intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 - 1945

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:26

44
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thông qua nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 - 1945, luận án góp một cái nhìn cụ thể, toàn diện hơn về kinh tế nông nghiệp thời Pháp thuộc ở Bắc Kỳ nói chung và đồng bằng Bắc Bộ nói riêng. Đồng thời trên cơ sở đó đánh giá một cách khách quan, khoa học về tác động của chính sách thuộc địa của Pháp đối với kinh tế nông nghiệp Hải Dương và rút ra những bài học kinh nghiệm cho công cuộc phát triển nông nghiệp, đổi mới nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 - 1945

  1. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Dân gian có câu: “Nông suy bách nghệ  bại”. Câu nói đó cho thấy  vai trò quan trọng, chủ  đạo của kinh tế  nông nghiệp đối với sự  phát  triển kinh tế  ­ xã hội  ở  Việt Nam nói chung. Vì vậy, chính quyền Nhà  nước trong những thời kỳ  lịch sử  khác nhau đều có những chủ  trương,  chính sách khuyến khích nông nghiệp phát triển. Trong quá trình cai trị  Việt Nam, thực dân Pháp rất chú trọng đến  lĩnh vực kinh tế  nông nghiệp. Đặc biệt, sau chiến tranh thế  giới thứ  nhất, nông nghiệp là lĩnh vực được đưa lên hàng đầu trong trật tự  đầu  tư. Công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã thúc đẩy sự  chuyển biến của kinh tế  nông nghiệp Việt Nam, từ  một nền kinh tế  nông nghiệp mang tính chất khép kín, tự cung tự cấp sang một nền nông  nghiệp bước đầu đã có những yếu tố  của kinh tế  hàng hóa, sản phẩm   nông nghiệp đã trở thành hàng hóa trên thị trường.  Hải Dương là một tỉnh nằm  ở khu vực trung tâm đồng bằng châu  thổ  sông Hồng, có nhiều tiềm năng để  phát triển kinh tế  nông nghiệp.  Tháng 8 ­ 1883, thực dân Pháp đánh chiếm Thành Đông, đặt ách cai trị và  ra sức khai thác kinh tế, bóc lột sức lao động, vơ vét của cải, tài nguyên  nơi đây để  làm giàu cho chính quốc. Trong đó, nông nghiệp là ngành  kinh tế được thực dân Pháp chú trọng khai thác. Chủ trương, chính sách  khai thác nông nghiệp và việc thực hiện chính sách đó của chính quyền  thực dân đã đưa đến sự biến đổi trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp của  tỉnh. Sự  biến đổi đó đã tác động sâu sắc tới tình hình kinh tế  ­ xã hội  Hải Dương thời thuộc địa. Do đó, nghiên cứu sự chuyển biến của kinh  tế  nông nghiệp tỉnh Hải Dương sẽ  góp phần quan trọng vào việc làm  sáng tỏ  tính chất của nền kinh tế  Việt Nam thời thuộc địa, đồng thời,  giúp chúng ta nhìn nhận đầy đủ  và sâu sắc hơn về  công cuộc khai thác   thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam. Thứ  hai, nghiên cứu kinh tế  nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ  1883 ­ 1945 sẽ  góp phần khôi phục lại bức tranh nông nghiệp toàn tỉnh  thời Pháp thuộc. Qua sự  so sánh với tình hình nông nghiệp Hải Dương   thời nhà Nguyễn thống trị sẽ rút ra những nhận xét, đánh giá về mặt tích   cực và hạn chế của sự phát triển kinh tế nông nghiệp và đời sống nông  dân tỉnh Hải Dương thời thuộc địa. Trên cơ sở đó, đánh giá khách quan,  toàn diện về sự thống trị của thực dân Pháp ở tỉnh Hải Dương nói riêng  và Việt Nam nói chung. Thứ  ba, trong hơn một thế  kỷ  qua, đã có nhiều học giả  trong và  ngoài nước nghiên cứu về  vấn đề  kinh tế  nông nghiệp Việt Nam và  Đông Dương từ khi Pháp đô hộ đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở  những khía cạnh, góc độ  khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu về  kinh tế 
  2. 2 nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 ­ 1945 thì chưa có một công   trình nào trình bày một cách toàn diện và có hệ  thống. Bức tranh nông  nghiệp toàn tỉnh Hải Dương thời kỳ này vẫn còn là một vấn đề bỏ ngỏ.   Do đó, việc làm sáng tỏ các vấn đề xoay quanh sự biến đổi của kinh tế  nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ thuộc địa có ý nghĩa trong việc lấp  đi khoảng trống của nền sử học nước nhà trong thời gian qua. Thứ tư, những bài học kinh nghiệm được rút ra từ việc nghiên cứu  kinh tế nông nghiệp Hải Dương thời kỳ thuộc địa sẽ góp phần phục vụ  đắc lực, hữu ích cho sự nghiệp phát triển kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải   Dương trong giai đoạn hiện nay, nhất là trong bối cảnh Đảng và Nhà  nước đang tích cực thực hiện hiệu quả công cuộc đổi mới nông nghiệp  và nông thôn. Thứ năm, việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần làm sáng tỏ một  phần quan trọng của lịch sử  Hải Dương thời cận đại. Từ  đó cung cấp  những tư  liệu cần thiết phục vụ  trong quá trình học tập, nghiên cứu,  giảng dạy lịch sử  Việt Nam thời cận đại trong nhà trường phổ  thông,  cao đẳng và đại học. Với những lý do trên, tác giả  quyết định chọn đề  tài nghiên cứu:  “Kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 ­ 1945”  làm Luận  án Tiến sĩ. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Thông qua nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời   kỳ 1883 ­ 1945, luận án góp một cái nhìn cụ thể, toàn diện hơn về kinh   tế nông nghiệp thời Pháp thuộc ở Bắc Kỳ nói chung và đồng bằng Bắc  Bộ  nói riêng. Đồng thời trên cơ  sở  đó đánh giá một cách khách quan,  khoa học về tác động của chính sách thuộc địa của Pháp đối với kinh tế  nông nghiệp Hải Dương và rút ra những bài học kinh nghiệm cho công  cuộc phát triển nông nghiệp, đổi mới nông thôn và nâng cao đời sống   nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới của Đảng và  Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ của đề tài Luận án tập trung làm rõ những vấn đề khoa học sau đây: ­ Thứ  nhất, luận án làm rõ những nhân tố  tác động đến kinh tế  nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ  1883 ­ 1945: điều kiện tự  nhiên,  điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội có ảnh hưởng đến hoạt động sản  xuất nông nghiệp tỉnh Hải Dương; tình hình kinh tế  nông nghiệp tỉnh  Hải Dương trước năm 1883.   ­ Thứ  hai, luận án làm rõ thực trạng kinh tế nông nghiệp của tỉnh  Hải Dương thời kỳ  thuộc địa và sự  chuyển biến trong từng giai đoạn:  giai đoạn 1883 ­ 1918 và giai đoạn 1919 ­ 1945 trên các phương diện chủ 
  3. 3 yếu như: tình hình ruộng đất, hình thức tổ  chức sản xuất, kỹ thuật sản   xuất và kết quả hoạt động sản xuất. ­ Thứ ba, luận án làm rõ tác động của nông nghiệp đối với kinh tế  ­ xã hội của tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 ­ 1945. Từ đó, đánh giá khách   quan về bản chất của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải  Dương thời kỳ 1883 ­ 1945, với vai trò là ngành kinh tế chủ đạo của một  tỉnh lớn  ở  Bắc Kỳ, nằm  ở  trung tâm của khu vực đồng bằng châu thổ  sông Hồng. 3.2. Phạm vi nghiên cứu ­ Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu tình hình kinh tế nông  nghiệp tỉnh Hải Dương chủ yếu trong giới hạn thời gian từ sau khi Pháp  đánh chiếm thành Hải Dương (19 ­ 8 ­ 1883) và bắt đầu quá trình thiết  lập nền cai trị thuộc địa đến khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Hải  Dương thành công. Tuy nhiên, để  có cái nhìn so sánh, nội dung Luận án  sẽ đề cập đến một số vấn đề của kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương   trong cả thời kỳ trước đó. ­ Về không gian: Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu chủ yếu là  tỉnh Hải Dương thời kỳ  Pháp cai trị, căn cứ  theo địa giới hành chính   được quy định cụ  thể  bởi các nghị  định của chính quyền thuộc địa. Cụ  thể  đơn vị  hành chính tỉnh Hải Dương thời kỳ  thuộc địa gồm các phủ,  huyện sau: Nam Sách gồm 13 tổng với 98 xã; Kinh Môn gồm 8 tổng với  81 xã; Ninh Giang gồm 8 tổng với 74 xã; Bình Giang gồm 10 tổng với 71   xã; Chí Linh gồm 6 tổng với 60 xã; Thanh Hà gồm 10 tổng với 70 xã;  Kim Thành gồm 6 tổng với 58 xã; Cẩm Giàng gồm 13 tổng với 86 xã;  Thanh Miện gồm 9 tổng với 69 xã; Gia Lộc gồm 9 tổng với 80 xã; Tứ  Kỳ  gồm 8 tổng với 89 xã; Vĩnh Bảo gồm 12 tổng với 103 xã; Đông  Triều gồm 5 tổng với 56 xã. Toàn tỉnh có 117 tổng và 1.013 xã, tỉnh lỵ là  Hải Dương. Đến năm 1923, được gọi là thành phố Hải Dương. ­ Về nội dung: Luận án tập trung đi sâu nghiên cứu những lĩnh vực  cơ bản trong kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương là trồng trọt và chăn   nuôi, trên những khía cạnh chủ yếu là tình hình ruộng đất, hình thức tổ  chức sản xuất, kỹ thuật sản xuất và kết quả hoạt động sản xuất. 4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nguồn tài liệu Những vấn đề  khoa học của luận án được giải quyết trên cơ  sở  tiếp cận và khai thác những nguồn tài liệu sau đây: ­ Nguồn tài liệu văn kiện Đảng và các tác phẩm của các nhà lãnh  đạo Đảng, Nhà nước (chủ yếu là thời kỳ trước năm 1945).
