intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam trong bối cảnh văn hoá tộc người

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

18
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của Luận án nhằm đưa ra được những hình dung khái lược về không gian xã hội Thái thông qua những mối quan hệ xã hội cơ bản, từ đó hình dung cách thức mà người Thái gây dựng, củng cố nền văn hóa của mình, giúp chúng không bị “hòa tan” trước những thách thức, biến đổi của không gian và thời gian. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam trong bối cảnh văn hoá tộc người

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN THỊ MAI QUYÊN TRUYỆN KỂ ĐỊA DANH CỦA NGƯỜI THÁI Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH VĂN HÓA TỘC NGƯỜI Chuyên ngành: Văn học dân gian Mã số:62.22.01.25 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Hà Nội - 2021
  2. Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS Vũ Anh Tuấn PGS.TS Nguyễn Thị Huế Phản biện 1: GS.TS Nguyễn Chí Bền Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam Phản biện 2: GS.TS Trần Nho Thìn Trường Đại học khoa học xã hội và Nhân văn Phản biện 3: PGS.TS Nguyễn Thị Bích Hà Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội vào hồi …..giờ … ngày … tháng… năm… Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Thư viện Quốc Gia, Hà Nội hoặc Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
  3. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ I.Báo - tạp chí 1. Các mối quan hệ xã hội tộc người nhìn từ truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam, Tạp chí Văn học, tháng 1.2016 2. Truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam, Tạp chí Nhân lực KHXH, tháng 4.2016 3. Vai trò của nước và sự hình thành không gian xã hội Thái tộc (nhìn từ truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam), Hội thảo khoa học Sau đại học ngành Ngữ văn, Đại học sư phạm Hà Nội, tháng 8.2017 4. "Núi" trong truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam, Tạp chí Văn học, tháng 8.2017 5. Biểu tượng nỏ trong truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam, in trong Phân tích, nghiên cứu và dịch thuật văn hoá, văn học và ngôn ngữ nước ngoài, Nxb Đại học Vân Nam, tháng 12.2018 II.Sách Nguyễn Thị Mai Quyên, Huổi pú nặm mương (Truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam), Nxb Văn học, H,2018
  4. 1 PHẦN 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1. Lý do chọn đề tài Với tư cách là một đơn vị từ vựng, một danh từ riêng, không xuất hiện một cách ngẫu nhiên mà hàm chứa trong nó những vỉa tầng văn hóa, lịch sử, ngôn ngữ, những quan niệm của con người và đặc điểm vùng đất, địa danh đi vào truyện kể dân gian với tư cách là những sáng tạo của người dân được truyền từ đời này sang đời khác. Ý nghĩa của địa danh trong truyện kể vì thế không chỉ là dấu chỉ cho một vùng đất, một bản làng hay con sông ngọn suối, địa danh còn lại cùng năm tháng quan trọng bởi cái duyên cớ mà nó được sinh ra, những trải nghiệm gắn bó với cộng đồng văn hóa, ngôn ngữ đã cùng nó tồn tại. Truyện kể địa danh vì thế cần phải được nghiên cứu dưới góc độ liên ngành để giải mã được các vỉa tầng ẩn chứa đằng sau mỗi câu chuyện, từ đó có những kiến giải mới về lịch sử, văn hóa, truyền thống và đặc điểm của vùng đất cũng như con người đã sản sinh ra truyện kể. Người Thái là một trong những tộc người thiểu có dân số đông vào bậc nhất nước ta. Vai trò của văn hóa Thái trong bức khảm văn hóa đa màu sắc của dân tộc Việt Nam đến nay có lẽ không còn là điều phải bàn cãi. Tuy thế, xét từ những góc độ, mỗi thành tố trong nền văn hóa ấy lại tỏa sáng ở một góc độ, có những đóng góp khác nhau vào quá trình tộc người nói riêng và quá trình hòa nhập văn hóa các tộc người nói chung. Truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam với những câu chuyện gắn bó trực tiếp với đời sống nhân dân Thái từ miền Bắc đến miền Trung là nơi chứa đựng nhiều giá trị văn hóa tộc người quý giá cần được khám phá. Xuấ t phát từ nhâ ̣n thức về vai trò của văn hóa – văn ho ̣c dân Thái trong viê ̣c bảo tồ n và phát huy bản sắ c văn hóa tô ̣c người, năm 2010 chúng tôi đã hoàn thành mô ̣t công trı̀nh nghiên cứu mang tên Truyê ̣n kể điạ danh của người Thái ở Viê ̣t Nam. Công trıǹ h đã hoàn thành được mu ̣c tiêu đề ra là xây dựng khái niê ̣m truyê ̣n kể điạ danh Thái, bước đầ u thố ng kê được mô ̣t số lượng truyê ̣n kể điạ danh (56 truyê ̣n) và chı̉ ra những giá tri ̣ nô ̣i dung, thi pháp cùng dâu ấ n văn hóa tô ̣c người (gồ m dấ u ấ n văn hóa vâ ̣t chấ t và dấ u ấ n văn hóa tinh thầ n) trong tâ ̣p hợp truyê ̣n kể . Viê ̣c làm đó dù đã đa ̣t được mô ̣t số kế t quả nhấ t đinh ̣ song cũng cho thấy xung quanh truyện kể địa danh Thái tộc còn rất nhiều vấn đề tồ n ta ̣i cầ n giải quyế t, đơn cử như viê ̣c thố ng kê và hoàn thiê ̣n hơn nữa tâ ̣p hợp
  5. 2 truyê ̣n kể vô cùng phong phú và nhìn tập hợp ấy trong bố i cảnh văn hóa tô ̣c người để thấ y được mố i quan hê ̣ hữu cơ giữa điạ danh với môi trường văn hóa đã sản sinh ra chúng, tı̀m ra những mắ t xı́ch văn hóa, đă ̣c biê ̣t là cách thức chúng được trao truyề n, hướng tới mu ̣c tiêu bảo tồ n và nuôi dưỡng văn hóa tô ̣c người. Từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài Truyê ̣n kể điạ danh của người Thái ở Viê ̣t Nam trong bố i cảnh văn hóa tôc̣ người làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Góp phần vào việc sưu tầm, công cố kho tàng văn học dân gian Thái. Tìm ra những giá trị lịch sử, văn hóa ẩn chứa trong kho tàng truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam, từ đó chỉ ra những hằng số, những cách thức tư duy mang tính biểu trưng của tộc người thông qua thế giới biểu tượng được hình thành trong truyện kể. Đưa ra được những hình dung khái lược về không gian xã hội Thái thông qua những mối quan hệ xã hội cơ bản, từ đó hình dung cách thức mà người Thái gây dựng, củng cố nền văn hóa của mình, giúp chúng không bị “hòa tan” trước những thách thức, biến đổi của không gian và thời gian. Nhiệm vụ nghiên cứu - Trên cơ sở tiếp xúc với kho tàng truyện cổ Thái đã được sưu tầm, xuất bản kết hợp với thăm hỏi trên thực địa, nhiệm vụ trước hết đặt ra trong luận án này là tập hợp một số lượng nhất định các văn bản truyện kể (trong điều kiện thời gian được cho phép) trên tiêu chí đảm bảo tất cả các vùng Thái lớn đều có truyện kể; tiến hành thông kê, phân loại và sắp xếp chúng theo khu vực địa lý tồn tại địa danh. - Nhiệm vụ tiếp theo là làm sáng tỏ những vấn đề về khái niệm, phân loại, và các đặc trưng về phương diện nội dung của truyện kể địa danh Thái tộc. - Nhiệm vụ thứ ba tương ứng với chương tiếp theo của luận án là chỉ ra nguồn gốc, các biểu hiện và ý nghĩa của một số biểu tượng tiêu biểu trong kho tàng truyện kể địa danh Thái tộc. - Cuối cùng, luận án cần đưa ra hình dung khái lược về một số mối quan hệ xã hội tộc người từ phương diện truyện kể và lý giải chúng trong mối quan hệ với những yếu tố văn hóa xung quanh.
