intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Nhân học: Quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình (Nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn)

Chia sẻ: Dangthingocthuy Dangthingocthuy | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:30

58
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án thực hiện nghiên cứu nhằm hướng đến các mục tiêu: tìm hiểu cấu trúc quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn; xem xét chức năng của quan hệ dòng họ đối với đời sống cá nhân, gia đình và sự liên kết cộng đồng tộc người hiện nay; tìm hiểu vai trò của quan hệ dòng họ và đề xuất khuyến nghị nhằm phát huy yếu tố tích cực, giảm thiểu yếu tố tiêu cực của quan hệ dòng họ ở người Nùng Phàn Slình trong xây dựng nông thôn mới. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Nhân học: Quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình (Nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn)

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XàHỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XàHỘI LÊ MINH ANH QUAN HỆ DÒNG HỌ  CỦA NGƯỜI NÙNG PHÀN SLÌNH (Nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn) TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH NHÂN HỌC  Mã số: 62 31 03 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC 1: PGS.TS.VƯƠNG XUÂN TÌNH NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC 2:  TS. TRẦN VĂN HÀ
  2. Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN KHOA HỌC XàHỘI VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XàHỘI VIỆT NAM Tập   thể   hướng   dẫn   khoa   học:   1.   PGS.TS.VƯƠNG   XUÂN   TÌNH                                                    2. TS. TRẦN VĂN HÀ Người phản biện 1:PGS.TS. Nguyễn Văn Chính Người phản biện 2:PGS.TS. Nguyễn Duy Bính Người phản biện 3:PGS.TS. Nguyễn Duy Thiệu Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện,  họp tại: Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam Số 477 đường Nguyễn Trãi, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội Vào hồi………………… Ngày……..tháng……năm 2014 Có thể tìm luận án này tại:
  3. DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐàCÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 1. Vấn đề  nghèo đói của người Khơ  Mú  ở  bản Cha, xã Chiềng Lương,   huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, Tạp chí Dân tộc học số  2 năm 2006, tr.  45­50. 2. Vài nét về tình trạng đói nghèo của người Nùng ở xã Liên Sơn, huyện  Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn, Tạp chí Xã hội học số 1 năm 2006, tr. 77­ 82. 3. Vài nét về  hôn nhân hỗn hợp  ở một xã miền núi Bắc Việt Nam (Viết   chung với Nguyễn Thị  Thu), Tạp chí  Khoa học về  phụ  nữ  số  3 năm  2006, tr. 36­43. 4. Biến đổi tập quán ăn uống của người Dao Thanh Phán  ở  Tân Dân,  huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh. (Viết chung với TS. Trần Văn Hà),  Tạp chí Dân tộc học số 2 năm 2007, 43­ 52. 5. Infuence of Socio – Cultural Factors on Food Security of the Tho People   (A case Study of Ke Mui Village, Giai Xuan Commune, Tan Ky District,   Nge An Province)  (Viết chung với TS. Trần Văn Hà),  Anthropology  Review No.2 (9) ­ 2006, page. 68 ­ 88. 6. The   Transfofmation   of   Rituals   in   Two   Mien   Villages   in   Nothreast  VietNam   (viết   chung   với   TS.   Trần   Văn   Hà).   Trong:   "   Living   in   a  Globlized World Ethnic Minorities in the Greater Mekong Subregion”,  Mekong Press. 2008. 7. Đám ma truyền thống của người Cao Lan  ở Lập Thạch, Phú Thọ, Văn  Hóa Nghệ Thuật, số 294, tháng10 năm 2008, tr. 87 ­ 90. 8. Lễ  cưới truyền thống của người Cao Lan, Văn Hóa Nghệ  Thuật, số  303, tháng 9 năm 2009, tr. 73 ­75. 9. Hôn nhân truyền thống của người Nùng Phàn Slình, Văn hóa Nghệ  thuật, số 327, tháng 9 năm 2011, tr. 21 ­ 26. 10. Tín ngưỡng thờ cúng của người Nùng Phàn Slình ở vùng cao biên giới  (Nghiên cứu  ở  huyện Cao Lộc, Tỉnh Lạng Sơn),  Nghiên cứu  Đông  Nam Á, số 6 (147), năm 2012, tr. 49 ­ 57. 11. Tương trợ cộng đồng trong cưới xin và tang ma của người Nùng Phàn  Slình  ở  huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, Tạp chí Dân tộc học, số  5&6   (179), năm 2012, tr. 35 ­ 45.
  4. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghiên cứu về  dòng họ  và quan hệ  dòng họ  trong xã hội Việt Nam truyền   thống và đương đại từ  lâu đã thu hút sự  quan tâm của giới nghiên cứu thuộc   nhiều lĩnh vực sử học, dân tộc học/nhân học, xã hội học, văn hoá học,... Nghiên   cứu về dòng họ và quan hệ dòng họ góp phần tạo cơ sở khoa học cho việc xây  dựng những chính sách thiết thực  đối với vấn đề  phát triển  nông thôn ­ nông  nghiệp ­ nông dân nước ta trong bối cảnh đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,  hiện đại hoá. Trong quá trình đổi mới và hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ ở Việt  Nam hiện nay, vai trò và chức năng của quan hệ dòng họ ở cả người Kinh (Việt) và   các tộc người thiểu số cũng đang có một số đổi thay. Sự thay đổi này được biểu hiện   ở liên kết dòng họ, cơ chế vận hành trong các tổ chức dòng họ. Tuy nhiên, vai trò của  quan hệ dòng họ trong đời sống xã hội vẫn rất quan trọng, cần tiếp tục quan tâm  nghiên cứu.  