  4. 4 ­ Nguồn tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, thư viện   Quốc gia Việt Nam và thư viện tỉnh Hải Dương, bao gồm các hồ sơ lưu  trữ  đề cập đến vấn đề  nông nghiệp tỉnh Hải Dương, cụ thể là các văn  bản hành chính của chính quyền thuộc địa như sắc lệnh, nghị định, công  văn, thư từ trao đổi, … đặc biệt là các báo cáo kinh tế, chính trị, xã hội  của Công sứ  tỉnh Hải Dương gửi Thống sứ  Bắc Kỳ, của chính quyền  cấp phủ, huyện gửi lên chính quyền cấp tỉnh và báo cáo của Phủ Thống  sứ Bắc Kỳ, Phủ Toàn quyền Đông Dương; các tài liệu thống kê, địa bạ,  bản đồ,…  ­ Các công trình nghiên cứu đã công bố  có chứa đựng những nội  dung liên quan đến cách tiếp cận hướng nghiên cứu và nội dung đề  tài  nghiên cứu, gồm có: sách chuyên khảo, sách tham khảo, giáo trình, luận  văn, luận án, bài nghiên cứu, thông tin đăng trên các báo, tạp chí.  ­ Các tài liệu sưu tầm bao gồm hương  ước, các sách báo đương  thời   và các  tài  liệu  điền  dã. Nguồn  tài  liệu này  góp phần  cung cấp  những thông tin cụ  thể  và chi tiết cho tác giả  giải quyết những nhiệm  vụ của luận án.  4.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở nắm vững và vận dụng quan điểm duy vật biện chứng   và duy vật lịch sử  của chủ  nghĩa Mác ­ Lênin, quan điểm của Đảng và  tư  tưởng Hồ Chí Minh về  các vấn đề  kinh tế, xã hội của Việt Nam và  Đông   Dương   trong   thời   kỳ   thuộc   địa,   tác   giả   luận   án   sử   dụng   các  phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành, trong đó sử  dụng   chủ  yếu hai phương pháp cơ  bản là phương pháp lịch sử  và phương  pháp logic để giải quyết những vấn đề  cơ bản đặt ra. Bên cạnh đó, do   tiếp cận nghiên cứu  ở  lĩnh vực kinh tế  nên đề  tài còn sử  dụng một số  phương pháp khác như phương pháp nghiên cứu khu vực học, thống kê,  định lượng, phân tích, so sánh,… để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu  của đề tài. 5. Đóng góp của luận án ­ Luận án đã khôi phục một cách tương đối hệ thống, toàn diện về  tình hình kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 ­ 1945. ­ Trên cơ  sở  làm rõ những chuyển biến của kinh tế  nông nghiệp  tỉnh Hải Dương thời Pháp thuộc qua hai giai đoạn chính là giai đoạn  1883 ­ 1918 và giai đoạn 1919 ­ 1945, tác giả đã đưa ra những nhận định,  đánh giá khách quan, khoa học về tình hình kinh tế nông nghiệp của tỉnh   Hải Dương từ năm 1883 đến năm 1945, đặc biệt là về những chính sách   nông nghiệp cụ  thể  của chính quyền thuộc địa áp dụng  ở  Hải Dương.  Ngoài ra, luận án còn làm rõ tác động của kinh tế  nông nghiệp đối với  kinh tế ­ xã hội Hải Dương thời kỳ này. ­ Nội dung luận án đã góp phần lấp một khoảng trống nghiên cứu 
  5. 5 về lịch sử địa phương Hải Dương và làm phong phú thêm những nghiên  cứu về  các vấn đề  của lịch sử  Việt Nam cận đại, đặc biệt là vấn đề  kinh tế  nông nghiệp, ngành kinh tế  chủ  đạo trong cơ  cấu kinh tế  Việt   Nam thời Pháp thuộc. Nội dung luận án và hệ  thống tư  liệu tham khảo  được sưu tầm trong quá trình nghiên cứu sẽ  là nguồn tài liệu có giá trị  phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy lịch sử ở các trường đại   học, cao đẳng nói chung, các trường phổ thông ở  Hải Dương nói riêng,  đồng   thời   phục   vụ   cho   công   tác   nghiên   cứu,   biên   soạn   lịch   sử   địa  phương. ­ Những kết luận khoa học của luận án và các kết quả nghiên cứu  đã công bố góp phần phục vụ cho công cuộc xây dựng, phát triển nông  nghiệp, đổi mới nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân. Đồng thời,   góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước  ta trong giai đoạn hiện nay. 6. Bố cục luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ  lục, nội dung luận án gồm 5 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề Chương 2: Những nhân tố tác động đến kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải  Dương thời kỳ 1883 ­ 1945 Chương 3: Kinh tế  nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn 1883 ­  1918 Chương 4: Những chuyển biến của kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải  Dương từ năm 1919 đến năm 1945 Chương 5: Đặc điểm và tác động của nông nghiệp đến kinh tế ­ xã  hội tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 ­ 1945 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 1.1. Các công trình nghiên cứu về  kinh tế, xã hội Việt Nam thời   thuộc địa ­ Các sách nghiên cứu: Từ đầu thế kỷ XX đến nay, các nhà nghiên  cứu trong và ngoài nước bước đầu đã có những cách tiếp cận khác nhau  với mục đích góp phần phác họa diện mạo kinh tế và xã hội Việt Nam   thời thuộc địa. Các công trình nghiên cứu tiêu biểu về  vấn đề  này phải kể  đến:  Souvenirs de l’Annam et du Tonkin (Hồi  ức về xứ Trung Kỳ và Bắc Kỳ)  của J.Masson, Les concessions de terre au Tonkin (Việc cấp phát ruộng   đất  ở  Bắc Kỳ)  của J.Morel,  La Formation des classes sociales en pays   Annamite  của A. Đuymarret,  Đông Dương  của Ch. Robequain,  Những  