  6. 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đố i tươ ̣ng nghiên cứu của luâ ̣n án là truyê ̣n kể đi ̣a danh của người Thái ở Viê ̣t Nam. - Phạm vi nghiên cứu: phạm vi tư liê ̣u phu ̣c vu ̣ nghiên cứu được tập hợp từ hai nguồ n: 1/Những tư liệu được thu nhận trên thực địa; 2/ Nguồ n truyê ̣n kể điạ danh nằ m rải rác trong các văn bản thành văn có sưu tầm truyện kể dân gian Thái như: truyê ̣n kể dân gian Thái, truyê ̣n kể dân gian các dân tô ̣c ıt́ người; kỷ yế u hô ̣i thảo Thái ho ̣c; điạ chı́ các vùng đấ t có cư dân Thái sinh số ng và mô ̣t số công trı̀nh nghiên cứu về điạ danh. Các tư liệu này được thống kê trong Phụ lục 1. Trên cơ sở hai nguồ n tư liêụ nói trên, đế n thời điể m hiê ̣n ta ̣i đã sưu tầ m/ sưu tâ ̣p đươ ̣c 116 truyê ̣n /mẩ u truyê ̣n kể điạ danh Thái. Đây là cơ sở tư liệu để chúng tôi để tiế n hành những nghiên cứu đề tài Truyê ̣n kể đi ̣a danh của người Thái ở Viê ̣t Nam trong bố i cảnh văn hóa tộc người. 5.Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích ngữ văn dân gian - Phương pháp phân tích cấu trúc -Phương pháp điền dã -Phương pháp so sánh đối chiếu: - Phương pháp nghiên cứu liên ngành: 6. Đóng góp mới của luận án Luận án khi hoàn thành dự kiến sẽ có những đóng góp sau: 6.1. Lần đầu tiên truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam được tập hợp chung trong một công trình được xuất bản. 6.2. Xác đinh ̣ được giá tri ̣về phương diê ̣n ngữ văn dân gian của tâ ̣p hợp truyê ̣n kể điạ danh Thái. Chỉ ra cấu trúc thể loại, giá trị nội dung xét theo phương diện thể loại của tập hợp truyện kể. Đóng góp này có sự kế thừa từ công trình luận văn Thạc sĩ Truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam, tuy nhiên có mở rộng ở phạm vi tư liệu khảo sát để xem xét một cách đầy đủ và kỹ lưỡng hơn mọi phương diện của vấn đề. 6.3. Đây cũng là lần đầu tiên một số biểu tượng tiêu biểu của văn hóa Thái được phân tích, nhìn nhận từ góc độ truyện kể địa danh.
  7. 4 6.4. Luận án đóng góp những hình dung sơ lược về không gian xã hội Thái tộc tập trung vào một số mối quan hệ xã hội cơ bản từ góc độ truyện kể địa danh. Việc nghiên cứu không gian xã hội tộc người từ phương diện ngữ văn dân gian tuy đã được thực hiện bởi một số nghiên cứu đi trước, song đối với ngành Thái học, đây vẫn là thử nghiệm đầu tiên, cung cấp cách nhıǹ mới cho văn ho ̣c dân gian tô ̣c người, nằ m trong nỗ lư ̣c chung trả văn ho ̣c dân gian về với bố i cảnh của nó. 7. Cấ u trúc của luâ ̣n án Luâ ̣n án triể n khai thành 4 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Chương 2. Truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam: khái niệm, phân loại và nội dung Chương 3. Cốt truyện và biểu tượng trong truyện kể địa danh của người Thái ở Việt nam Chương 4. Không gian xa ̃ hô ̣i trong truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam - Tổ ng hơ ̣p tấ t cả những nghiên cứu liên quan có thể thấ y xung quanh vấn đề truyện kể địa danh của người Thái ở Viê ̣t Nam còn nhiều khoảng trố ng: + Trên phương diêṇ văn bản: chưa có công trı̀nh nào thố ng kê mô ̣t cách hê ̣ thố ng tư liê ̣u truyê ̣n kể điạ danh của người Thái ở Viê ̣t Nam. Dù không thể trong mô ̣t sớm mô ̣t chiề u thu thâ ̣p đươ ̣c toàn bô ̣ nguồ n tư liêụ truyê ̣n kể , song trong hoàn cảnh văn ho ̣c – văn hóa dân gian nhiề u tô ̣c người đang có nguy cơ mai mô ̣t, viê ̣c làm này là cầ n thiế t và cấ p bách. +Trên phương diêṇ khảo cứu: chưa có công trıǹ h nào tiế n hành khảo cứu mô ̣t cách toàn diê ̣n truyê ̣n kể điạ danh của người Thái ở Viê ̣t Nam. Điạ danh là đơn vi ̣ mang không gian mà đằ ng sau nó là những mố i liên hê ̣ xã hô ̣i, những nhân tố góp phầ n hıǹ h thành không gian. Mă ̣c dầ u vâ ̣y những nghiên cứu về điạ danh cho đế n nay
  8. 5 chưa có nghiên cứu nào quan tâm đế n vấ n đề này. Nói cách khác chưa có nghiên cứu nào mang tı́nh chuyên sâu đă ̣t truyê ̣n kể điạ danh trong bố i cảnh văn hóa của mô ̣t tô ̣c người cu ̣ thể để tı̀m ra mố i liên hê ̣ bản chấ t giữa tên đấ t với môi trường văn hóa sản sinh ra nó. Khắ c phu ̣c khoảng trố ng đó chıń h là yêu cầ u mà chúng tôi đă ̣t ra trong luâ ̣n án. 1.2. Tổng quan các vấn đề lý thuyết sử dụng trong luận án 1.2.1. Về việc nghiên cứu truyện kể dân gian trong bối cảnh văn hóa tộc người Trong nghiên cứu này, khái niệm “bối cảnh văn hóa tộc người” được chúng tôi hiểu là sự tổng hợp của toàn bộ những yếu tố văn hóa, lịch sử, kinh tế, xã hội... rộng lớn có sức tác động đến đời sống vật chất, kinh tế lẫn đời sống tinh thần của một tộc người. Mỗi sáng tác ngôn từ dân gian trong bối cảnh ấy phải chịu sự chi phối của các yếu tố tri thức, hiểu biết, những tiền giả định, quy ước mà tộc người dùng để giao tiếp và hiểu nhau. Những phong tục, tín ngưỡng, lễ hội, … mang tính văn hóa cũng có sức ảnh hưởng to lớn đến việc hình thành, chuyển giao và tiếp nhận các tác phẩm văn học dân gian trong cộng đồng ấy. Nghiên cứu truyện kể dân gian trong bối cảnh văn hóa tộc người