Luận án này lấy quan hệ dòng họ của người Nùng ở Việt Nam là đối tượng  nghiên cứu. Người Nùng sinh sống chủ yếu tại các tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn,   gồm nhiều nhóm địa phương, mỗi nhóm có đặc điểm văn hóa riêng, nên việc  nghiên cứu quan hệ  dòng họ  của người Nùng nói chung trong luận án là điều  khó có thể thực hiện. Bởi vậy, chúng tôi chỉ lựa chọn một nhóm địa phương của   người Nùng trong địa bàn một huyện để  khảo sát ­ nhóm Nùng Phàn Slình  ở  huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Đây là nhóm Nùng có dân số  đông nhất trong  các nhóm Nùng của huyện, cư  trú chủ  yếu  ở  các xã vùng biên và có quan hệ  dòng họ xuyên biên giới. Xuất phát từ  lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Quan  hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình (Nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, tỉnh  Lạng Sơn)” làm đề tài luận án tiến sĩ nhân học  của mình.  2. Mục tiêu nghiên cứu Một là, tìm hiểu cấu trúc quan hệ  dòng họ  của người Nùng Phàn Slình  ở  huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn; Hai là, xem xét chức năng của quan hệ  dòng họ  đối với đời sống cá nhân,  gia đình và sự liên kết cộng đồng tộc người hiện nay; Ba là, tìm hiểu vai trò của quan hệ dòng họ và đề xuất khuyến nghị nhằm phát  huy yếu tố  tích cực, giảm thiểu yếu tố  tiêu cực của quan hệ  dòng họ  ở  người  Nùng Phàn Slình trong xây dựng nông thôn mới. 3. Đối tượng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu những hoạt động liên quan đến quan hệ dòng họ  và mối quan hệ của cá nhân, gia đình ­ dòng họ  trong các lĩnh vực: tín ngưỡng,  tương trợ, hợp tác kinh tế, giáo dục, văn hóa… 
  5. Tập trung nghiên cứu mối quan hệ  dòng họ  của người Nùng Phàn Slình  ở  huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đang diễn ra hiện nay và trong một số  trường   hợp, có so sánh với thời kỳ trước khi tiến hành công cuộc Đổi mới (1986). Địa bàn nghiên cứu là người Nùng Phàn Slình ở xã Gia Cát, xã Thụy Hùng và  xã Thanh Lòa của huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.  4. Nguồn tài liệu của luận án ­ Nguồn tài liệu chủ yếu của luận án là từ tài liệu điền dã do chính nghiên cứu  sinh thu thập tại thực địa các điểm nghiên cứu trong suốt thời gian từ năm 2007 ­   2013. ­ Tài liệu báo cáo của các ban, ngành ở cấp tỉnh, huyện, xã.  ­ Kế  thừa các nguồn tài liệu đã công bố  về  dòng họ  và quan hệ  dòng họ,  đặc biệt là những công trình công bố  về  dân tộc Nùng và nhóm Nùng Phàn   Slình của các học giả trong và ngoài nước từ trước đến nay.  5. Đóng góp của luận án  ­ Trên cơ  sở  nghiên cứu ba chiều của quan hệ  dòng họ, luận án trình bày   một cách toàn diện về  cấu trúc và mối quan hệ  dòng họ  người Nùng Phàn  Slình  ở  huyện vùng cao biên giới tỉnh Lạng Sơn trong bối cảnh công nghiệp  hóa, hiện đại hóa và hội nhập của nước ta;  ­ Góp phần làm rõ vai trò, ảnh hưởng của quan hệ dòng họ đến phát triển kinh  tế  ­ xã hội và quan hệ  tộc người của người Nùng Phàn Slình tại địa bàn nghiên  cứu; ­ Xây dựng cơ sở khoa học và bước đầu đưa ra khuyến nghị nhằm phát huy   yếu tố  tích cực, giảm thiểu yếu tố  tiêu cực của quan hệ  dòng họ   ở  người  Nùng Phàn Slình trong xây dựng nông thôn mới hiện nay.   6. Bố cục luận án Luận án ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, phần   nội dung chính được trình bày trong 6 chương: Chương 1: Tổng quan tài liệu, cơ sở lý thuyết, phương pháp và khái quát địa bàn  nghiên cứu. Chương 2: Dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc Chương 3: Quan hệ dòng họ trong đời sống tín ngưỡng Chương 4: Quan hệ dòng họ trong hoạt động kinh tế và tương trợ Chương 5: Quan hệ dòng họ với hệ thống chính trị cơ sở Chương 6: Kết quả và bàn luận. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT, PHƯƠNG PHÁP VÀ KHÁI QUÁT ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan nghiên cứu về quan hệ dòng họ
  6. 1.1.1. Các nghiên cứu về quan hệ dòng họ trên thế giới và quan hệ dòng họ   của người Kinh (Việt) Nghiên cứu dòng họ là nền tảng cơ bản để tìm hiểu về quan hệ xã hội của tộc   người trong bất cứ xã hội nào, vì vậy đã có nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài như  Maine, McLennan và Morgan, Lévi­Strauss và Radcliffe­Brown, Grant Evans... Lévi­ Strauss đã xây dựng nên một lý thuyết về cấu trúc thân tộc, trong đó hạt nhân là vấn   đề “lớp hôn nhân”…  Ở  Việt Nam, dòng họ  cũng được đề  cập từ  khá sớm. Thời kỳ  phong kiến,  những ghi chép về dòng họ chủ yếu được tìm thấy trong các thư tịch cổ Trung   Quốc, các bộ  sử  như  Đại Việt sử  ký toàn thư, Khâm định Việt sử  thông giám  cương mục, Đại Nam thực lục... Trước năm 1945, đã xuất hiện nhiều công trình  nghiên cứu có giá trị  tham khảo như  của Phan Kế  Bính, Đào Duy Anh, Pierre   Gourou… Từ năm 1945 đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về dòng họ  từ  góc độ  sử  học và dân tộc học  như  Trần Từ, Trần Quốc Vượng, Phan Đại  Doãn, Đặng Nghiêm Vạn... đề cập đến từ bốn góc độ: Một là, dòng họ người  Việt là quan hệ  huyết thống, có mối quan hệ  tín ngưỡng và kinh tế  nhưng  không cùng chung một ngôi nhà, không ăn chung một bếp và các gia đình duy trì  quan hệ ngang nhau; Hai là, phần lớn các nghiên cứu đều tập trung nghiên cứu  cấu trúc và chức năng của dòng họ, nhất là dòng họ  thuộc bên nội (phụ  hệ);   Ba là, nghiên cứu những yếu tố liên quan đến dòng họ quan hệ lãnh thổ, quan   hệ  nghề  nghiệp, quan hệ tín ngưỡng, thậm chí còn liên quan đến vấn đề  văn  hóa, khoa cử, quyền lực…;  Bốn là,  xu thế  phục hưng dòng họ… Tuy nhiên,  chưa có nhiều công trình đi sâu phân tích sự tác động, ảnh hưởng của các nhân   tố  địa lý tự  nhiên, cơ  sở  kinh tế  ­ xã hội, mặt bằng văn hóa, tín ngưỡng tôn  giáo, sự cố kết dòng họ, dòng họ trong mối quan hệ với quyền lực, vị trí của nó  trong đời sống của cộng đồng cư dân và so sánh những vấn đề đó trong dòng họ  người Kinh (Việt) và các tộc người ở Việt Nam.  1.1.2. Nghiên cứu về quan hệ dòng họ của các tộc người thiểu số ở Việt Nam   và người Nùng Phàn Slình 1.1.2.1. Các công trình chuyên khảo về quan hệ dòng họ  Trong số những công trình nghiên cứu về dòng họ của các dân tộc thiểu số ở  Việt Nam phần lớn tập trung vào các dân tộc có dân số lớn như Tày, Thái, Hmông,  Mường, Ê­đê... Cầm Trọng khi nghiên cứu về người Thái  ở  Tây Bắc đã làm rõ  được mối quan hệ giữa 3 nhóm ải nọng, lúng ta, nhính xao (“ba họ”). Qua các nghiên cứu có thể  thấy rằng,  ở  mỗi một tộc người đều có sự  khác  nhau về tổ chức dòng họ nhưng có vai trò rất lớn trong xã hội truyền thống và  hiện nay  ở các dân tộc thiểu số. Quan hệ dòng họ  đều chi phối đến mọi mặt   đời sống của từng gia đình, từng thành viên cộng đồng cũng như  quá trình tộc  người ở nước ta. 