  6. 6 thủ đoạn bóc lột của tư bản Pháp ở Việt Nam của Nguyễn Khắc Đạm,  Việt   Nam   thời   Pháp   đô   hộ  của   Nguyễn   Thế   Anh,  La   Présence  Financière et Economique Francaise en Indochine (1859 – 1939) (Sự hiện   diện tài chính và kinh tế  của Pháp  ở  Đông Dương (1859 – 1939))  của  J.Aumiphin,  Cơ  cấu kinh tế  ­ xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858 –   1945) của Nguyễn Văn Khánh. ­ Các bài báo, tạp chí khoa học: Trên các tạp chí chuyên ngành,  nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Khánh có bài:  Quá trình chuyển biến cơ   cấu xã hội Việt Nam từ  giữa thế  kỷ  XIX đến Cách mạng tháng Tám   1945 (Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 4 năm 1995). ­ Luận văn, luận án: Trong những năm gần đây đã có một số luận  án tiếp cận  ở một số hướng nghiên cứu mà người viết có thể  tiếp thu,   học hỏi và tham khảo: Luận án Nội thương Bắc Kỳ thời kỳ 1919 – 1939   của tác giả Vũ Thị Minh Hương, bảo vệ năm 2002; Đô thị Hải Dương   thời kỳ  thuộc địa (1883 – 1945)  của tác giả  Phạm Thị  Tuyết, bảo vệ  năm 2011.    1.2. Các công trình nghiên cứu về  kinh tế  nông nghiệp Việt Nam  thời Pháp thuộc ­ Các sách nghiên cứu: Nông nghiệp Việt Nam thời thuộc địa đã  được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Nhiều công   trình được công bố  như:  Le Tonkin en 1909 (Bắc Kỳ  năm 1909)  của  G.Dauphinot,  Aujourd’hui   Tonkin   (Xứ   Bắc   Kỳ   ngày   nay)  của   Henry  Cucherousset, Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ của Ngô Vi Liễn, Le Tonkin (Bắc   Kỳ)  của   P.   Gourou,  Economie   agricole   de   l'Indochine   (Nông   nghiệp   Đông Dương)  của Y.Henry,  La Culture du riz dans le delta du Tonkin   (Nghề  trồng lúa  ở  đồng bằng Bắc Kỳ) của René Dumont, Người nông   dân châu thổ Bắc Kỳ của Pierre Gourou, Vấn đề dân cày của Qua Ninh  và Vân Đình, Phác qua tình hình ruộng đất và đời sống nông dân trước   Cách mạng tháng Tám năm 1945 của Nguyễn Kiến Giang, Sơ thảo lịch   sử thủy lợi Việt Nam, tập 1 của Phan Khánh, Lịch sử nông nghiệp Việt   Nam của Đường Hồng Dật, Đồn điền của người Pháp ở Bắc Kỳ 1884 –   1918 và Việc nhượng đất, khẩn hoang  ở  Bắc Kỳ  từ  1919 đến 1945 của  Tạ  Thị  Thúy,  Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân   dưới triều Nguyễn  của Trương Hữu Quýnh và Đỗ  Bang,  Lịch sử  tín   dụng nông nghiệp Việt Nam (1875 – 1945) của Phạm Quang Trung, .  ­ Các bài báo, tạp chí khoa học: Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử có  các bài viết tiêu biểu như: Chế độ công điền công thổ Bắc Kỳ dưới thời   Pháp thống trị của Vũ Huy Phúc (số  88, năm 1966); Về  vấn đề  ruộng   công và ruộng tư trong lịch sử Việt Nam của Nguyễn Khắc Đạm (số 4,  năm 1987); Khai thác và sử dụng đất đồn điền của thực dân Pháp ở Bắc   Kỳ  giai đoạn 1884 – 1896 của Tạ  Thị  Thúy (số  2, năm 1991); Mấy suy  
  7. 7 nghĩ về nông thôn đồng bằng Bắc Bộ nhìn từ góc độ sở hữu của Trương  Hữu Quýnh (số 4, năm 1993); Việc quản lý đất công nông nghiệp và quy   chế  nhượng đất của Pháp  ở  Bắc Kỳ  (cuối thế  kỷ  XIX đầu thế  kỷ  XX   của Tạ  Thị  Thúy (số  11+12, năm 1995);  Tìm hiểu hệ  thống thuế  thực   dân Pháp áp dụng  ở  Việt Nam thời Pháp thuộc (1858 – 1945)   của Hồ  Tuấn Dung (số  6, năm 2001); Đồn điền của người Pháp  ở  Bắc Trung   Kỳ từ 1897 đến 1945 của Trần Vũ Tài (số 10, năm 2006); Đồn điền của   người Pháp  ở Nam Định từ 1884 đến 1918 của Dương Văn Khoa (số 2,  năm 2012);  Sở  hữu ruộng đất  ở  tỉnh Nam Định từ  năm 1919 đến năm   1945 của Dương Văn Khoa (số 8, năm 2014) v.v…  ­ Luận văn, luận án: Các luận văn, luận án về nông nghiệp Việt  Nam mà nghiên cứu sinh có thể tham khảo tiêu biểu như: Những chuyển   biến trong kinh tế  nông nghiệp Bắc Trung Kỳ  từ  1884 đến 1945   của  Trần Vũ Tài (bảo vệ năm 2007), Kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Bắc Giang   từ năm 1884 đến năm 1945 của Đỗ Văn Chính (bảo vệ năm 2009), Nông  nghiệp tỉnh Nam Định (1884 – 1945) của Dương Văn Khoa (bảo vệ năm  2012). 1.3. Các công trình nghiên cứu về  kinh tế  nông nghiệp tỉnh Hải  Dương trước năm 1945 Cho đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu trực tiếp về kinh   tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ thuộc địa. Các sách, báo, tạp chí  khoa học nếu có thì mới dừng ở phạm vi rất hẹp. Tiêu biểu có các công   trình:  Notice   sur   les   circonscriptions   dépendant   directement   de   Hải   Dương (Chỉ  dẫn về  những vùng trực thuộc Hải Dương) và Notice sur   les huyen de Cẩm Giàng, Hiệp Sơn, Kim Thành et centre administratif de   Yên Lưu, province de Hải Dương (Chỉ  dẫn về  các huyện Cẩm Giàng,   Hiệp   Sơn,   Kim   Thành   và   trung   tâm   hành   chính   Yên   Lưu,   tỉnh   Hải   Dương)  cùng có niên đại 1901, hiện đang được lưu giữ  tại Trung tâm  Lưu trữ Quốc gia I, L’essor de la ville de Hải Dương 1923 – 1927 (Tiến   triển của thành phố  Hải Dương 1923 – 1927) của Alfred Bouchet, Địa   dư  huyện Cẩm Giàng  của Ngô Vi Liễn,  La province de Hải Dương   (Tỉnh Hải Dương) của Phó Công sứ Dilleman, Tình hình từng huyện tỉnh   Hải Dương năm 1900 lưu trữ tại Thư viện tỉnh Hải Dương, Lịch sử đấu   tranh vũ trang cách mạng thị xã Hải Dương – Tập 1 (1930 – 1954) , Lịch   sử thị xã Hải Dương do Phạm Quí Mùi chủ biên, Lịch sử Đảng bộ tỉnh   Hải Dương, tập I, Địa chí Hải Dương”, tập I, II. Trên diễn đàn của Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, có các bài viết:   Biến đổi ruộng đất  ở  làng Mộ  Trạch (Hải Dương) từ  đầu thế  kỷ  XIX   đến năm 1945  của Nguyễn Văn Khánh (số  1, năm 1998),  Hoạt động   buôn bán thóc gạo  ở  thành phố  Hải Dương thời kỳ  thuộc địa (1883 –   1945) của tác giả Phạm Thị Tuyết (số 10, năm 2014).
