, việc hợp tác và liên  doanh liên kết với nước ngoài gặp nhiều khó khăn đối với DNNVV. 
  19. 19 Thực tế cũng chứng minh, kết quả khảo sát các DNNVV về chỉ tiêu năng  lực hợp tác trong nước và quốc tế, đa số các DNNVV chỉ quan tâm đến việc liên  doanh, hợp tác với các doanh nghiệp khác trong nước. Chỉ tiêu này phản ánh ở các   mức độ: cao – khá – trung bình là: 87 – 151 – 38/285 phiếu đánh giá ( phụ  lục –   mẫu phiếu số  1). Mặt khác, việc liên doanh liên kết với thị  trường quốc tế  thì   DNNVV ít quan tâm, họ  mặc định việc làm này là vô cùng khó khăn, khi doanh  nghiệp của họ chỉ có quy mô nhỏ và vừa. Điều này cũng được phản ánh bằng kết   quả khảo sát ở các mức độ: cao – khá – trung bình là: 7 – 28 – 157/285 phiếu đánh  giá (phụ lục – mẫu phiếu số 1).  Vậy, việc chỉ  quan tâm đến thị  trường trong nước mà không có chiến   lược để vươn ra thị trường quốc tế, đã đồng tình với việc làm giảm sức cạnh  tranh của DNNVV ngành dệt may so với đối thủ cạnh tranh chính.  2.1.1. Tổng hợp so sánh năng lực cạnh tranh của DNNVV so với đối thủ  cạnh tranh chính Từ việc phân tích thực trạng về năng lực cạnh tranh của DNNVV ngành  dệt may VN, kết hợp với việc khảo sát năng lực cạnh tranh của DNNVV so  với những đối thủ  cạnh tranh chính (DN dệt may có quy mô lớn, DN dệt may  FDI), có thể  tổng hợp và so sánh một cách khách quan về  năng lực cạnh tranh   của DNNVV so với những đối thủ  này. Kết quả  tổng hợp so sánh các chỉ  tiêu   cạnh tranh mang tính chất tại một thời điểm nhất định, vì những chỉ tiêu này có   thể thay đổi nhanh chóng nhờ  sự  thay đổi của mỗi DN trong những thời điểm   khác nhau. Kết quả tổng hợp được thể hiện trong các bảng 2.3: Bảng 2.3. So sánh giá trị năng lực cạnh tranh của DNNVV so với  đối thủ cạnh tranh chính là các DN quy mô lớn và DN FDI Tầm  Giá trị năng lực cạnh  Điểm số đánh giá quan  tranh của DNNVV TT Chỉ tiêu DN DN  DN  trọn DN DN DN  NVV LỚN FDI g NVV LỚN FDI Về năng lực  1.08 1 1.270 1.252 3 3.252 3.810 3.756 tài chính 4 Năng lực về  1.02 2 quản lý điều  1.241 1.242 3 3.063 3.723 3.726 1 hành Tiềm lực  vô  3 949 1.163 1.257 3 2.847 3.489 3.771 hình Trình độ trang  4 thiết bị và  955 1.224 1.263 3 2.865 3.672 3.789 công nghệ Vể năng lực  1.15 5 1.247 1.243 2 2.304 2.494 2.486 Marketing 2 6 Cơ cấu tổ  929 1.228 1.232 2 1.858 2.456 2.464
  20. 20 Tầm  Giá trị năng lực cạnh  Điểm số đánh giá quan  tranh của DNNVV TT Chỉ tiêu DN DN  DN  trọn DN DN DN  NVV LỚN FDI g NVV LỚN FDI chức, sản xuất Về nguồn  1.01 7 1.251 1.271 3 3.039 3.753 3.813 nhân lực 3 Năng lực  8 nghiên cứu và  950 1.237 1.228 2 1.900 2.474 2.456 triển khai Năng lực hợp  1.18 9 tác trong nước  1.255 1.243 2 2.376 2.510 2.486 8 và quốc tế 9.24 11.11 11.23 23.50 28.38 Tổng cộng ­ 28.747 1 6 1 4 1 Nguồn: Kết quả khảo sát và tính toán của tác giả 2014 Kết quả  phân tích trong bảng cho thấy: Doanh nghiệp có vốn đầu tư  nước   ngoài   FDI   có   tổng   giá   trị   phản   ánh   năng   lực   cạnh   tranh   là   cao   nhất   (28.747 điểm), sau đó đến doanh nghiệp có quy mô lớn (28.381 điểm) và cuối  cùng là DNNVV (23.504 điểm). Kết quả  này phản ánh đúng thực trạng năng   lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, doanh nghiệp FDI có nhiều lợi thế vượt   trội như: nguồn nhân lực có chất lượng cao; tạo được hình ảnh rõ nét của sản   phẩm với người tiêu dùng. Trong khi đó, doanh nghiệp có quy mô lớn lại có lợi  thế về một số chỉ tiêu như: Năng lực nghiên cứu và triển khai; năng lực hợp tác   trong nước và quốc tế. Bảng 2.4. Tổng hợp kết quả phân tích và so sánh lợi thế cạnh tranh của  DNNVV so với các đối thủ cạnh tranh chính Đối thủ cạnh tranh  DNVVV chính Tươ Khó  Tươ Khó  STT Chỉ tiêu Có  Bất  Có  Bất  ng  xác  ng  xác  lợi  lợi  lợi  lợi  đươ địn đươ địn thế thế thế thế ng h ng h I Về năng lực tài chính X X 1 Tăng trưởng doanh thu x x 2 Tăng trưởng lợi nhuận x x 3 Tăng trưởng thị phần x x Năng   lực   về   quản   lý   và  II X X điều hành 1 Năng   lực   phân   tích   năng  x x lực cạnh tranh và đề  xuất 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1