  7. 1.1.2.2. Nghiên cứu quan hệ  dòng họ  của người Nùng và nhóm Nùng Phàn   Slình   Đến nay công trình nghiên cứu về  quan hệ  dòng họ  của người Nùng Phàn  Slình còn ít  ỏi, chủ  yếu là những nghiên cứu về  tín ngưỡng truyền thống, lễ  nghi, tôn giáo, ngôn ngữ  (Nguyễn Thị  Ngân, 2011), Hoàng Thị  Niên, 2011, Lê  Minh Anh, 2012…Tóm lại, việc nghiên cứu dòng họ  của người Nùng Phàn  Slình ở nước ta còn chưa được quan tâm đúng mức, cả về phương diện lý luận  lẫn  thực  tiễn,  thiếu   vắng   một   công   trình   có   hệ   thống   và   nghiên   cứu   thực   nghiệm về  lĩnh vực này. Đa số  nghiên cứu là những vấn đề  có liên quan như  nghi lễ, tín ngưỡng, tôn giáo, gia đình, lịch sử  tộc người… Vì vậy, trong bối  cảnh   hiện   nay,   những   vấn   đề   liên   quan   đến   quan   hệ   dân   tộc   xuyên   biên   giới/xuyên quốc gia đang đặt ra cho việc xây dựng nông thôn mới, giữ gìn và phát   huy bản sắc văn hóa các dân tộc, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, bảo vệ an  ninh biên giới... những yêu cầu mới, đòi hỏi sự cần thiết phải đi sâu nghiên cứu   hơn nữa vấn đề này. 1.2. Lý thuyết nghiên cứu Trong khuôn khổ của luận án này, chúng tôi áp dụng lý thuyết chức năng của  Bronislaw Malinowsh, Radcliffe ­ Brown và lý thuyết vốn xã hội (Social Capital)   của Na Lin. 1.3. Phương pháp nghiên cứu và khung phân tích 1.3.1. Phương pháp điền dã dân tộc học Điền dã dân tộc học là phương pháp nghiên cứu chủ đạo được triển khai để  thực hiện nghiên cứu này. Đồng thời, thông qua nghiên cứu tham dự, chúng tôi áp  dụng phương pháp phỏng vấn sâu để thu thập dữ liệu định tính. Thảo luận nhóm  cũng được triển khai nhằm thu thập thông tin ở cấp cộng đồng tại 3 điểm nghiên  cứu.  1.3.2. Phương pháp phân tích mạng lưới xã hội Phương pháp phân tích mạng lưới xã hội như là một tập hợp các phương pháp  chọn mẫu, thu thập và xử lý nguồn  dữ liệu.  Các khái niệm và lý thuyết được làm   cơ sở để mô tả và phân tích mối quan hệ giữa các thành viên, vai trò của các thành   viên chủ chốt trong cộng đồng dòng họ (actor trong mạng lưới). Từ đó, tìm hiểu   các quy luật hình thành và biến chuyển của những mối quan hệ đó, và nhất là làm   sáng tỏ những ảnh hưởng của các mối quan hệ xã hội hay cấu trúc mạng lưới đối   với hành vi của các actor.  1.3.3. Phương pháp so sánh  So sánh là một phương pháp quan trọng trong nghiên cứu nhưng không phải   là phương pháp trọng tâm. Luận án sử  dụng phương pháp so sánh nhằm tìm  hiểu sự giống và khác nhau trong mối quan hệ dòng họ ở các điểm nghiên cứu.  1.4. Khung phân tích của luận án 
  8. Thuyết vốn xã hội  Thuyết chức năng của Na Lin Bronislaw Malinowshi  và Radcliffe ­ Brown Quan hệ dòng họ của  Vai trò và chức năng Mạng lưới xã hội người Nùng Phàn Slình Cá nhân: Gia đình: Cộng đồng (thôn bản):  ­ Vị thế ­ Vị thế ­ Cố kết tộc người ­ Nhân cách ­  Giá  trị  tinh  thần/vật  ­ Phân  ly hay  chia  rẽ khối  ­  Giá  trị  tinh  thần/vật  chất đoàn  kết  cộng  đồng  tộc  chất. ­ Giáo dục  người ­ Trao truyền và giữ gìn  ­ Kinh tế ­  Tiếp  biến  và  đa  dạng  giá trị văn hóa của dòng  ­ Trao truyền và giữ gìn  văn hóa họ. giá trị văn hóa của dòng  ­    Tính  cục  bộ  và  yếu  tố  họ. quyền lực địa phương. Tiểu kết Chương 1 Dòng họ  là đối tượng được nhiều lĩnh vực khoa học quan tâm nghiên cứu   như  sử  học, dân tộc học, xã hội học, văn hóa học… Đã có nhiều công trình   nghiên cứu về dòng họ và quan hệ dòng họ của các tộc người thiểu số nhưng   đến nay chưa có công trình chuyên sâu nào về  quan hệ  dòng họ  của người   Nùng nói chung và Nùng Phàn Slình  ở  Cao Lộc, Lạng Sơn nói riêng một cách  có hệ  thống. Để  làm rõ mối quan hệ  dòng họ  của người Nùng Phàn Slình  ở  Cao Lộc, Lạng Sơn, trong luận án này, chúng tôi sử dụng lý thuyết Chức năng   của Bronislaw Malinowski và A.R.Radcliffe ­ Brown và Vốn xã hội của Na Lin.  Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận án là điền dã dân tộc học với các  công cụ như quan sát, quan sát tham dự, phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm. Ngoài ra,   luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như phân tích mạng lưới xã   hội và so sánh, để có thể nhìn nhận đa chiều về quan hệ dòng họ. Đây là nền tảng   để luận án đưa ra được những phân tích, đánh giá một cách hệ thống, khách quan,   khoa học về mối quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình tại huyện Cao Lộc,  tỉnh Lạng Sơn.  CHƯƠNG 2 DÒNG HỌ CỦA NGƯỜI NÙNG PHÀN SLÌNH Ở HUYỆN CAO LỘC 2.1. Quan niệm về dòng họ của người Nùng Phàn Slình