  8. 8 1.4. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, căn  cứ vào nguồn tài liệu sưu tầm được, đặc biệt là nguồn tài liệu lưu trữ,  luận án tập trung nghiên cứu và làm rõ  Kinh tế  nông nghiệp tỉnh Hải   Dương thời kỳ 1883 ­ 1945 với nội dung cụ thể như sau: Thứ  nhất, nghiên cứu một cách có hệ  thống các nhân tố  tác động  đến kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 ­ 1945. Thứ   hai,   phác   họa   lại   bức   tranh   kinh   tế   nông   nghiệp   tỉnh   Hải  Dương thời kỳ thuộc địa và sự chuyển biến trong từng giai đoạn (1883 ­  1918 và 1919 ­ 1945) trên các phương diện chủ yếu như: tình hình ruộng  đất nông nghiệp, quan hệ sản xuất, kỹ thuật canh tác, cơ cấu cây trồng   và vật nuôi, kinh tế đồn điền. Thứ ba, làm sáng tỏ tác động của nông nghiệp đến kinh tế ­ xã hội  tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 ­ 1945. Trên cơ sở đó đánh giá khách quan,  toàn diện về sự thống trị của thực dân Pháp ở tỉnh Hải Dương nói riêng  và Việt Nam nói chung. Chương 2 NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN KINH TẾ NÔNG  NGHIỆP TỈNH HẢI DƯƠNG THỜI KỲ 1883 – 1945 2.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên  2.1.1. Vị trí địa lý và địa giới hành chính Tỉnh Hải Dương nằm  ở  phía Đông Nam xứ  Bắc Kỳ. Phía Đông  giáp Quảng Yên, Hải Phòng và Kiến An; phía Bắc giáp Bắc Giang; phía  Nam giáp Thái Bình; phía Tây giáp Bắc Ninh và Hưng Yên. Đơn vị hành chính gồm 2 đại lý, 4 phủ và 9 huyện:  ­ 2 đại lý: Ninh Giang và Đông Triều.  ­ 4 phủ (tương đương huyện): Nam Sách gồm 13 tổng với 98 xã;  Kinh Môn gồm 8 tổng với 81 xã; Ninh Giang gồm 8 tổng với 74 xã; Bình   Giang gồm 10 tổng với 71 xã.  ­ 9 huyện: Chí Linh gồm 6 tổng với 60 xã; Thanh Hà gồm 10 tổng   với 70 xã; Kim Thành gồm 6 tổng với 58 xã; Cẩm Giàng gồm 13 tổng   với 86 xã; Thanh Miện gồm 9 tổng với 69 xã; Gia Lộc gồm 9 tổng với  80 xã; Tứ Kỳ gồm 8 tổng với 89 xã; Vĩnh Bảo gồm 12 tổng với 103 xã;  Đông Triều gồm 5 tổng với 56 xã.  Toàn tỉnh có 117 tổng và 1013 xã (làng), tỉnh lỵ là Hải Dương. Đến   năm 1923 được gọi là thành phố  Hải Dương. Số  lượng phủ, huyện  không thay đổi đến tháng 8 ­ 1945.
  9. 9 2.1.2. Điều kiện tự nhiên * Địa hình Địa hình tỉnh Hải Dương chia ra làm hai vùng khác nhau: vùng đồi  núi và vùng đồng bằng. Vùng đồi núi nằm ở phía Bắc của tỉnh, bao gồm   các huyện Chí Linh, Đông Triều, Kinh Môn. Vùng đồng bằng nằm  ở  phía Nam của tỉnh, do phù sa sông Thái Bình bồi đắp, đất đai màu mỡ.  Vùng đồng bằng này rộng hơn vùng đồi núi, đo được đến 445.000 mẫu  ta (1.600 km2). Đất đấy lắm màu, vì có nhiều sông ngòi chảy qua khắp   mọi nơi. * Đất đai Đất đai là nguồn tài nguyên quý giá để  phát triển kinh tế ­ xã hội,  đặc biệt là kinh tế nông nghiệp. Đất ở Hải Dương bao gồm: đất phù sa,  đất mặn và đất feralit, tạo điều kiện cho việc phát triển một nền nông  nghiệp đa dạng. * Khí hậu Hải Dương nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới  ẩm gió mùa, nóng   ẩm, mưa nhiều, thích hợp cho sự phát triển của nhiều loại cây. Khí hậu   ở đây chia thành bốn mùa rõ rệt: mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông.  Đây là điều kiện để tỉnh Hải Dương phát triển một nền nông nghiệp đa  dạng. Sự  phân mùa của khí hậu tạo khả  năng hình thành một cơ  cấu  mùa vụ  thích hợp, đem lại các sản phẩm đa dạng cho từng mùa. Tuy  nhiên, khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa cũng gây ra hạn hán, bão lụt và sản  sinh nhiều loại sâu bệnh gây hại cho cây trồng. Do đó, công tác trị thủy,  thủy lợi và bảo vệ  thực vật có ý nghĩa quan trọng trong sản xuất nông  nghiệp của tỉnh. * Sông ngòi Tỉnh Hải Dương, ngoài huyện Chí Linh, Đông Triều là núi, còn lại  diện tích của tỉnh đều là đồng bằng có sông bao bọc xung quanh gần   khép kín địa hình.  Ngoài hai con sông chính là sông Thái Bình, sông Kinh Thầy và các  chi lưu thuộc hai sông này, tỉnh Hải Dương còn có nhiều hệ thống sông  lạch nhỏ như sông Sặt, sông Cẩm Giàng, sông Hàn, sông Cửu An, sông  Luộc,… Hệ thống sông này là nơi cung cấp nước và vận chuyển phù sa để  cung cấp cho đồng bằng. Đây là điều kiện thuận lợi để nông nghiệp phát  triển.  Như  vậy, điều kiện tự  nhiên  ở  tỉnh Hải Dương rất phong phú, đa  dạng, có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế nông nghiệp. Bên  cạnh đó, điều kiện tự nhiên nơi đây cũng gây nên những khó khăn nhất định   đến sự tiến triển của kinh tế nông nghiệp. 
  10. 10 2.2. Điều kiện chính trị, xã hội và kinh tế 2.2.1. Điều kiện chính trị và xã hội * Về chính trị: Ngày 19 – 8 ­ 1883, Pháp tấn công thành Hải Dương  lần thứ hai. Thành Đông thất thủ. Ngày 25 – 8 ­ 1883, triều đình Huế lại  ký với Pháp hiệp ước Harmand xác định quyền bảo hộ của Pháp ở Bắc   và Trung Kỳ, trong đó có Hải Dương (1883 – 1945). Công sứ  người Pháp nắm mọi quyền hành trong tỉnh. Bộ  máy giúp  việc cho Công sứ  có tòa sứ gồm các Tham biện và Thư  ký. Dưới Công  sứ có Phó Công sứ. Các bộ phận giúp việc chánh sứ có Sở mật thám, Sở  Cẩm Sở  kho bạc (ngân hàng), Sở  lục lộ  (giao thông công chính), Sở  canh nông (phụ trách nông nghiệp), Sở thú y (coi việc chăn nuôi ­ thú y),  … Về  hệ  thống quan lại Nam triều, đầu tỉnh là Tổng đốc. Quan lại   dưới quyền Tổng đốc có Bố  chánh, Án sát, Lãnh binh. Các cấp dưới  gồm: huyện có Tri huyện; phủ có Tri phủ; tổng có Chánh, Phó tổng; xã có  Lý trưởng, … * Về  xã hội: Năm 1943, dân số  tỉnh Hải Dương là 843.530 người  và cả  nước là 22.612.000 người. Trong đó,  ở  Hải Dương, dân tộc Kinh  là 842.000 người (chiếm 99,81%), các dân tộc thiểu số  là 1.298 người  (chiếm 0,15%) và người nước ngoài là 232 người (chiếm 0,04%). Nhìn  chung, nguồn nhân lực ở tỉnh Hải Dương dồi dào, siêng năng, chịu khó.  Do làm nông nghiệp nên họ đã quen với sự lam lũ, một nắng hai sương.  Phong tục thuần hậu chất phác, tính cộng đồng bền chặt. Đây là những  điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp nơi đây. 2.2.2. Điều kiện kinh tế và cơ sở hạ tầng * Điều kiện kinh tế: ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, các ngành  công nghiệp và thương mại trên địa bàn tỉnh Hải Dương đã bước vào  giai đoạn phát triển mới, khác căn bản với các thời kỳ trước đó. Sự phát  triển này vừa tạo điều kiện cho những chuyển biến của kinh tế  nông  nghiệp tỉnh Hải Dương, vừa chịu sự  tác động của những chuyển biến  đó. * Cơ  sở  hạ  tầng: Hệ  thống giao thông đường bộ, đường thủy và  đường sắt đều được đầu tư  xây dựng và mở  mang thêm. Nổi bật có  đường thuộc địa số  5 từ  Hà Nội chạy dọc tỉnh Hải Dương qua các  huyện Cẩm Giàng, thị  xã Hải Dương, Nam Sách, Kim Thành xuống  thành phố Hải Phòng được đưa vào sử dụng từ năm 1904.  2.3. Sơ  lược về  tình hình nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời nhà  Nguyễn (1802 – 1883) 2.3.1. Chính sách ruộng đất Triều Nguyễn đã thi hành nhiều chính sách khẩn hoang để  mở  rộng diện tích canh tác, tăng thu nhập của nhà nước, giải quyết mâu 