vì thế là một nỗ lực xem xét truyện kể từ hai giác độ. Một mặt coi truyện kể như một thành tố của văn hóa tộc người, được nhận thức chủ quan (cả ý thức và vô thức) và thuộc về một hệ thống bao gồm toàn thể đời sống. Từ giác độ này, sự khảo sát, phân tích truyện kể xuất phát từ bên ngoài, dưới góc độ của một người làm dân tộc chí quan sát về một nền văn hóa khác. Mặt khác, trên cơ sở những yếu tố của sự kiện quan sát được từ truyện kể, trong điều kiện có thể, người nghiên cứu cố gắng trải nghiệm những sự kiện ấy cùng người dân bản địa, từ đó lần ra những mối dây liên hệ ngầm ẩn giữa các sự kiện được khảo sát với những nhân tố bên trong thuộc về tâm tư, tình cảm, thế giới tâm linh... của cộng đồng. 1.2.2. Lý thuyết biểu tượng trong nghiên cứu truyện kể dân gian Nghiên cứu đặt ra vấn đề phân tích ba biểu tượng tiêu biểu xuất hiện trong kho tàng truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam là biểu tượng nước, biểu tượng núi và biểu tượng nỏ. Quá trình nghiên cứu có sự tiếp thu các thao tác làm việc của nhiều nghiên cứu đi trước kết hợp với các thao tác nghiên cứu cụ thể nhằm tìm ra những lợp nghĩa mới của các biểu tượng từ góc độ truyệ kể địa danh
  9. 6 1.2.3. Lý thuyết không gian xã hội trong nghiên cứu truyê ̣n kể dân gian Khái niê ̣m không gian xã hô ̣i mà chúng tôi sử du ̣ng đươ ̣c đề xuấ t bởi G. Condominas trong công trı̀nh “Không gian xã hô ̣i vùng Đông Nam Á”. Theo Condominas: “không gian xã hô ̣i là cái không gian đươ ̣c xác đinh ̣ bởi tâ ̣p hơ ̣p hê ̣ thố ng quan hê ̣ đă ̣c trưng cho mô ̣t nhóm người nào đó”. Sử du ̣ng khái niê ̣m không gian xã hô ̣i trong viêc̣ nghiên cứu truyê ̣n kể điạ danh của người Thái ở Viê ̣t Nam, chúng tôi ý thức đươ ̣c rằ ng (1) truyê ̣n kể điạ danh Thái chı̉ là mô ̣t bô ̣ phâ ̣n trong folklore tô ̣c người, bởi vâ ̣y bản thân nó chı̉ chứa đư ̣ng phầ n nào những khúc xa ̣ của không gian xã hô ̣i Thái tô ̣c, đă ̣c biêṭ trong điề u kiê ̣n quá trı̀nh sưu tầ m, sưu tâ ̣p tư liê ̣u truyê ̣n kể còn nhiề u ha ̣n chế ; Bởi vâ ̣y trong quá trı̀nh phân tı́ch, ngoài sư ̣ tinh tế của người quan sát còn cầ n đế n sư ̣ tın̉ h táo để tránh lố i tư duy ép buô ̣c, gán cho văn bản những nghıã mà nó không có để minh ho ̣a cho lý thuyế t. (2) viêc̣ tı̀m hiể u những biể u hiêṇ của không gian xã hô ̣i thể hiêṇ trong truyê ̣n kể điạ danh của người Thái ở Viê ̣t Nam là quy trı̀nh khai thác gián tiế p, trong đó truyê ̣n kể điạ danh là đố i tươ ̣ng trung gian bởi vâ ̣y có thể không đảm bảo đươ ̣c tı́nh hê ̣ thố ng của những quan hê ̣ đó. Kế t quả của viê ̣c nghiên cứu do đó không thể khẳ ng đinh ̣ là hình dung đươ ̣c mô ̣t mô hıǹ h không gian xã hô ̣i tô ̣c người nguyên veṇ như nó vố n có mà thực chấ t chı̉ có thể là những quan sát xã hô ̣i từ góc đô ̣ ngữ văn dân gian. Những quan sát này trong sư ̣ tương tác và gắ n bó sẽ đưa ra gơ ̣i ý cho vấ n đề mà chúng tôi đang tı̀m kiế m. 1.3. Sơ lược về bối cảnh văn hóa Thái Là một trong những dân tộc ít người có dân số đông, người Thái bảo lưu được một nền văn hóa vật chất và tinh thần tương đối phong phú. Về văn hóa vật chất, là cư dân nông nghiệp, người Thái rất giỏi trong việc sử dụng nguồn nước để cung cấp cho cho đồng ruộng và sinh hoạt bằng hệ thống mương, phai, lái, lin và các loại guồng, cọn ... Ngoài ra, trong đời sống của họ, việc săn bắn thú rừng, đánh bắt các loài thủy sản ở sông suối và chăn nuôi gia súc, gia cầm cũng đóng vai trò hết sức quan trọng. Do đặc trưng canh tác là trồng lúa nếp trên các thửa ruộng bậc thang và trên nương rẫy nên trước đây trong bữa ăn hàng ngày, người Thái chủ yếu ăn cơm nếp. Điều đó giải thích tại sao họ còn tự gọi mình là “người cơm nếp đồ” (Tăy khảu nửng) để phân biệt với những dân tộc ăn cơm tẻ. Thức ăn chính trong các bữa ăn của người Thái
  10. 7 thường là cá được chế biến theo nhiều cách, ngoài ra có các loại thức ăn thực vật như gạo, rau, đậu và các loại thực phẩm thủy sản khác như ếch, nhái, nòng nọc… thịt không phải là món chính và thường xuyên. Hiện nay, người Thái ở nhiều nơi đã chuyển sang ăn gạo tẻ là chính. Người Thái phân biệt trang phục theo giới, trang phục thường ngày với lễ phục, khi chết và để tang, lúc đi làm ngoài đồng, ngoài nương rừng với khi ở nhà; mùa nóng bức với những tháng đông giá trong năm và hai độ tuổi vị thành niên với khi nhắm mắt xuôi tay”. Riêng phụ nữ Thái Đen có khăn đội đầu (khăn piêu) thêu hoa văn nhiều màu; chưa có chồng thì búi tóc sau gáy, có chồng thì búi tóc ngược trên đỉnh đầu, góa chồng thí búi tóc ngược trước và trên trán. Người Thái ở nhà sàn do điều kiện cư trú thuộc vùng rừng núi, lắm côn trùng, thú dữ. Nhà sàn của người Thái là một thành tố văn hoá tiêu biểu, nhìn vào cấu trúc mái nhà người ta có thể phân biệt được nhà ở của các nhóm địa phương. Nhà của người Thái đen có kết cấu dạng mai rùa và thường trang trí ở hai đầu hồi của nóc nhà đôi khau cút (sừng cụt), nhà của người Thái trắng lại là nhà kiểu bốn mái. Những ngôi nhà sàn