  9. Người Nùng Phàn Slình cùng một họ  đã thân thích đến mười phần mười  (Tồng sinh síp phăn slăm). Người cùng trong họ không chỉ là những người cùng  quan hệ huyết thống mà còn là những người có cùng ma.  Cùng họ tức là cùng  chung một tên họ, còn cùng ma là cùng cách thờ cúng khi tiến hành các nghi lễ  liên quan đến tang ma, cúng ma khi ốm đau bệnh tật và thờ cúng tổ tiên.   Người Nùng Phàn Slình nhận ra họ hàng thông qua hệ thống tên đệm. Mỗi  dòng họ có một hệ thống tên đệm khác nhau. Người Nùng Phàn Slình có tục lệ  đặt tên với đặc điểm riêng biệt, qua tên họ  và tên đệm của từng người trong  dòng họ, sẽ  biết được thứ  bậc của người đó. Một trong những dấu hiệu quan  trọng khác để  nhận biết mối quan hệ dòng họ  đó là nếu  cùng chung số  lượng  chén thờ và cách thức cúng giống nhau có nghĩa là họ cùng chung một ông tổ.  2.2. Người Nùng Phàn Slình với ba mối quan hệ dòng họ Theo quan niệm của người Nùng, những người có quan hệ họ hàng bên bố ­   bên nội là anh trai, em trai, chị gái, em gái và những người cùng dòng họ bên bố.   Những thành viên này có quan hệ  gần gũi về  huyết tộc với họ  bố  trên cơ  sở  chung cha, chung mẹ và cùng tổ tiên nhưng trên thực tế, tại ba điểm nghiên cứu   cho thấy mối quan hệ nghiêng về phía là anh em trai của bố, còn chị em gái của  bố có phần không gần gũi bằng. Những người có quan hệ với họ bên mẹ  ­ bên ngoại là anh trai, em trai, chị  gái, em gái và những thành viên gần gũi khác có quan hệ huyết tộc về phía mẹ.  Những người có quan hệ họ hàng bên vợ là những người có quan hệ gần gũi  về dòng máu với bố vợ như chú vợ [em trai của bố], bác vợ  [anh trai của bố]   và mẹ vợ như anh em trai của mẹ vợ, chị em gái của mẹ vợ.  Mỗi người Nùng Phàn Slình khi có vợ/chồng đều có ba mối quan hệ  họ  hàng là họ bố, mẹ, vợ/chồng; trong đó họ nội ­ họ bố có quyền lực và nghĩa vụ  chủ yếu đối với cháu nội; ngược lại, họ ngoại không có nhiều quyền lực đối  với cháu ngoại. Tuy vậy, mối quan hệ giữa họ nội, họ ngo ại và họ  vợ  vẫn là  những mối quan hệ bao giờ cũng được người Nùng Phàn Slình coi trọng và gìn  giữ. 2.3. Cấu trúc dòng họ của người Nùng Phàn Slình  Hệ thống danh từ thân tộc của người Nùng Phàn Slình có những đặc điểm:   thể  hiện tôn ti, thứ  bậc rõ ràng, đồng thời có sự  phân biệt giữa họ  nội và họ  ngoại cũng như sự phân biệt nam, nữ.   Hệ thống tên đệm, mỗi dòng họ có một hệ thống tên đệm khác nhau. Qua hệ  thống tên đệm, người ta có thể  biết được thứ  bậc, vai vế  của từng thành viên  trong dòng họ.  Dù có quan hệ gần hay xa  ở các chi họ, nhưng các thành viên trong dòng họ  luôn có nghĩa vụ  tương trợ, giúp đỡ  lẫn nhau trong  ốm  đau, thiên tai, dịch   họa… 
  10. 2.4. Đặc điểm dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc  Về địa vực cư trú: Dòng họ người Nùng Phàn Slình không có khu vực cư trú  riêng mà cư trú  đan xen giữa các dòng họ trong cộng đồng thôn bản.   Hệ  thống thờ  tự  của người Nùng Phàn Slình, gồm có: thờ  tổ  tiên (xoòng   cống); thờ ông táo (xoòng cháo)  ở phía trên bếp nấu, là một tấm ván, phía trên  để ống tre cắm hương, đồng bào quan niệm là vị thần trông coi việc bếp núc,   hạnh phúc trong gia đình; thờ bà mụ (ăn va) là nơi thờ những người phụ nữ đã  sinh con trong gia đình; thờ ma sàn, vị thần chuyên trông coi gia súc.   Quan hệ giữa các dòng họ, các dòng họ cư trú trên cùng một địa vực, người   Nùng Phàn Slình luôn có truyền thống đoàn kết, tương trợ nhau trong sản xuất,   sử dụng nguồn nước chung và khai thác các khu rừng, núi xung quanh bản. Vì  vậy, quan hệ giữa các dòng họ của người Nùng Phàn Slình ít có biểu hiện của   tư tưởng chia rẽ, phân biệt... Về  cơ  sở  kinh tế: Dòng họ  không có cơ  sở  kinh tế  chung. Khi có công việc  cúng bái chung của dòng họ, như cúng thần thổ công vào dịp đầu năm mới, cúng  thần nước…, các gia đình trong dòng họ cùng nhau đóng góp để thực hiện nghi   lễ. Cũng như  các dân tộc khác, những người cùng họ   ở  người Phàn Slình không   được kết hôn với nhau. Trường hợp tuy cùng tên họ nhưng lại không có liên hệ  với nhau về tổ tiên và ở địa phương khác có thể kết hôn, nhưng không có trường  hợp nào ở địa bàn nghiên cứu.  2.5. Vai trò cá nhân trong dòng họ của người Nùng Phàn Slình  2.5.1. Vai trò của trưởng họ  Trưởng họ người Nùng Phàn Slình có vị trí quan trọng. Trưởng họ thường   là người thuộc ngành trưởng hiểu biết về  chữ  Hán hay Nôm Nùng, và nắm  vững lịch sử  của tổ tiên, mồ  mả   ngành trưởng và các chi trưởng. Trước đây,  trưởng họ  được quyền giữ  gia phả của dòng họ  mình và ghi vào trong gia phả  những biến cố, thay đổi trong phạm vi dòng họ mình như họ tên, ngày sinh, tử của  các thành viên. Trường hợp nếu người trưởng họ kiêm cả nghề thầy cúng, càng uy  tín hơn. Những dòng họ  có số  hộ  chiếm đa số  trong thôn, thì người trưởng họ  thường là trưởng bản.   