  11. 11 thuẫn giữa nông dân và nhà nước phong kiến. Đặc biệt, các vua Nguyễn  có chính sách bảo vệ  và mở  rộng diện tích ruộng đất công làng xã;  ruộng đất tư được Nhà nước tôn trọng. 2.3.2. Tình hình ruộng đất nông nghiệp Theo thống kê của Bộ  Hộ, vào thời Gia Long năm thứ  18 (1819),  diện tích công tư điền thổ ở Hải Dương là hơn 535.500 mẫu ruộng trên  tổng số đinh là hơn 23.900 người. Theo đó, bình quân ruộng đất của mỗi  nhân đinh cuối triều Gia Long vào khoảng 22,4 mẫu/đinh. Ruộng đất  công chiếm tỷ  lệ  thấp (khoảng 10%); ruộng  đất tư  phát triển mạnh,  song không có nhiều đại địa chủ như ở những tỉnh khác. 2.3.3. Hình thức tổ chức và kỹ thuật sản xuất  * Hình thức tổ chức sản xuất Thời Nguyễn, hình thức tổ  chức sản xuất trong nông nghiệp bao  gồm nông dân làm ăn riêng lẻ  và địa chủ phát canh thu tô. Hình thức tổ  chức sản xuất này còn được duy trì trong kinh tế nông nghiệp Việt Nam  thời Pháp thuộc (1858 ­ 1945). Theo đó, địa chủ  thường chia nhỏ ruộng  đất để phát canh cho tá điền theo hình thức cấy rẽ.  * Kỹ thuật sản xuất Việc đắp thêm đê mới, tu sửa đê cũ, khai thông các dòng nước, mở  cống thoát nước ứ tắc được thực hiện hàng năm. Ở Hải Dương, lượng  đê được đắp là 26.830 trượng. Tuy nhiên, hiện tượng vỡ đê, lụt lội vẫn   xảy ra nhiều; Công cụ  sản xuất vẫn còn rất thô sơ: cày, cuốc, liềm,   gàu,... Người ta dùng ba loại phân chính: phân xanh, phân chuồng và  phân người. 2.3.4. Kết quả hoạt động sản xuất nông nghiệp Nông nghiệp Hải Dương dưới triều Nguyễn chủ yếu là trồng lúa.  Vụ  mùa và vụ  chiêm, diện tích cấy lúa còn hạn chế. Năng suất lúa thu  hoạch rất thấp: dưới 1 tấn/ha/vụ. Ngoài ra còn trồng khoai, đậu, cau,  thuốc lào…  Chăn nuôi gia súc, gia cầm chưa phát triển mạnh. Số  lượng trâu,  bò không nhiều. Hầu như  nhà nào cũng nuôi vài con lợn, gà, vịt… chủ  yếu để phục vụ cho nhu cầu của địa phương chứ không phải để bán. * Tiểu kết chương 2 Hải Dương là tỉnh có nhiều thuận lợi về điều kiện tự nhiên và điều  kiện kinh tế, chính trị  và xã hội để  phát triển nông nghiệp. Thời nhà  Nguyễn (1802 – 1883), kinh tế nông nghiệp Hải Dương vẫn là nền nông  nghiệp lạc hậu, độc canh và tự cung tự cấp. Thực trạng này nhanh chóng   có sự thay đổi kể từ sau khi thực dân Pháp cai trị (1883 ­ 1945). Đặc biệt,  sau khi chính quyền thuộc địa ban hành và thực thi những chính sách nông  nghiệp.
  12. 12 Chương 3 KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỈNH HẢI DƯƠNG  GIAI ĐOẠN 1883 ­ 1918 3.1. Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất và chính sách  nông nghiệp của thực dân Pháp 3.1.1. Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ  nhất của thực   dân Pháp (1897 – 1914) Trong chương trình khai thác thuộc địa lần thứ  nhất, vốn đầu tư  được tập trung chủ  yếu vào hai ngành khai mỏ  và giao thông vận tải,  chiếm 77% tổng số vốn đầu tư của các công ty tư bản tư nhân. Số vốn  đầu tư vào nông nghiệp ít nhất, chiếm 8% tổng số vốn đầu tư vào Đông  Dương. Điều này ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế nông nghiệp  Việt Nam nói chung và tỉnh Hải Dương nói riêng.  3.1.2.  Tổ   chức   quản   lý   sản   xuất  nông   nghiệp   của   thực   dân   Pháp Cơ quan quản lý nông nghiệp của tỉnh là Tòa Công sứ, do Công sứ  người Pháp trực tiếp phụ  trách. Trong Tòa Công sứ  có một số  kỹ  sư,   nhân viên kỹ  thuật về  canh nông, thủy lợi giúp Công sứ  chỉ  đạo nông  nghiệp trong tỉnh. Sở Canh nông Bắc Kỳ đã cho thành lập ở Hải Dương   trạm thí nghiệm chuyên nghiên cứu về lúa.  3.1.3. Chính sách ruộng đất Để phát triển kinh tế nông nghiệp, việc chiếm và khai thác đất là   mục tiêu hàng đầu của thực dân Pháp. Chính quyền thuộc địa đã ban  hành và thực thi chính sách cướp đoạt ruộng đất để  lập đồn điền, tổ  chức sản xuất kinh doanh làm giàu. Do đó, quá trình thiết lập, khai thác   đồn điền của thực dân Pháp ở Hải Dương đã diễn ra với tốc độ  nhanh.  Giai đoạn 1883 – 1918, tỉnh Hải Dương có 24 đồn điền của người Pháp  với tổng diện tích là 10.160,5683 ha.  3.1.4. Chính sách thuế *  Thuế  thân:  chính quyền thực dân Pháp đã tăng thuế  mỗi suất   đinh lên 2,5 đồng ở Bắc Bộ.  * Thuế  điền: Nghị  định 20­12­1913 của Thống sứ  Bắc Kỳ  đã đưa  ra một quyết định đánh thuế chi tiết hơn. Thuế ruộng đất đánh theo loại  hạng và theo năng suất của vụ  thu. Đối với người bản xứ   ở  Bắc Kỳ,  theo những quy định hiện hành trong giai đoạn này, thuế  ruộng đánh  thống nhất theo mẫu, không phân biệt vùng này hay vùng khác.  3.2. Kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn 1883 ­ 1918 3.2.1. Tình hình sở hữu ruộng đất nông nghiệp * Ruộng đất công làng xã Quyền sở  hữu tối cao về  ruộng đất đã chuyển hẳn sang tay nhà 
  13. 13 nước Pháp và chính quyền thực dân ở Hải Dương. Ruộng đất công làng  xã được duy trì ở một mức độ nhất định nhưng ngày càng bị thu hẹp lại. * Ruộng đất tư hữu Nét nổi bật trong tình hình sở  hữu ruộng đất của tỉnh Hải Dương  giai đoạn này là sự  hình thành chế  độ  sở  hữu lớn về  ruộng đất. Do  chính sách  ưu đãi trong việc thiết lập đồn điền của chính quyền thực  dân, đã có rất nhiều tư bản Pháp sở hữu số lượng ruộng đất rất lớn, từ  vài chục đến hàng nghìn ha như: Pivet (1.451,35 ha), Riehl (1.809 ha),   Grandmange (500 ha), Amihat (130 ha), Levaché (615 ha), Lamothe (700  ha). Ở khu vực nông nghiệp làng xã, ruộng đất tư hữu chiếm tỷ lệ lớn.   Tiêu biểu như  làng Mộ  Trạch (Bình Giang) diện tích ruộng tư  “chiếm  66,4% diện tích canh tác”.  