thường được làm bằng các nguyên liệu sẵn có như gỗ, tre nứa lá lợp … tựa lưng vào núi và quay mặt ra cánh đồng. Ngôi nhà sàn là không gian cho một “cộng đồng nhà” với hai đến ba thế hệ cùng sinh sống. Nhiều nóc nhà tập trung thành bản, nhiều bản chung thành mường phân bố dọc theo các con suối và các thung lũng núi. Về văn hóa tinh thần, trong tín ngưỡng tâm linh, “tại các tổ chức xã hội mang tên Mường (…), người Thái theo một trong những tục thờ có nghi thức thờ nước (nặm) và đất (đin) gọi là cạn (bốc). Nước có biểu tượng thần chủ là con rồng (tô luông) mang tên chủ nước (chảu nặm); đất có biểu tượng thần chủ là loài chim, ở núi, mang tên chủ đất (chảu đin). Hai biểu tượng thần chủ là rồng – chim cũng là mẹ - cha của mường. Tục thờ này nằm trong toàn bộ nghi lễ chung gọi là cúng mường. Ngoài ra họ còn thờ thần núi Thần Núi và linh hồn người làm cột trụ”. Người Thái nhiều vùng ở nước ta còn thờ vật tổ là rắn như vùng Điện Biên, Yên Bái… vì ông tổ của họ được chính sử ghi là Lò Lẹt, hiệu là Ngưu Hống (phiên âm của từ ngu hău trong tiếng Thái có nghĩa là con rắn hổ mang). Cho đến ngày nay vẫn còn những dòng họ kiêng ăn thịt rắn, thậm chí thịt lươn (như họ Vì ở Yên Bái..) vì họ coi đó là vật tổ của mình.
  11. 8 Trong quan niệm về thế giới, người Thái cho rằng có sự tồn tại của 3 mường: Mường Phạ (Mường Then) là mường của các vị then; Mường Lùm hay (Mường Lum) là Mường Người; Mường Boọc Đai (bọoc đai nghĩa là trong lòng đất) là mường Âm Phủ, mỗi mường trên đều có một chủ mường. Then Luông là then đứng làm chủ cõi trời, dưới Mường Người có chẩu mường là cao nhất, trong khi đó Chẩu Nặm (thần thuồng luồng) làm chủ Mường Nước. Quan niệm này chi phối toàn bộ thế giới tâm linh và có thể coi là cội nguồn của các nghi thức, tín ngưỡng của tộc người. Bên cạnh văn hóa tâm linh, Người Thái còn có nhiều sản phẩm văn hóa tinh thần phong phú. Là một dân tộc có ngôn ngữ và văn tự từ rất lâu đời, tổ tiên họ đã ghi chép lại được rất nhiều những sự kiện lịch sử, văn hóa, xã hội trong các tập sách như Kể chuyện bản mường (Quám tố mướng), sách ghi lại Những bước đường chinh chiến của ông cha (Táy pú xớc), Những lời răn dạy con người (Quám xon cốn), gia phả của các dòng họ hay những quy định mang tính chất luật tục của các mường (Tục lệ người Thái đen ở Thuận Châu…) Không những thế, người Thái có một kho tàng văn học dân gian vô cùng phong phú. Họ có rất nhiều các truyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, đặc biệt là tập hợp truyện thơ rất đồ sộ bao gồm những truyện thơ do các tác giả hữu danh, vô danh sáng tác. Tồn tại cùng kho tàng văn học dân gian là các bộ môn nghệ thuật dân gian khác như múa (các điệu xòe), hát (các điệu khắp), các điệu sáo… Đặc biệt, người Thái trước kia có một hình thức sinh hoạt cộng đồng – sinh hoạt văn nghệ dân gian vô cùng đặc sắc là hạn khuống. Tiểu kết Đặt ra vấn đề nghiên cứu truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam trong bối cảnh văn hóa tộc người, chúng tôi xác định mục tiêu cốt yếu là đưa ra các kiến giải mới về lịch sử, văn hóa của người Thái từ góc độ truyện kể địa danh. Bởi vậy nội dung của chương này chủ yếu tổng quát những vấn đề cốt yếu về lịch sử và văn hóa tộc người làm cơ sở cho những bước khảo sát tiếp theo. Bên cạnh đó, những vấn đề lý thuyết được tổng thuật cũng chính là những công cụ mà chúng tôi sử dụng trong quá trình tiếp cận vấn đề xuyên suốt toàn bộ luận án. Thực tế cho thấy, người Thái đã trải qua một quá trình thiên di- tụ cư – lan tỏa rất lâu dài, tuy vậy họ không những không đánh mất đi những đặc trưng văn hóa mà
  12. 9 đến mỗi nơi đều bằng những cách thức riêng để gieo hạt mầm ấy, khiến chúng sinh sôi nảy nở trên những vùng đất mới từ đó hình thành nên một không gian văn hóa riêng, mang đậm màu sắc đặc trưng. Việc nghiên cứu truyện kể dân gian nói chung và truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam nói riêng trong bối cảnh văn hóa tộc người là công việc nhằm nỗ lực đưa truyện kể trở về với cái nôi sinh của nó là nền văn hóa đa dạng, nhiều màu vẻ, khắc phục phần nào lối phân tích văn bản đơn thuần, “bứng rễ” sáng tác dân gian ra khỏi môi trường của nó. Việc làm này đương nhiên đòi hỏi rất nhiều những nỗ lực công phu và nghiêm túc mà trong điều kiện hiện tại nghiên cứu này chưa thể đáp ứng trọn vẹn. Những định hướng lý thuyết trình bày trên đây có thể cũng chưa phải là những giải pháp tối ưu để tiếp cận vấn đề, tuy vậy chúng tôi vẫn tạm đặt ra như một thử nghiệm cho vấn đề đang đặt ra. CHƯƠNG 2 TRUYỆN KỂ ĐIA ̣ DANH CỦA NGƯỜI THÁI Ở VIỆT NAM: KHÁI NIỆM, THỂ LOẠI VÀ NỘI DUNG 2.1. Về khái niệm truyện kể địa danh Chúng tôi quan niệm truyện kể địa danh là nhóm truyện kể dân gian bao gồm tất cả những truyện có yếu tố giải thích tên gọi của các sự vật tự nhiên (như đồi, núi, sông, hồ, gò, đầm…) và những điểm dân cư (như làng, bản, thôn, xóm..) hoặc những công trình liên quan trực tiếp đến đời sống, sản xuất của nhân