Trưởng họ  là người duy trì mọi sinh hoạt theo phong tục, tập quán trong   dòng họ và tổ chức những buổi cúng thần thổ công thổ địa vào dịp tết Nguyên  đán và lễ  Thanh minh… Trong trường hợp các gia đình cùng họ  có xích mích  với họ khác, trưởng họ phải có trách nhiệm đứng ra vận động và thực hiện hòa  giải.   Trưởng họ  là người có thể  tin cậy để  các thành viên trong họ  tham vấn ý  kiến trong quan hệ xã hội và nghi lễ văn hóa liên quan đến các gia đình và sinh   hoạt cộng đồng, chẳng hạn như chứng kiến việc chia tài sản cho con trai của   một gia đình trong dòng họ  khi cho ra  ở  riêng.  Trưởng họ  người Nùng Phàn 
  11. Slình không có đặc quyền kinh tế và xã hội do không dựa trên cơ sở kinh tế để  thực hiện các hoạt động lễ  nghi và điều hành các quan hệ  xã hội  ở  phạm vi   dòng họ mình.   2.5.2. Những người uy tín của dòng họ Ở xã hội truyền thống những người làm nghề tôn giáo như thầy cúng Nùng   Phàn Slình luôn  được kính trọng. Những người này biết chữ Hán, đảm nhiệm   việc cúng bái trong các dịp cưới xin, tang ma, làm nhà mới của các gia đình  trong dòng họ  hay các họ  khác khi được mời. Thầy cúng Nùng Phàn Slình  thường khi kiêm công việc bốc thuốc chữa bệnh (do vừa chữa bệnh bằng   thuốc vừa cúng), nên ông ta là người có uy tín. Ở cộng đồng Nùng Phàn Slình,   những người này do có nhiều kinh nghiệm nên luôn được trao trách nhiệm giữ  và ghi chép, bổ sung gia phả trong dòng họ.   Những người có học hành cao, kiến thức hơn mọi người và lại có đạo đức;   người nhiều kinh nghiệm trong hoạt động sản xuất và nghề thủ công hay giỏi về  văn thơ, nghệ thuật trong dòng họ, luôn được đề cao, tôn trọng như thợ mộc, đan  lát…   Tiểu kết Chương 2 Người Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc, Lạng Sơn có truyền thống rất coi trọng   quan hệ dòng họ. Quan hệ dòng họ tạo nên sự gắn bó bền chặt giữa các thành   viên. Mỗi người Nùng Phàn Slình khi có vợ/chồng đều có ba mối quan hệ  về  dòng họ là họ bố (họ nội), họ mẹ (họ ngoại) và họ vợ/chồng.  Dòng họ của người Nùng Phàn Slình được tổ chức khá chặt chẽ dựa trên quan  hệ nhiều chi họ khác nhau. Mỗi chi họ gồm một số hộ gia đình cư trú trong cùng  một thôn hay những thôn lân cận trong phạm vi xã, liên xã, liên huyện và xuyên  quốc gia.  Dòng họ của người Nùng Phàn Slình đều có những đặc điểm quan hệ giữa  các hộ  gia đình trong cùng dòng họ  tương đồng gần gũi nhau về  cư  trú, hệ  thống lễ  nghi thờ  cúng cũng như quan hệ hôn nhân, tập quán đặt tên đệm theo  thứ bậc thế hệ trong mỗi dòng họ và vai trò trưởng họ trong đời sống cộng đồng   dòng họ. Tất cả những đặc điểm đó tạo nên những nét riêng biệt của dòng họ  người Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc, Lạng Sơn.  CHƯƠNG 3 QUAN HỆ DÒNG HỌ TRONG ĐỜI SỐNG TÍN NGƯỠNG 3.1. Quan niệm về tín ngưỡng của người Nùng Phàn Slình   Tín ngưỡng của người Nùng Phàn Slình được dựa trên cơ tầng quan niệm   về  linh hồn và vạn vật hữu linh. Người sống thì có hồn “khoằn”, khi chết đi  thành “phi” (ma) và có thể  biến thành nhiều loại phi khác nhau: phi có lợi và  phi có hại đối với người đang sống. Từ những quan niệm đó, người Nùng Phàn  Slình hình thành nhiều hình thức tín ngưỡng dân gian khác nhau như  trong 
  12. phạm vi gia đình, dòng họ  có thờ  cúng tổ  tiên, thờ  bàn mụ, ngoài làng có thờ  thổ công. Từ quan niệm về tín ngưỡng như vậy, người Nùng Phàn Slình đã tổ  chức lễ sinh nhật cho người già, làm lễ tang ma cho người quá cố rất chu đáo. 3.2. Quan hệ dòng họ qua tang ma  Đám tang của người Nùng Phàn Slình phải trải qua rất nhiều nghi lễ  bắt   buộc khá rườm rà, đến nay vẫn chưa giảm bớt nhiều. Với một khối lượng   công việc liên quan đến phong tục, lễ  nghi nhiều vừa cần đến sức lực, vật  chất, gia đình tang chủ phải nhờ cậy sự giúp đỡ của họ hàng và cộng đồng.  Theo quan niệm của người Nùng Phàn Slình, nếu trong họ  hàng có người  chết, gia đình nào trong họ tộc không đến nhận tang thì coi như gia đình đó đã  từ bỏ quan hệ về dòng máu và tổ tiên. Bởi vậy, khi trong họ có việc ma chay,   các gia đình trong họ đều có trách nhiệm trợ giúp về sức lực và vật chất để thể  hiện mối quan hệ này giúp đỡ tang chủ, gia đình có nhiều giúp nhiều, có ít giúp  ít, có thế nào giúp vậy, có thể là vài cân gạo, chai rượu, bó củi, con lợn,… Thực hiện nghi lễ  tang ma, họ  hàng gần bên nội đóng vai trò chủ  đạo.   