3.2.2. Hình thức tổ chức sản xuất Trong nền kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương đã xuất hiện hình  thức tổ chức sản xuất mới, bóc lột nhân công lao động làm thuê, nhất là  ở khu vực đồn điền. Nhưng trong khu vực sản xuất nông nghiệp làng xã  và ngay cả  trong khu vực đồn điền vẫn tồn tại hình thức tổ  chức sản  xuất sử dụng lao động tá điền, bóc lột dưới hình thức phát canh thu tô. 3.2.3. Kỹ thuật sản xuất Ở các phủ, huyện trong tỉnh, chính quyền đã cho xây dựng và tu bổ  lại các đê điều, công trình tưới và tiêu nước nhằm tạo điều kiện cho  nền nông nghiệp phát triển. Trong khu vực kinh tế  đồn điền của các  điền chủ  người Pháp đã bắt đầu sử  dụng phân hóa học, như  đồn điền  của điền chủ Pivet. Thực dân Pháp đã mạnh dạn du nhập một số giống  cây trồng, vật nuôi mới như cà phê, cao su, thầu dầu, dê,…  3.2.4. Kết quả hoạt động sản xuất * Trong trồng trọt Khu vực kinh tế  đồn điền:  Hải Dương có 8 đồn điền của người  Pháp dành riêng cho trồng trọt với diện tích là 1.250,3183 ha. Các đồn   điền của người Pháp phát triển theo hai hướng chính là du nhập những  cây trồng mới có giá trị kinh tế cao như cà phê, chè, cao su, thuốc lá… và   duy trì, mở  rộng các loại cây trồng bản xứ  như  lúa, khoai, ngô… Hai  hướng trồng trọt này được thực hiện trên hai dạng đồn điền: chuyên  canh và đa canh. ­ Cây công nghiệp: trồng thử nghiệm cây cà phê, cao su. Năm 1907,  đồn điền Pivet  ở  Đông Triều đã trồng cao su. Năm 1914, Hải Dương có  75.000 gốc 1.270.000 gốc cà phê ở Bắc Kỳ, chiếm 5,5%.  ­ Cây lương thực: Lúa là cây trồng chiếm ưu thế trên các đồn điền  của người Pháp ở Bắc Kỳ nói chung và tỉnh Hải Dương nói riêng. Đồn  điền của Riehl có diện tích 1.809 ha, Amihat với diện tích là 130 ha và 2  đồn điền của Levaché với tổng diện tích 615 ha, Lamothe với diện tích 
  14. 14 700 ha chủ yếu trồng lúa. Ngoài ra còn trồng ngô, khoai, sắn,… Khu vực nông nghiệp làng xã: ­ Cây lương thực: trồng lúa, ngô, khoai, sắn, đậu,… Trong đó, lúa  là chủ  yếu.  Diện tích trồng lúa của tỉnh năm 1900 khoảng 172.000 ha.   Diện tích trồng lúa  ở  Hải Dương ngày càng được mở  rộng. Tính riêng  vụ   mùa   năm   1913,   tổng   diện   tích   trồng   lúa   của   tỉnh   Hải   Dương   là  119.340,00 ha. Sản lượng lúa cả  năm khoảng 240.000 tấn. Lương thực  bình quân đầu người khoảng 267 kg/năm. Năng suất cả năm đạt khoảng  90 – 95 thúng/ha, tương đương 1.800 kg/ha.  Các loại cây trồng khác như ngô, khoai lang, cây ăn quả, các loại,  rau củ, đỗ  đều có sản lượng tốt, nhưng chỉ  sử  dụng cho nhu cầu tại  chỗ.  ­ Cây công nghiệp: tiêu biểu có thuốc lá (Vĩnh Bảo), bông (Ninh  Giang), cau (Thanh Hà), cây dâu tằm (Gia Lộc, Tứ Kỳ, Thanh Miện). * Trong chăn nuôi Khu vực đồn điền: Có 5 đồn điền trên 50 ha kết hợp chăn nuôi với  trồng trọt, tổng diện tích 5.267,2 ha. Trong chăn nuôi, gia súc (trâu, bò) là   vật nuôi chính và được nuôi  ở  tất cả  các đồn điền trên. Theo Tạ  Thị  Thúy, tỉnh có 580 trâu, bò, trong đó 200 của Roustan và 380 của Lamotte. Khu vực nông nghiệp làng xã: chăn nuôi chưa phát triển. Trâu, bò  được nuôi  ở  các hộ  gia đình, chủ  yếu để  lấy sức kéo. Lợn được nuôi  phân tán  ở  hầu hết các gia đình để  lấy thịt và tận thu phân bón. Gia  được chăn nuôi ở khắp các phủ, huyện trong tỉnh.  * Tiểu kết chương 3 Kinh tế  nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn 1883 – 1918 đã có  những chuyển biến bước đầu, song mức độ chuyển biến còn tương đối  chậm. Nông nghiệp tỉnh Hải Dương đã bắt đầu hình thành hai bộ phận:  khu vực kinh tế  đồn điền của người Pháp và khu vực kinh tế  nông  nghiệp làng xã. Khu vực kinh tế đồn điền có những chuyển biến rõ rệt  nhất. Sự  du nhập phương thức sản xuất TBCN trong khu vực kinh tế  đồn điền đã làm kinh tế  nông nghiệp tỉnh Hải Dương phát triển theo  hướng kinh tế hàng hóa, bước đầu phá vỡ tính chất tự cung tự cấp, khép  kín của kinh tế nông nghiệp truyền thống. Tuy nhiên, việc khai thác đồn  điền đang  ở  giai đoạn thử  nghiệm với những cố  gắng của các cá nhân  riêng lẻ chứ chưa có sự định hướng của chính quyền.
  15. 15 Chương 4 NHỮNG CHUYỂN BIẾN CỦA KINH TẾ NÔNG NGHIỆP  TỈNH HẢI DƯƠNG TỪ NĂM 1919 ĐẾN NĂM 1945 4.1. Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ  hai và  chính sách  nông nghiệp của thực dân Pháp  4.1.1. Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ  hai của thực   dân Pháp (1919 – 1929) Trong cuộc khai thác thuộc địa này, ngành được ưu tiên nhất lại là  nông nghiệp, chủ yếu là đồn điền cao su. Số vốn dành cho nông nghiệp   chiếm khoảng 1/3 tổng số  vốn đầu tư  trong thời kỳ  này. Do tác động   trực tiếp của chính sách mở rộng vốn đầu tư  và tăng cường trang thiết   bị kinh tế nên các quan hệ TBCN càng có điều kiện phát triển mạnh mẽ,   làm biến đổi nền kinh tế  nông nghiệp Việt Nam nói chung và tỉnh Hải  Dương nói riêng. 4.1.2.  Tổ   chức   quản   lý   sản   xuất  nông   nghiệp   của   thực   dân   Pháp Cơ  quan quản lý nông nghiệp của tỉnh là vẫn Tòa Công sứ, do  Công sứ  người Pháp trực tiếp phụ  trách. Giúp Công sứ  chỉ  đạo nông  nghiệp trong tỉnh có một số  kỹ  sư, nhân viên kỹ  thuật về  canh nông,  thủy lợi. Trạm thí nghiệm tiếp tục nghiên cứu về giống, phân bón,...  Các đồn điền hay các  ấp sử  dụng chế  độ  quản lý. Người chủ  đất  cho một diện tích từ 20 mẫu đến vài trăm mẫu giao cho một người quản   lý, trong thời hạn từ 1 đến 3 năm. Người quản lý coi như  một người tá  điền thuê đất lớn rồi đem phần đất đó thành nhiều lô nhỏ  để  cho thuê  hay cho cấy rẽ. Người quản lý chịu trách nhiệm về khoản tô của các tá  điền. Ở  các làng xã trong tỉnh có bộ  phận chuyên trách gồm: Phó lý,  Trương tuần, Tuần đinh có nhiệm vụ  theo dõi, đôn đốc, bảo vệ  sản  xuất nông nghiệp, đời sống ở địa phương.  4.1.3. Chính sách ruộng đất Thực dân Pháp tiếp tục thực hiện chính sách cướp đoạt ruộng đất  của nhân dân ta để  lập đồn điền sản xuất kinh doanh sản phẩm hàng   hóa nông nghiệp. Những quy định về  việc về  việc cấp nhượng đất đã  tạo điều kiện cho sự  mở  rộng kinh tế  đồn điền  ở  Hải Dương và dẫn  đến thực trạng số đồn điền của người Âu giảm nhiều và đồn điền của  người Việt tăng lên. 4.1.4. Chính sách tín dụng nông nghiệp Ngày 7 – 11 – 1927, CPA tỉnh Hải Dương được thành lập và nhanh  chóng trở thành một tổ chức tín dụng có vai trò lớn đối với sự phát triển  kinh tế  nông nghiệp của tỉnh. Tín dụng nông nghiệp đã đóng góp một  vai trò nhất định trong quá trình chuyển biến nền kinh tế  tiểu nông  ở 