dân (như mương, phai, kênh, ruộng…) mà tên gọi đã được xác định cụ thể. Theo cách hiểu trên, trong kho tàng truyện kể dân gian dân tộc Thái, những truyện kể có yếu tố giải thích tên gọi của các sự vật tự nhiên ( đồi, núi, dốc, đèo, sông, hồ, gò, đầm…) và những điểm dân cư ( mường, bản...) hoặc những công trình liên quan trực tiếp đến đời sống, sản xuất của nhân dân ( mương, phai, mó, ruộng…) mà tên gọi đã được xác định trên các vùng lãnh thổ Việt Nam có dân cư Thái sinh sống được coi là truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam. Những truyện kể này chúng tôi tuyển chọn từ các công trình đã xuất bản kết hợp với nguồn tưu liệu điền dã và xếp chung trong một tập hợp. Đó cũng là cơ sở để tiến hành khảo sát các phương diện của truyện kể cũng như tìm về với cội nguồn của văn hóa tộc người phía sau những lời thì thầm kể chuyện của dân gian.
  13. 10 2.2. Thống kê, phân loại truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam Sau quá trình điền dã, sưu tầm và tuyển chọn tư liệu truyện kể, đến thời điểm hiện tại, số lượng truyện chúng tôi tập hợp được là 116 đơn vị trong đó 31/116 truyện do tác giả sưu tầm mới tại các vùng có cư dân Thái sinh sống. So với công trình trước đây, số lượng truyện kể đã được bổ sung thêm 60 truyện bao gồm cả tư liệu điền dã và tư liệu thu thập được từ các công trình đã xuất bản. Số lượng này đương nhiên mới phản ánh một phần nào kho tàng truyện kể địa danh vô cùng phong phú của tộc người. 2.3. Các phương diện nội dung của truyện kể địa danh Thái 2.3.1. Truyện kể ddiajd anh và vũ trụ quan, thế giới quan của tộc người Mọi tộc người trên thế giới khi bắt đầu biết tư duy đều có cùng một câu hỏi về sự khởi đầu của vũ trụ, vạn vật và của chính bản thân họ. Và đáp án đầu tiên cho câu hỏi ấy chính là thần thoại sáng thế. Đó là cũng lý do vì sao ngày nay nhân loại còn lưu giữ được vô vàn những thần thoại của các tộc người ở khắp các châu lục kể về sự hình thành của vũ trụ và con người. Người Thái không nằm ngoài số đó. Thần thoại cho thấy cách thức mà họ hình dung về sự ra đời của vũ trụ mà trong đó con người là tring tâm. Các yếu tố địa danh xuất hiện trong truyện kể giống như mắt xích nối thế giới tưởng tượng của thần thoại với thế giới hiện thực. Điều này cũng phần nào bộc lộ ý thức của tộc người trong việc khẳng định quyền sở hữu đối với đất đai, sông núi thông qua việc mượn vai trò của các vị thần linh, những người khổng lồ xuất hiện trong truyện cổ. 2.3.2. Truyện kể địa danh và lịch sử tộc người Từ góc đô ̣ truyê ̣n kể , kho tàng truyê ̣n kể địa danh không cung cấp thông tin nào về lớp cư dân cổ nói trên nhưng về những cư dân đến sau (so với những chủ nhân cũ – các tộc người Môn - Khơ me) thì có khá nhiều chi tiết thú vị. Đó là những câu chuyê ̣n giải thích nguồn gốc các địa danh thuộc hầ u hế t các điạ bàn có cư dân Thái sinh số ng thông qua hai phương diê ̣n: (1) quá trı̀nh thiên di của tô ̣c người và truyê ̣n kể về những cuộc chiến tranh giành đất, (2) quá trı̀nh đấ u tranh xây dựng, bảo vê ̣ bản mường và truyê ̣n kể về những cuộc chiến tranh giữ đất. 2.3.3. Truyện kể địa danh và những khát vọng nhân sinh Trong tập hợp truyện kể địa danh Thái, truyện cổ tích có số lượng phong phú nhất. Nội dung truyện nổi lên mấy chủ đề lớn, đó là chủ đề đấu tranh cải tạo thiên
  14. 11 nhiên, bảo vệ và xây dựng bản mường; chủ đề tình yêu và hôn nhân; chủ đề phản ánh mâu thuẫn xã hội. Những nội dung trên đan cài trong các câu chuyện, qua đó ta cũng thấy được phần nào bộ mặt xã hội Thái, những tư tưởng, tình cảm, quan điểm và cả những phong tục, luật tục… của người Thái trong thời đại cổ tích. Tiểu kết Những thống kê về số lượng truyện kể cũng như quá trình phân loại cho thấy truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam có một số lượng phong phú. Con số này chưa dừng lại bởi trên thực tế, còn nhiều vùng đất mà người sưu tầm chưa đặt chân tới, nhiều câu chuyện chưa được ghi lại. Với tư duy phong phú cùng quá trình lịch sử lâu đời dựng xây mường bản, mỗi địa danh trên các cùng đất Thái đều hứa hẹn chứa đựng những câu chuyện thú vị. Những truyện kể này tùy theo đặc trưng nghệ thuật nội tại mà thuộc về thể loại thần thoại, truyền thuyết hay cổ tích, tuy nhiên địa danh vẫn là yếu tố trung tâm làm nên sợi dây gắn kết giữa ý niệm về tự nhiên – xã hội ẩn chứa trong truyện kể với cuộc sống của người dân. Đối với tập hợp truyện kể đã được thống kê, địa danh ra đời trong thần thoại cho thấy sự hình dung của người Thái về mô hình trong buổi đầu khai thiên lập địa; địa danh trong truyền thuyết là sự “đánh dấu lãnh thổ” sau mỗi cuộc chiến tranh giành, giữ bản mường thì địa danh ra đời trong những câu chuyện cổ tích lại chủ yếu mang nội dung xã hội. Nói như tác giả Trần Thị An, “mỗi địa danh đều mang chở trong mình những câu chuyện nhân sinh, chất chứa bao tình cảm, thái độ của nhân dân trước những vấn đề xã hội”[2]. Ý nghĩa của các địa danh trong thần thoại, cổ tích hay truyền thuyết cũng là điểm làm nên tính độc lập tương đối của truyện kể địa danh so với các thể tài truyện kể dân gian khác, khẳng định giá trị của việc khu biệt nhóm truyện kể này trong kho tàng truyện kể dân gian. Nhìn tổng thể tấm “bản đồ” địa danh mà người Thái vẽ nên qua những câu chuyện có thể hình dung phần nào con đường cũng như cách thức mà người Thái gieo những hạt mầm văn hóa trên những vùng miền họ đã đi qua để dần mình thành nên một địa vực mang màu sắc riêng, có thể gọi bằng cái tên “vùng Thái”