Người con trai trưởng phải có mặt trong các nghi lễ chịu tang theo luật tục (trừ  lễ  tế  minh tinh). Gia đình nào không có con trai phải nhận một cháu trai trong  nội tộc làm con nuôi. Con nuôi được hưởng quyền thừa kế  như  con trai đẻ  trong gia đình. Lúc cha, mẹ chết phải chống gậy, chịu tang. Họ bên ngoại, các  bên thông gia thường  ứng xử  như  những thành viên trong gia đình. Họ  cùng  chia sẻ với gia đình tang chủ thông qua những lễ tế riêng. Điều đó đã trở thành  một tập quán quan trọng đối với người Nùng Phàn Slình. Chính sự  tương trợ  này đã tạo nên sự cố kết ngày càng bền chặt hơn trong dòng họ bên nội, ngoại   và họ vợ ở người Nùng Phàn Slình.  Những năm gần đây, nhất là từ  sau khi quan hệ  Việt ­ Trung bình thường   hóa trở lại, những người Nùng Phàn Slình có quan hệ họ hàng với bên kia biên   giới đều đến thăm viếng vào các dịp lễ tang, đám cưới hoặc Thanh minh.  3.3. Quan hệ dòng họ trong cưới xin Trước đây cũng như hiện nay, cưới xin phải trải qua rất nhiều nghi lễ nên rất   ít gia  đình có thể  tự  lực hoàn toàn trong việc lấy vợ  gả  chồng cho con cái, mà  thường phải nhờ vào sự tương trợ, giúp đỡ của họ hàng gần, sau đó là hàng xóm  láng giềng hoặc là bạn bè. Trước tiên, khi gia đình có việc cưới xin, người chủ gia đình phải thông báo   cho bà con trong họ hàng biết, để  cho các gia đình trong họ tùy theo khả năng   mà giúp đỡ nhân lực, trong việc dựng rạp, thực hiện các nghi lễ, cỗ bàn... Thái   độ  giúp đỡ  nhau trong dịp cưới xin của các gia đình đều rất tận tình và được  coi như  một trách nhiệm trong họ  với nhau. Lễ  cưới chính thức là việc quan   trọng nhất trong nghi thức kết hôn, thường diễn ra từ hai đến ba ngày, trong đó  một ngày là tiệc chính. Những ngày này, chủ  gia đình có nghĩa vụ  phải mời   đông đủ các thành viên trong họ hàng tới dự. Bên họ nội là những anh em, con  
  13. cháu thân thiết trong dòng tộc, còn bên mẹ và bên vợ cũng là những người gần   gũi nhất như anh chị em của mẹ và anh chị em của vợ... .   Về  quan hệ  dòng họ  với những người  đồng tộc người xuyên biên giới,   người Nùng Phàn Slình ở bên kia biên giới tại những điểm nghiên cứu vẫn có   tham dự  những bữa tiệc mừng trong hôn lễ  nếu có quan hệ  họ  hàng, nhưng   không nhiều.  3.4. Quan hệ dòng họ trong lễ dựng và về nhà mới Thực tế, nếu một gia đình chuẩn bị nguyên vật liệu để làm nhà, các gia đình  trong họ sẽ đến giúp đỡ xẻ gỗ, trình tường... Tùy theo yêu cầu của gia đình mà   thời gian giúp có thể  ngắn hay dài. Thái độ  giúp đỡ  nhau trong việc chuẩn bị  làm nhà mới của anh em họ hàng bao giờ  cũng hết sức nhiệt tình và hăng hái,   thể  hiện qua chất lượng từng công việc được giao, tuyệt đối không có biểu   hiện trễ nải, chiếu lệ trong công việc.  Quá trình làm nhà, ngày dựng nhà cần sự giúp đỡ của nhiều người trong họ.   Những người là anh em, chú bác trong dòng họ  thường xuyên có mặt từ  khi   chuẩn bị  nguyên vật liệu đến khi hoàn thành, kết thúc bằng nghi lễ  lên nhà  mới. Khi làm lễ lên nhà mới, gia chủ mổ lợn và mời toàn thể  họ hàng đến dự  bữa cơm và uống rượu ăn mừng. Nghi lễ  lên nhà mới cổ  truyền của người   Nùng Phàn Slình có tục lệ  chọn 4 người đàn ông của hai bên nội, ngoại là  những người làm ăn hòa thuận, khấm khá đứng ở bốn góc nhà tiến ra châm lửa  đốt đống củi ở giữa nhà khi thầy cúng bắt đầu làm lễ nhập nhà mới.  Truyền thống giúp đỡ nhau trong dịp làm nhà mới của bà con họ hàng người  Nùng Phàn Slình đến nay vẫn còn được gìn giữ  cho dù điều kiện kinh tế  ­ xã  hội đã có nhiều thay đổi.  3.5. Quan hệ dòng họ qua một số lễ nghi trong gia đình    3.5.1. Thờ cúng tổ tiên Thờ  cúng tổ  tiển là một trong những hình thức tín ngưỡng quan trọng của   người Nùng Phàn Slình nhằm củng cố trật tự trong gia đình, dòng họ. Hệ thống  thờ  tự  trong gia đình người Nùng Phàn Slình thường được thờ   ở  4 khu vực   chính: Bộ  bàn thờ  tổ  tiên (xoòng cống); Bàn thờ  thổ  công ­ chỉ  là  ống hương  cắm ở bên phải cửa ra vào chính (vị thần bảo vệ mùa màng, sức khỏe, con cái,   bảo vệ gia đình); Bàn thờ ông táo (xoòng cháo) ở phía trên bếp nấu, là một tấm  ván, phía trên để ống tre cắm hương (vị thần trông coi việc bếp núc, hạnh phúc   trong gia đình; kiêng không được bày thức ăn hay bất cứ vật gì lên đó); Bàn thờ  Mụ (ăn va) là nơi thờ những người phụ nữ đã sinh con trong gia đình. Bộ bàn thờ tổ tiên được để ở tầng 2, đặt chính giữa tường, đối diện với cửa  chính của tầng 2. Bộ bàn thờ trên gồm 4 ban với 4 đối tượng thờ, gồm: Bàn thờ  bồ tát (tinh tàn); Bàn thờ tổ tiên (xoòng cống); Bàn thờ thần nuôi súc vật (tử làng);  Bàn thờ mụ (ăn va). 