  16. 16 Hải Dương sang nền kinh tế có những yếu tố TBCN. 4.1.5. Chính sách thuế * Thuế  thân:  Năm 1937, trước sự  phản đối của đa số  nhân dân,  thực dân Pháp đã chia mức thuế ở Bắc Kỳ ra làm 14 bậc đánh theo mức  thu hoạch của từng người.  * Thuế điền: Cuối năm 1925, chính quyền bảo hộ chính thức đưa  ra hai biểu thuế  ruộng đất mới đối với Bắc Kỳ, trong đó có tỉnh Hải  Dương. 4.1.6. Chính sách khuyến nông Ngày 8 – 4 ­ 1931, chính phủ Pháp đã ra đạo luật cho Đông Dương  vay 250 triệu Fr. Đặc biệt, chính quyền còn đứng ra bảo lãnh cho các  nông gia, điền chủ vay vốn với mức tối đa là 100 triệu Fr. Các điền chủ  trồng lúa còn được chính phủ  Pháp hỗ  trợ  tìm nguồn tiêu thụ  lúa gạo.  Bên cạnh đó, chính quyền thuộc địa cũng có những chính sách miễn  giảm thuế cho nông dân khi gặp phải hạn hán, lũ lụt, mùa màng thất bát.  4.2. Những chuyển biến của kinh tế  nông nghiệp tỉnh Hải Dương   giai đoạn 1919 ­ 1945 4.2.1. Chuyển biến về sở hữu ruộng đất Ruộng đất công làng xã của tỉnh Hải Dương tiếp tục bị  thu hẹp.  Tỷ lệ ruộng đất công trong tỉnh tương đối thấp, chiếm 16,28%. Ruộng đất tư  có sự  phát triển mạnh. Địa chủ  chiếm khoảng 6%  dân số nhưng chiếm 60% ruộng đất. Công cuộc khai thác thuộc địa của  thực dân Pháp đã tạo điều kiện cho sự  hình thành và phát triển sở  hữu  lớn về  ruộng đất  ở  Hải Dương, đặc biệt  ở  bộ  phận kinh tế  đồn điền.  Tỉnh có 17 đồn điền, với tổng diện tích là 6.296,88 ha, diện tích canh tác   là 1.792,66 ha.  4.2.2. Chuyển biến về hình thức tổ chức sản xuất Tỉnh Hải Dương có 99,2% chủ sở hữu canh tác trực tiếp, bộ phận   làm với tá điền chiếm tỷ  lệ  rất nhỏ  0,8%. Khi người chủ  đất có một   diện tích tương đối lớn thì họ trực tiếp canh tác vụ mùa tháng 10 và để  một vài mẫu cho thuê hoặc cho cấy rẽ vào vụ tháng 5. Hình thức sử dụng công nhân ăn lương thường được sử dụng trong  các đồn điền trồng cà phê. Năm 1938, có 4,5 ha trồng cây cà phê với số  lượng công nhân bản xứ là 50 người, tiền công dao động từ 0,25 ­ 0,35đ.  4.2.3. Chuyển biến về kỹ thuật sản xuất Nhiều đê điều, hệ  thống tưới và tiêu nước đã được tu sửa, gia cố  hoặc xây dựng mới như: đắp lại một con đê cũ chạy dọc theo sông Thái   Bình trên địa phận tổng Trạm  Điền (Chí Linh), giúp cho 5.000 mẫu  ruộng cấy được vụ  mùa. Cuối tháng 2 – 1926,  ở  Hải Dương đã xây  dựng được trạm bơm nước ở xã Thượng Đô (Kim Thành).  Nông dân Hải Dương sử dụng phân xanh trong nông nghiệp. “Việc 
  17. 17 sử  dụng phân xanh cho vụ  mùa cho phép tăng năng suất từ  14 – 20%”.  Ngoài ra, nông dân Hải Dương còn sử dụng phân hóa học. Sở  Canh nông Bắc Kỳ   đã  cho thành lập  ở  Hải Dương  trạm  thí  nghiệm chuyên nghiên cứu về  lúa.  Bên   cạnh   cây   lúa,   còn   đưa   những  giống cây trồng, vật nuôi mới như: giống ngô canh nông; khoai tây Java,  giống Heigenteimer và khoai tây Cao Bằng; giống sắn Camanioc; thuốc   lá Cabot de Boue; giống lợn Mường Khương, cải thiện giống bò. Tính   đến tháng 6 – 1936, có 3 bác sĩ thú y làm việc ở Hải Dương, Kẻ Sặt và  Đông Triều.  4.2.4. Chuyển biến về kết quả hoạt động sản xuất * Trong trồng trọt ­ Khu vực kinh tế đồn điền: Cây lương thực:  Lúa  là cây trồng chính tại các đồn điền. Năm  1939, diện tích trồng lúa là 1.681,50 ha trong tổng số 6.296,88 ha. Ngoài  ra, các điền chủ còn trồng ngô (13,66), sắn (14,5 ha). Cây công nghiệp:  diện tích trồng cà phê bị  giảm sút.  Sang những  năm 1940, chỉ còn điền chủ Lamotte ở Bắc Mai trồng cà phê với diện tích  65 ha trong tổng số 30 điền chủ trồng cà phê ở  Bắc Kỳ.  Ngoài ra, trong  các đồn điền còn trồng trẩu, chè, … với diện tích không đáng kể so với  cây lúa.  ­ Khu vực nông nghiệp làng xã: Cây lương thực: Nghề   trồng   lúa   đã   có   sự   chuyển   biến   đáng   kể:   Diện   tích   từ  195.488 ha (1931) tăng lên 254.000 (1936). Sản lượng và năng suất lúa  cao nhất đạt 301.983 tấn (1931); 3.400,10 kg/ha (1934). Diện tích và sản lượng lúa ở Hải Dương luôn nằm trong số những  tỉnh đứng đầu khu vực Bắc Kỳ. Điều này được minh chứng qua sự  so   sánh với diện tích và sản lượng lúa ở Nam Định và Thái Bình.  Từ  1931 – 1940, diện tích ngô từ  395 ha tăng lên 1.670 ha và sản   lượng từ 520 tăng lên 2.813 kg/ha; diện tích khoai lang từ 3.333 ha giảm  còn 3.067 ha và sản lượng từ 10.499 giảm còn 9.250 kg/ha. Ngoài ra, người nông dân tỉnh Hải Dương còn trồng đậu đỗ, đậu  tương, sắn, … ­ Các loại cây công nghiệp: được trồng nhiều trong tỉnh là thuốc lá,  cau, chè, mía, bông, cói, dâu tằm.  * Trong chăn nuôi  Hầu hết Công sứ  Hải Dương đều cho rằng: Hải Dương là một  tỉnh nghèo gia súc và không bao giờ trở thành một vùng chăn nuôi. Khu vực kinh tế đồn điền: Tỉnh Hải Dương chỉ có những đồn điền  kết hợp chăn nuôi với trồng trọt.  Chăn nuôi trong các đồn điền  ở  Hải  Dương chủ  yếu là chăn nuôi trâu, bò. Tiêu biểu như: đồn điền của De 
  18. 18 Monpezat  ở  Nam Sách nuôi 107 con trâu; De Barbiaux  ở  Chí Linh nuôi  280 con bò, 70 con trâu. Khu vực nông nghiệp làng xã: Chăn nuôi lợn đặc biệt phát triển ở  Hải Dương. Trâu, bò được nuôi nhiều trong tỉnh. Năm 1937, tỉnh có  14.810 con bò và 33.890 con trâu, 97.279 con lợn, con 148 ngựa, 450 con  dê, 844.850 con gia cầm. Bên cạnh đó, Hải Dương cũng là tỉnh buôn bán  gia súc tương đối lớn.  * Tiểu kết chương 4 Giai đoạn 1919 – 1945, chính quyền thuộc địa Hải Dương đã có sự  đầu tư  lớn vào lĩnh vực nông nghiệp. Điều này đã tạo nên những biến  chuyển kinh tế  nông nghiệp mạnh mẽ  hơn hẳn giai đoạn trước. Nông  nghiệp tỉnh Hải Dương vẫn chia thành hai bộ phận: khu vực kinh tế đồn  điền và khu vực kinh tế nông nghiệp làng xã. Sự  du nhập phương thức   sản xuất TBCN trong khu vực kinh tế  đồn điền đã làm kinh tế  nông  nghiệp của tỉnh phát triển theo hướng kinh tế  hàng hóa, góp phần phá  vỡ  tính chất tự  cung tự  cấp, khép kín của kinh tế  nông nghiệp truyền  thống.  Chương 5 ĐẶC ĐIỂM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÔNG NGHIỆP ĐẾN TÌNH  HÌNH KINH TẾ ­ XàHỘI TỈNH HẢI DƯƠNG THỜI KỲ 1883 –  1945 5.1. Về một số đặc điểm của kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương   (1883 – 1945) Kinh tế  nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời Pháp thuộc có một số  đặc điểm nổi bật sau đây: Một là, mặc dù sở  hữu nhỏ về ruộng đất chiếm ưu thế  nhưng sở  hữu lớn về ruộng đất bước đầu hình thành.  Hai là, từ nền nông nghiệp chuyên canh lúa nước chuyển sang nền  nông nghiệp đa canh, phát triển trồng trọt và chăn nuôi, song lúa vẫn là  cây trồng chủ đạo. Ba là, kinh tế  nông nghiệp tỉnh Hải Dương bước đầu phát triển  theo hướng sản xuất hàng hóa.  Bốn là, kinh tế nông nghiệp Hải Dương có sự tồn tại của phương   thức sản xuất phong kiến và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Năm là, khu vực kinh tế  đồn điền có sự  chuyển biến mạnh mẽ  nhất trong nông nghiệp tỉnh Hải Dương. Sáu là, kinh tế  nông nghiệp tỉnh Hải Dương phản ánh rõ nét tính  chất thuộc địa của nông nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc. 