  15. 12 CHƯƠNG 3 BIỂU TƯỢNG VÀ CỐT TRUYỆN TRONG TRUYỆN KỂ ĐỊA DANH CỦA NGƯỜI THÁI Ở VIỆT NAM Ngoài việc được biết đến là tộc người có lịch sử cư trú lâu đời trên một địa bàn phân bố rộng từ hầu khắp vùng Tây Bắc kéo xuống tận miền núi phía Tây Thanh – Nghệ, người Thái còn là một trong số ít tộc thiểu số có mật độ cư trú khá dày đặc. Xen giữa những địa hình núi cao của các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Yên Bái, Hòa Bình xuôi xuống miền trung, dọc các con sông lớn như Nặm Rốm, Nặm Tè, Nặm Má, Nặm Pao … và các chi lưu của nó; men những con suối có độ dốc lớn và lắm thác ghềnh; hễ nơi đâu có thung lũng phì nhiêu hay cao nguyên màu mỡ có thể đắp mương phai, làm lái lịn, biến chốn hoang vu thành thành ruộng bậc thang, nơi đó có người Thái. Với đặc trưng cư trú rộng khắp và nền văn hóa giàu có được phát triển trong lịch sử lâu dài, các biểu tượng được hình thành dày đặc trong tư duy tộc người và thể hiện ở nhiều lĩnh vực trong đó có truyện kể dân gian. Với kho tàng truyện kể địa danh, sự gắn kết giữa biểu tượng với các yếu tố địa danh lại thêm một lần nữa tạo nên các lớp nghĩa chồng lấn giúp cho văn hóa Thái tộc vốn đã phong phú lại có thêm những chiều kích bề sâu. Nghiên cứu về biểu tượng trong văn hóa các tộc người thiểu số ở Việt Nam nói chung và người Thái nói riêng từ lâu đã không còn xa lạ, thậm chí có những biểu tượng đã trở thành đối tượng của những nghiên cứu công phu [103]. Mặc dầu vậy trong nghiên cứu này, chúng tôi vẫn muốn tìm ra những vỉa tầng ý nghĩa mới, những mối dây liên hệ giữa các biểu tượng mang tính tâm linh của tộc người với yếu tố làm nên đặc trưng của nhóm truyện kể là các địa danh. Cụ thể, trong điều kiện thời gian và tư liệu còn hạn chế, chúng tôi chọn khảo sát ba biểu tượng xuất hiện dày đặc nhất trong toàn bộ tập hợp 116 truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam là biểu tượng nước, biểu tượng núi và biểu tượng nỏ. 3.1. Cốt truyện trong truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam 3.1.1. Cốt truyện thần thoại Đọc thần thoại địa danh Thái dễ thấy một đặc điểm là cấu tạo cốt truyện khá đơn giản xoay quanh sự hình thành của vạn vật và con người. Khó để hình dung trong những thần thoại như Ải Lậc Cậc, Người khổng lồ Pu Té, Các làng bản vùng Sơn
  16. 13 La… đâu là phần mở đầu và đâu là kết thúc của câu chuyện. Sở dĩ có hiện tượng này một phần vì các thần thoại Thái ngày nay ta còn biết được có lẽ chỉ là những mảnh vỡ của một thiên thần thoại xa xưa. Thần thoại về sự hình thành của giới loài người theo đó có thể hình dung gồm ba “lớp” hay chính là ba lần Then - đấng tối cao của người Thái - gây dựng trần gian. Lần thứ nhất được kể khá thống nhất trong các câu chuyện, đó là khi “mặt đất còn hoang vu, Then mới sai năm chúa Xô Công xuống xây dựng trần gian” tạo ra đồi núi, cây cối, sông ngòi, vạn vật rồi sai đem “10 giống Thái, 5 giống Xá” xuống ở trần gian (Truyện Ải Lậc Cậc, truyện Khun Bó Rồm). Tuy thế, bởi ở lần kiến tạo này con người ăn ở không tốt khiến Then nổi giận nên làm ra hạn hán thiêu đốt khiến cây cỏ chết khô. Tiếp đó, Then lại làm ra hồng thủy khủng khiếp làm ngập lụt thế gian, san bằng mọi thành quả của công cuộc kiến tạo lần thứ nhất. Lần thứ hai, Then cho vợ chồng khổng lồ Ải Lậc Cậc xuống trần gian tạo ra những vùng đất đai trù phú, tạo ra bốn cánh đồng lớn lần lượt là “nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc” như ngày nay. Nhưng rồi con người vẫn không làm vừa lòng Then, Then lại cho làm mưa khiến con người chết hết, mặt đất lại hoang vu. Lần thứ 3 khi những thủ lĩnh Khun Bó Rồm hay Tạo Xuông, Tạo Ngần (đều được kể là người của Then) được cử xuống trần gian mang theo những giáo mác đồng, những quả bầu thiêng chứa hạt giống nhân gian. Từ quả bầu thiêng ấy, con người được sinh ra. Các vị thủ lĩnh lại dạy con người biết ăn biết ở, biết đắp ruộng làm nương, làm nhà dựng cửa và sinh xôi nảy nở mãi ra. 3.1.2. Cốt truyện truyền thuyết Nếu như trong những câu chuyện thần thoại, nội dung giải thích thế giới, giải thích sự xuất hiện của vạn vật và con người chiếm ưu thế thì truyền thuyết hướng tới sự thiêng liêng hóa bộ lạc, chủ yếu xoay quanh những cuộc chiến mở rộng và bảo vệ lãnh thổ mà nhân vật trung tâm là những anh hùng của bộ lạc. Bên cạnh đó, truyền thuyết địa danh còn đề cập đến một nội dung khác đó chính là nội dung giải thích địa danh. Cốt truyện của những truyền thuyết này vì thế cũng phân thành hai dạng: dạng thứ nhất xoay quanh những người có công với cộng đồng; dạng thứ hai chỉ chủ yếu xoay quanh việc hình thành địa danh mà không đề cập đến nhân vật nào cụ thể. Trước hết, xét trong số những truyền thuyết mà chúng tôi tập hợp được có 22 truyền thuyết về các vị anh hùng, có những người mang tên tuổi cụ thể như Lạng