  14. Bộ bàn thờ của các gia đình người Nùng Phàn Slình giống nhau về số lượng   ban thờ, thứ tự  trên dưới, chỉ  khác biệt là số  lượng chén để  trên ban thờ. Tùy  theo từng dòng họ mà có số lượng chén để khác nhau, cách bài trí trên từng ban  thờ  cũng phụ thuộc theo dòng họ và điều kiện kinh tế  của hộ gia đình. Ví dụ  như  họ  Hoàng thờ  7 chén, nhưng trong họ  Hoàng lại chia ra: họ  Hoàng thờ  7  chén và họ  Hoàng thờ  5 chén; họ  Vi lại để  5 chén. Theo cách giải thích của   đồng bào, đây là dấu hiệu để  một người cùng dân tộc từ  nơi khác đến, họ  có  thể nhìn vào số lượng chén thờ mà đoán định gia chủ thuộc dòng họ nào. 3.5.2. Lễ tạ mộ (sòn mộ)  Hàng năm, người Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc còn làm lễ tạ mộ vào dịp mùng  3 tháng 3 Âm lịch. Đây là dịp để con cháu báo hiếu và cầu mong tổ tiên phù hộ  cho các gia đình trong dòng họ gặp được nhiều may mắn, làm ăn thuận lợi. Đến   ngày này, con cháu, họ hàng trong dòng họ tập trung lại để đi tu sửa mồ mả của  ông bà, cha mẹ. Công việc thường là quét dọn, làm cỏ sạch sẽ, sau đó con cháu  đến thắp hương. Thông qua lễ  tạ  mộ  chính là để  con cháu mới lớn nhận họ  hàng, biết về  phần mộ  của tổ  tiên, lắng nghe ông trưởng họ  và bậc cao niên  trong dòng họ kể về nguồn gốc tổ tiên của dòng họ mình.  Hàng năm những người cùng dòng họ   ở  bên kia biên giới lại sang các điểm   nghiên cứu vào những dịp lễ  tạ  mộ. Tính đến tháng 10 năm 2013, tại một số  thôn của các điểm nghiên cứu vẫn còn 13 ngôi mộ của các hộ gia đình của thôn  Chiểng   Lầy   và   Liểu   Hàng   thuộc   xã   Thượng   Thạch,   thị   trấn   Bằng   Tường,   huyện Ninh Minh, tỉnh Quảng Tây. Những ngôi mộ  này hiện nay vẫn chưa di   dời sang bên kia biên giới theo như  hiệp  ước mà hai quốc gia đã ký kết, hiện   vẫn được cả người dân hai bên biên giới trông nom và hương khói vào dịp lễ tạ  mộ.  3.6. Quan hệ dòng họ qua lễ tết cổ truyền Quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc còn được thắt chặt   hơn vào những dịp lễ  tết cổ  truyền. Hàng năm, họ  có nhiều lễ  tết quan trọng   như: Nguyên đán, Thanh minh,  Đoan ngọ, Rằm tháng Bảy, Đông chí... Vào dịp   này, đều có những nghi lễ và mục đích khác nhau, nhưng đây là dịp để các thành   viên trong dòng họ thăm hỏi, vui chơi, hay thể hiện sự tôn kính đối với các bậc   tiền bối.   Dịp tết cổ  truyền, những người có quan hệ  họ  ngoại như  họ  mẹ  và vợ  thường giành nhiều thời gian thăm hỏi gia đình bên ngoại. Những ngày này cũng   là dịp tốt nhất để anh em, chú bác xa gần họp mặt nhau đông đủ. Nếu vì một lý  do nào đó mà các thành viên trong gia đình chưa gặp mặt được đông đủ, sẽ  có  cảm giác thiếu tình cảm gia đình. Tết Nguyên đán được người Nùng Phàn Slình  chuẩn bị chu đáo nhất, thời gian ăn tết cũng dài nhất và là dịp để  những người   trong dòng họ  đến thăm hỏi, chúc tụng nhau. Vào dịp này, người Nùng Phàn   Slình thường có tập quán là gia đình nào trong dòng họ làm lễ cúng tổ tiên trước 
  15. sẽ mời những gia đình họ khác đến ăn uống. Cứ như thế, anh em, chú  bác trong  họ hàng lần lượt ăn uống từ nhà này sang nhà khác, đến khi hết lượt anh em trong   họ mới thôi. Đây cũng là dịp tốt nhất để qua lại thăm hỏi và chúc tụng nhau trong   họ hàng. Anh em họ gần, họ xa dù khó khăn và xa xôi đến mấy cũng phải đi thăm  hỏi nhau.  Tiểu kết Chương 3 Tín ngưỡng thể hiện quan hệ dòng họ bền chặt trong đời sống người Nùng   Phàn Slình ở huyện Cao Lộc, Lạng Sơn. Những sinh hoạt tín ngưỡng, thờ cúng  tổ  tiên và thờ  cúng họ, chi họ  của người Nùng Phàn Slình hiện tại là sợi dây   xuyên suốt trong sự  cố  kết các thành viên trong gia đình, dòng họ. Còn trong   phạm vi lớn hơn thì các sinh hoạt tín ngưỡng này cũng tạo nên sự cố kết cộng  đồng tộc người mạnh mẽ.   Hiện nay, những nghi lễ thờ cúng trong gia đình ­ dòng họ vẫn được người   Nùng Phàn Slình chú trọng và tăng cường càng thắt chặt hơn mối quan hệ dòng   họ và quan hệ trong cộng đồng tộc người này vùng biên giới. Qua những nghi lễ trong tang ma thể hiện một quy tắc  ứng x ử gi ữa cá nhân,   gia đình, dòng tộc với cộng đồng thôn bản. Thế   ứng xử  đó tạo nên mối giao  ước và những quy tắc không chỉ liên quan đến người chết, mà ràng buộc người   sống với nhau, thể hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của thành viên với cộng đồng.  Nghi lễ trong đám ma là một sinh hoạt thắt chặt hơn mối quan hệ dòng họ.  Cưới xin của người Nùng Phàn Slình cũng mang đậm bản sắc dân tộc với  những quy định thống nhất về  lễ  nghi, phương thức và những bước tổ  chức.  Thông qua những nghi lễ đám cưới, quan hệ  họ hàng ngày càng được thắt chặt   hơn.  CHƯƠNG 4 QUAN HỆ DÒNG HỌ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ VÀ TƯƠNG  TRỢ 4.1. Quan hệ dòng họ trong sản xuất nông nghiệp Theo tục lệ cổ truyền của người Nùng Phàn Slình, những người trong cùng  dòng họ  có bổn phận giúp đỡ, đổi công với nhau trong hoạt động sản xuất   nông nghiệp. Họ  giúp nhau chủ  yếu trong các khâu làm đất, gieo cấy và thu  hoạch. Đây là hoạt động mang tính hoàn toàn tự  nguyện, trên cơ  sở  mối quan  hệ anh em, họ hàng truyền thống và cũng có nghĩa hai bên cùng có lợi. Trong thủy lợi, các thành viên trong dòng họ đã liên kết với nhau để có thể  tạo dựng được những mảnh ruộng và hệ  thống dẫn nước phục vụ  sản xuất   nông nghiệp. Vào các vụ  gieo trồng và thu hoạch, các gia đình trong dòng họ  thường giúp đỡ nhau. Nếu một hộ gia đình nào trong dòng họ gặp khó khăn về  kinh tế, không đủ tiền mua lúa giống, trưởng họ đứng ra vận động các gia đình  khác trong họ giúp đỡ tiền... 