  19. 19 5.2. Tác động của nông nghiệp đến kinh tế ­ xã hội tỉnh Hải Dương  thời kỳ 1883 ­ 1945 5.2.1. Tác động về kinh tế * Góp phần thúc đẩy kinh tế  nông nghiệp tỉnh Hải Dương phát   triển theo hướng sản xuất hàng hóa Sự ra đời của quan hệ sản xuất TBCN trong nông nghiệp góp phần  tạo ra khối lượng sản phẩm nông nghiệp lớn hơn trước, nền sản xuất  hàng hóa được mở rộng hơn. Tuy nhiên, sự xâm nhập của phương thức  sản xuất TBCN vào nông nghiệp đi đôi với quá trình mất đất, bóc lột   nặng nề và làm bần cùng hóa người nông dân. Nông nghiệp Hải Dương  có sự  chuyển biến rõ rệt so với trước, nhưng  đó là sự  chuyển mình  trong đau khổ. * Góp phần thúc đẩy một số  ngành công nghiệp chế  biến  ở  địa   phương phát triển  Góp phần phát triển công nghiệp chế  biến rượu (năm 1904 thành  lập nhà máy sản xuất rượu), dệt và chế  biến thực phẩm (đặc biệt là   nghề  hàng xáo với 6.600 hộ). Các nghề  thủ  công như  nghề  ấp vịt, giết  mổ gia súc, gia cầm; nghề đan lát,… có điều kiện phát triển. * Góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại phát triển Nội thương:  Chợ  là nơi nhân dân trong vùng trao đổi, mua bán  nông sản và các hàng thủ công. Ở  tất cả các phủ, huyện trong tỉnh đều   có chợ. Những năm 1915 – 1916, đã có 220 chợ lớn nhỏ tạo thuận lợi cho  sự trao đổi hàng hóa.  Hoạt động xuất nhập khẩu: Hải Dương nằm giữa hai trung tâm có  sức hấp dẫn là Hà Nội và Hải Phòng nên thương mại tập trung vào các  sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt là lúa gạo. Các trung tâm thương mại  lớn gồm: thành phố  Hải Dương, Ninh Giang, Bảy Chùa, Yên Lưu, Kẻ  Sặt và Mỹ Đông. Tất cả các mặt hàng xuất khẩu đều đi qua Hải Phòng  và từ  đó được chuyển qua Hồng Kông hoặc vùng khác. Tính riêng năm  1935, tỉnh xuất khẩu được 13.000 tấn thóc gạo, 700 tấn ngô trong tổng  số 776 tấn thu hoạch được, 100 tấn cám. * Sự phát triển của nông nghiệp, thương nghiệp đã đưa đến sự ra   đời của các đô thị ở Hải Dương: Đầu năm 1930, nhiều đô thị mới được  hình thành bên cạnh các tuyến đường sông, đường bộ  như  thành phố  Hải Dương, Ninh Giang, Phả Lại, Kẻ Sặt, An Lưu, Bến Trại… Dân cư  đông đúc, cửa hàng, cửa hiệu ngày một nhiều. Nơi đây đã có hàng nghìn  thương nhân buôn bán các mặt hàng nông sản, thủ  công trong nước và  hàng công nghệ phẩm nhập khẩu, nhiều hiệu buôn lớn được hình thành.
  20. 20 * Tác động đến hoạt động dịch vụ vận tải:  Kinh tế nông nghiệp có  những chuyển biến mạnh mẽ hơn giai đoạn trước kéo theo sự phát triển  của hoạt động dịch vụ vận tải, đặc biệt là dịch vụ đường thủy, nhằm vận  chuyển chủ yếu các mặt hàng thóc gạo và rượu. 5.2.2. Tác động về xã hội * Sự biến động về dân cư và mở mang địa bàn cư trú Sự  chuyển biến của kinh tế  nông nghiệp đã tác động lớn đến sự  gia   tăng   dân   số   và   các   luồng   di   dân   và   ngược   lại.   Dân   số   tỉnh   Hải  Dương từ 1900 đến 1943 tăng khoảng 138.000 người. Mật độ dân số từ  314 người/km2 (1900) tăng lên 375 người/km2 (1943). Diện tích canh tác  theo đầu người từ  0,19 ha/người (1932) tăng lên 0,26 ha/người (1940).  Song, sản lượng lúa tính trung bình theo đầu người  ở  tỉnh Hải Dương  giảm từ  3,83 tạ/người (1932) xuống còn 2,49 tạ/người (1940). Điều đó  cho thấy sản lượng lúa không đáp ứng được mức tăng dân số. Đây cũng   là lý do khiến sự nghèo đói, bần cùng ngày càng tăng của người dân lao  động  ở tỉnh Hải Dương. Đồng thời dẫn đến hiện tượng hình thành các  luồng di dân mới: di dân từ vùng đồng bằng lên phía bắc của tỉnh; di dân  vào các nhà máy, hầm mỏ; di dân sang các tỉnh khác; di dân vào Nam Kỳ,   Campuchia,… Tuy nhiên, sự di dân này vẫn chưa thể thỏa mãn được nhu  cầu việc làm của nông dân tỉnh Hải Dương. Đồng thời việc tập trung   dân cư quá đông ở vùng đồng bằng của tỉnh cũng chưa được giải quyết  triệt để. Chính quyền thuộc địa Hải Dương đã khai thác đất đai hoang hóa  ở  vùng phía bắc của tỉnh (Chí Linh, Đông Triều) và chinh phục đất bãi  bồi ở phía nam huyện Vĩnh Bảo và đông nam huyện Đông Triều. * Sự phân hóa giai cấp của xã hội nông thôn Hải Dương Sự phân hóa của giai cấp địa chủ: Thời kỳ thuộc địa, địa chủ ở Hải Dương chỉ chiếm khoảng 6% dân  số  nhưng chiếm 60% diện tích ruộng đất. Còn theo phân loại của cải   cách ruộng đất: địa chủ  chiếm 2,72% dân số, chiếm 13,55% diện tích  ruộng đất.  Đại đa số địa chủ đem ruộng đất phát canh thu tô. Tô có thể bằng   tiền hoặc bằng hiện vật. Tuy nhiên, do chính sách độc quyền về  kinh  tế, chuyên chế về chính trị nên giữa đế  quốc và địa chủ bản xứ  vẫn có   những mâu thuẫn về quyền lợi. Ở Hải Dương, ngoài những tên địa chủ  cường hào, phản động làm tay sai cho đế  quốc, còn có một số  địa chủ  vừa và nhỏ bị phá sản còn có tư tưởng yêu nước, phản ứng chống lại tư  bản Pháp. Bộ  phận này khi được vận động và giác ngộ  cách mạng đã  tham gia, ủng hộ cách mạng, hoặc cho con em đi theo cách mạng. Sự phân hóa của giai cấp nông dân: Giai cấp nông dân ở Hải Dương bị phân hóa thành các tầng lớp: cố 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2