  17. 14 Chượng, Pha Nha Nhọt Chọm Khăm, Lê Lợi...; có những người có tên nhưng cũng chỉ là tên gọi phiếm chỉ như nàng Han (trong tiếng Thái, “han” có nghĩa là “tài giỏi”), ông quan Cuông, chàng trai tài giỏi, Tạo Mường Trong 36 truyền thuyết thuần túy lý giải địa danh, sự chi phối của mục đích kể chuyện đã khiến cốt truyện chủ yếu xoay quanh việc lý giải sự hình thành địa danh với hai phần: phần trước kể một sự việc hoặc một nguyên nhân, phần sau là kết quả của sự việc hoặc nguyên nhân đó (chính là sự hình thành địa danh). 3.1.3. Cốt truyện của truyện cổ tích địa danh Thái Trong số hơn 100 truyện kể đã tập hợp được, ngoại trừ 11 thần thoại và hơn 58 truyền thuyết, phần còn lại là những câu chuyện cổ tích mang chở những tâm tư, tình cảm của cộng đồng người Thái, bên cạnh đó có những chi tiết lý giải các địa danh liên quan. Bảng Phụ lục 6 tóm tắt cốt truyện của hơn 40 câu chuyện cổ tích, qua đó có thể thấy dù các truyện kể có dung lượng dài ngắn khác nhau nhưng thống nhất ở chỗ hệ thống cốt truyện đã tương đối phát triển theo trình tự có khởi đầu, phát sinh mâu thuẫn, phát triển cao trào và giải quyết mâu thuẫn (kết thúc). Một số truyện kể có số lượng nhân vật tương đối phong phú với tính chất hành động đa dạng. Men theo cốt truyện, khởi đầu luôn là phần trình bày cho thấy bối cảnh của nhân vật cũng như những tiền đề dẫn tới sự phát sinh mâu thuẫn trong đó nhân vật thường xuất thân từ một bản hay một mường cụ thể. Đây cũng là đặc trưng hết sức thú vị của truyện cổ tích địa danh Thái bởi không gian để nhân vật xuất hiện là không gian thực, một bản mường đã được định danh mà thậm chí cho đến ngày nay những địa danh đó vẫn còn tồn tại. 3.2. Các biểu tượng tiêu biểu trong truyện kể địa danh Thái 3.2.1. Biểu tượng nước Nế u với các tô ̣c người Tây Nguyên, rừng gắ n bó với đời số ng cư dân, rừng nuôi số ng ho ̣ và rừng ám ảnh ho ̣, “rừng phủ kı́n phầ n lớn khu vực số ng của cư dân bản đia,̣ chiế m vi ̣ trı́ trung tâm của vùng đấ t này. Rừng có mă ̣t khắ p nơi trong làng, ngoài rẫy (…) Rừng không chı̉ là lañ h điạ của các loài thảo mô ̣c và muông thú đáng nga ̣i đấ y còn là nơi cư trú đă ̣c biê ̣t của các Yang cũng như cây cố i và hổ [73,11], thı̀ với người Thái, nước la ̣i là không gian gắ n bó và nhiề u sức gợi. Không phải ngẫu nhiên mà Georges Coedes vı́ ho ̣ với sư ̣ uyể n chuyể n, biế n hóa khôn lường của nước. Tầm quan trọng của
  18. 15 nước đối với đời sống của người Thái thể hiện qua những lớp nghĩa phong phú của biểu tượng mà nhìn từ góc độ truyện kể địa danh càng bộc lộ thêm nhiều nét thú vị. Các địa danh liên quan đến nước cùng những truyện kể về nó cũng cho thấy cách thức mà tộc người mang sức mạnh tiềm ẩn dần dần khẳng định sự tồn tại cũng như khả năng thẩm thấu, dung hợp văn hóa ở những nơi mà họ đặt chân đến. 3.2.2. Biểu tượng núi Có một điều thú vị là, trong khi cuộc sống của người Thái tưởng như gắn liền với nước, thì núi – yếu tố mang tính dương – cũng xuất hiện như một biểu tượng song trùng. Trong truyện kể của mình, người Thái luôn chú trọng giải thích nguyên do việc hình thành tên gọi của núi non, đất đai, làng bản. Những ngọn núi bao quanh thung lũng, chiếm vị trí quan trọng trong đời sống vật chất và tâm linh của cộng đồng, vì thế cũng thường xuyên được quan tâm, kể chuyện và lý giải về tên gọi. Nếu như “một “biểu tượng” là một thứ được nhất trí chung xem như là điển hình hóa một cách tự nhiên, hoặc biểu trưng hay hồi tưởng về một cái gì đó bởi chúng sở hữu các tính chất giống nhau, hay bởi mối quan hệ trong thực tế hoặc tư duy” [127, 145] thì núi trong truyện kể địa danh của người Thái mang rất nhiều giá trị biểu trưng do có mối quan hệ cả trên thực tế lẫn trong tư duy tộc người. Nó xứng đáng là một biểu tượng tiêu biểu của văn hóa Thái nói chung và kho tàng truyện kể địa danh nói riêng. 3.1.3 . Biểu tượng nỏ Người Thái là cư dân lúa nước, tuy thế trong đời sống của họ, nguồn thịt quan trọng được cung cấp nhờ săn bắn (chứ không phải chăn nuôi), và bởi vậy trong xã hội Thái, những người đàn ông giỏi săn bắn rất được coi trọng. Có lẽ bởi lý do này mà trong tập hợp truyện kể địa danh có rất nhiều câu chuyện kể về những người đàn ông giỏi dùng tên nỏ. Những nhân vật như nai phan – người đứng đầu phường săn - trong truyện Tạo Mường Phe và bản Na Tòong, ông Pú Quán Muôp (truyện Pú Quán Muôp), người đàn ông trong Sự tích bản Tà… đều là những người có tài dùng nỏ và săn bắn. Có thể nói, hình ảnh chiếc nỏ gắn liền với hình ảnh người anh hùng, góp phần kiến tạo nên phẩm chất của họ, và bởi thế, bản thân nó trở thành một biểu tượng đa nghĩa.
  19. 16 Trên những hành trình tìm kiếm vùng đất mới, trong lao động sản xuất, và cả trong những cuộc chiến chống lại kẻ thù, chiếc nỏ từ chỗ là vũ khí đã tham gia vào các sự kiện lịch sử, xã hội của tộc người mà trở thành biểu tượng. Với người Thái, nỏ luôn là hình ảnh tượng trưng cho sức mạnh chinh phục, cho sự mưu lược và khôn ngoan. Tiểu kết: Ba biểu tượng nỏ, núi và nước chưa phải là tất cả những biểu tượng tiêu biểu xuất hiện trong truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam, mặc dầu vậy sự khảo sát với ba biểu tượng này cũng cho thấy phần nào sự phong phú của văn hóa tộc người. Những lớp nghĩa của biểu tượng không phải là yếu tố tĩnh tại và đóng kín, chúng được hình thành, di truyền và trương nở trong quá trình người Thái cũng như bất cứ tộc người nào duy trì vô vàn các mối quan hệ xã hội với cộng đồng trong/ngoài mường bản, với nội tộc, ngoại tộc, với tự nhiên và xã hội, để biểu hiện một nhu cầu tự nhiên là khẳng định và khuếch trương văn hóa. Họ sử dụng các cách thức khác nhau để phóng chiếu nghĩa của biểu tượng (tức là những hạt nhân văn hóa của cộng đồng) lên các thực thể nhằm khẳng định chính mình đồng thời thể hiện sự ảnh hưởng với những cộng đồng giao tiếp khác. Với người Thái, bên cạnh việc xây đền, thờ phụng núi non, bỏ nhiều công lao để chinh phục mường nước/dòng nước phục vụ cho mường bản; dùng cây nỏ và mũi tên để chiếm lĩnh/bảo vệ đất đai… thì kể chuyện cũng là một cách thức để phóng chiếu văn hóa. Hầu như đến bất cứ bản làng Thái nào, người thăm hỏi cũng sẽ được nghe những câu chuyện về tên gọi núi sông, mường bản. Truyện địa danh Thái nói chung với hệ thống biểu tượng phong phú vì thế vượt ra ngoài ý nghĩa tự thân của nó, thuộc về giấc mơ mang tính cộng đồng với sức mạnh của một “trận lụt" mang tên Phủ Táy
  20. 17 CHƯƠNG 4 KHÔNG GIAN XÃ HỘI TRONG TRUYỆN KỂ ĐỊA DANH CỦA NGƯỜI THÁI Ở VIỆT NAM 4.1. Mối liên hệ với các hình thức không gian, thời gian và môi trường 4.1.1. Các mối liên hệ với không gian, thời gian Nhận xét về người Thái, G. Coedes từng viết, “Từ “lu ̣t” có le ̃ hơ ̣p với tiế n trı̀nh phát triể n của người Thái, bởi vı̀ ho ̣ cũng uyể n chuyể n khôn lường như nước, cũng len lỏi với mô ̣t sức ma ̣nh khôn lường như thế , cũng mang màu sắ c của mo ̣i bầ u trời và hı̀nh da ̣ng của mo ̣i bờ bế n, thế nhưng, dưới các dáng vẻ bề ngoài khác nhau, ho ̣ vẫn gı̀n giữ đươ ̣c cái bản sắ c chủ yế u và ngôn ngữ của dân tô ̣c mı̀nh” [33,234] Có mô ̣t thực tế là “cơn lu ̣t” Thái tràn đế n đâu, nơi đó đề u để la ̣i dấ u vế t, mà dễ thấ y nhấ t là những tên sông, tên núi, tên làng bản ruô ̣ng nương mang đâ ̣m dấ u ấ n tô ̣c người. Xét từ góc đô ̣ folklore ngôn từ, các tên go ̣i này thể hiê ̣n trong hàng loa ̣t truyện kể có yếu tố giải thích tên gọi của các sự vật tự nhiên (đồi, núi, dốc, đèo, sông, suố i, thác ghề nh…) và những điểm dân cư (mường, bản...) hoặc những công trình liên quan trực tiếp đến đời sống, sản xuất của tô ̣c người (mương, phai, mó, ruộng…) mà trong nghiên cứu này chúng tôi quan niê ̣m là truyê ̣n kể điạ danh. Đây giố ng như tiề n đề cho phép nghiên cứu xuấ t phát từ mô ̣t bô ̣ phâ ̣n sáng tác ngôn từ dân gian để tım ̀ hiể u những mố i quan hê ̣ xã hô ̣i tô ̣c người, hướng tới làm sáng tỏ tıń h cố kế t cô ̣ng đồ ng, thứ cơ hồ có thể đưa ra mô ̣t phương thức đoán đinh, ̣ mô ̣t gơ ̣i ý cho câu hỏi: vı̀ sao người Thái vẫn giữ đươ ̣c “bản sắ c chủ yế u và ngôn ngữ của dân tô ̣c mı̀nh”? Qua truyện kể địa danh, có thể thấy người Thái đã định hình cho mình một bản đồ cư trú khá rõ nét mà biên giới của nó được vạch ra bởi những mốc không gian theo cả hai chiều hiện thực và tâm linh. Bằng cách ấy, ý thức về cái “của chúng tôi” được xác lập, nó có ý nghĩa trước hết với bản thân tộc người đồng thời cũng là một cách “tuyên ngôn” với những cộng đồng khác tộc. 4.1.2. Các mối quan hệ với môi trường Trong không gian đươ ̣c “cắ m mố c” xác đinh, ̣ tô ̣c người tiế n hành những hoa ̣t đô ̣ng vâ ̣t chấ t (đánh bắ t, gieo trồ ng, mă ̣c, ở và ăn…). Như vậy, cách thức tác động riêng tới môi trường sống cũng là mô ̣t nét cấ u thành không gian xã hô ̣i tô ̣c người và phân biệt với mối quan hệ không gian. Nếu như dạng quan hệ trên cho biết cách thức
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2