  16. Về  chăn nuôi: Đồng bào thường nuôi trâu, bò để  lấy sức kéo, gia cầm lấy   thịt, làm phân bón và tạo nguồn thu nhập cho hộ gia đình. Mỗi gia đình thường   nuôi trâu, bò từ 3 đến 4 con; lợn vài con, gia cầm cũng phải vài chục con. Với   số lượng đầu gia súc, gia cầm như vậy, đối với một gia đình khá giả thì không  sao nhưng đối với gia đình còn nghèo thì nguồn vốn để đầu tư vào chăn nuôi là  hết sức khó khăn. Lúc này, ông trưởng họ  sẽ  huy động sự  giúp đỡ  của mọi  người.   Thực tế  tại các điểm nghiên cứu cho thấy, sự  liên kết giữa các gia đình  người Nùng Phàn Slình  ở  Cao Lộc, Lạng Sơn có quan hệ  họ  hàng gần gũi  trong sản xuất nông nghiệp chủ yếu là hình thức liên kết, đổi công, tương trợ,  giúp đỡ  lẫn nhau. Sự  liên kết này được thể  hiện  ở  chỗ: Một mặt, canh tác  nông nghiệp lúa nước với những đòi hỏi của quá trình sản xuất như khâu thủy  lợi đến các hoạt động khẩn trương trong mùa vụ cũng như những hạn chế về  nguồn vốn, tư liệu sản xuất, lao động… đã buộc đồng bào nơi đây khó có thể  một mình trong sản xuất; mặt khác, thông qua sự liên kết này cho thấy việc coi   trọng dòng họ. Các quan hệ  họ  hàng  ở  đây đã đảm bảo cho quan hệ  kinh tế  của gia đình người Nùng Phàn Slình có thể vận hành một cách có hiệu quả hơn   kể cả xưa và nay.  4.2. Quan hệ dòng họ qua tương trợ kinh tế 4.2.1. Tương trợ trong sinh đẻ và nuôi con cái Tư  liệu của chúng tôi thu thập được tại các điểm nghiên cứu cho thấy, họ  hàng bên nội và bên ngoại đều đến thăm hỏi và tặng quà cho người mẹ  sinh   con. Quà tặng thường là những loại thức ăn mà dân làng coi là nhiều chất dinh  dưỡng như trứng gà, thịt gà, thịt lợn, gạo nếp để gia đình chế biến cho sản phụ  ăn tăng cường sức khỏe, nhiều sữa nuôi con. Với những gia đình thuộc dòng họ  lớn trong thôn thì việc đến thăm hỏi diễn ra tới vài tháng. Đây có thể coi là một  sự tương trợ kinh tế phi chính thức mà chủ yếu là thực phẩm chính để sản phụ  dùng trong nhiều ngày. Tuy nhiên, hiện nay, tặng phẩm của những người trong cùng dòng tộc đang  có xu  hướng thay  quà  tặng bằng tiền,  đặc biệt là  ở  khu vực  có  mối giao  thương thuận tiện bởi hoạt động thương mại hay dịch vụ  làm thuê qua biên  giới.  Không chỉ  có những vật phẩm thường ngày được họ  hàng mang đến tặng   sản phụ mà còn chia sẻ những tri thức truyền thống trong nuôi và chăm sóc trẻ  sơ  sinh. Những chia sẻ  về  kinh nghiệm, kiến thức dân gian trong việc nuôi  dưỡng trẻ là vô cùng quan trọng, đặc biệt với những người phụ nữ làm mẹ lần   đầu.  4.2.2. Tương trợ trong dịp tổ chức đám cưới  Đến thời điểm nghiên cứu, tập quán trợ giúp vật chất (lợn, rượu, gạo) của   các gia đình tùy theo mối quan hệ (họ hàng, anh em, bà con trong thôn bản) đối 
  17. với gia chủ của người Nùng Phàn Slình vẫn còn tồn tại rõ nét. Trong đám cưới,   không chỉ có sự tương trợ vật phẩm mà còn có tiền mừng đám cưới, trước hết  là của anh em họ hàng ruột thịt ­ những người đóng vai trò quan trọng trong trợ  giúp gia đình khi có công việc lớn như đám cưới. Việc trợ giúp những vật phẩm  của người Nùng Phàn Slình không bao giờ tính lãi và thời gian giúp đỡ thường  rất dài, chỉ đến khi nào gia đình người trợ giúp có việc thì người được giúp đỡ  mới mang đến trả  lại. Thậm chí đời cha chưa trả  thì đến đời con trai  ở  cùng  với cha, mẹ có trách nhiệm trả. Nó được coi như một loại nợ miệng, nợ đồng   lần.  Đám cưới của người Nùng Phàn Slình có hai loại quà tặng bằng tiền nổi  bật: thứ  nhất là tiền mừng cho gia chủ được ghi vào sổ, gia đình sẽ  giao cho   một người đứng ra ghi chép cẩn thận để  sau này còn đáp lại; thứ  hai là tiền   mừng cho cô dâu, chú rể khi đi mời khách ăn trầu, hút thuốc, uống rượu, trong   lễ  “sài hồng”. Những người đến uống rượu  ở  đám cưới, dù là khách bên nội  hay bên ngoại đều mừng một ít tiền để cho đôi vợ chồng mới cưới gây vốn về  sau.  Tài liệu thực địa cho thấy, hệ thống tương trợ hay giúp đỡ đã thể  hiện tinh  thần gắn kết của các gia đình trong cộng đồng. Đây là mạng lưới tạo nên sự  cố kết cộng đồng trong dòng tộc thể hiện qua những người được quyền tham   gia vào việc tặng quà cho cô dâu, chú rể  và họ  nhận lại miếng trầu, cau hay  một chén rượu. Xu hướng chung cho thấy, quà tặng trong đám cưới  ở  người  Nùng Phàn Slình ngày một tăng cường hơn cả về số  lượng người trao đổi và  giá trị tương trợ.   4.2.3. Tương trợ trong lễ sinh nhật cho người già Người Nùng Phàn Slình thường tổ chức lễ mừng sinh nhật cho cha mẹ mình  ngay dưới bàn thờ mụ. Lễ sinh nhật thường diễn ra vào ban đêm với hai phần   chính là lễ sinh nhật và cầu giải hạn cầu an. Thầy cúng mời linh hồn của tổ tiên  về  chứng kiến buổi lễ, phù hộ  sức khỏe cho người được làm sinh nhật với sự  tham dự  chủ  yếu là con cháu, họ  hàng nội ngoại, thông gia, bạn bè của người   được làm sinh nhật.  Khoảng 5 năm trở  lại đây, việc mang lễ  vật có phần giảm, thay vào đó là  tiền để  gia đình tự  đi mua thực phẩm. Việc đến mừng gia chủ bằng hiện vật  hay tiền trong lễ nghi này tương tự  tập tục “trả nợ miệng”. Việc mừng hiện   vật biểu hiện cho sự chia sẻ trợ giúp về kinh tế với gia chủ là thành viên thuộc  quan hệ họ hàng, nội ngoại. 4.2.4. Tương trợ qua tang ma Tang ma cho người quá cố thường diễn ra trong nhiều ngày và phải tốn kém   một khoản kinh phí lớn nên chính trong lúc này gia đình tang chủ  rất cần sự  giúp đỡ, động viên của mọi thành viên trong họ hàng và bà con thôn bản. Khi 
  18. nghe tin có người mất, bà còn họ  hàng, thông gia, dân bản đến hỏi thăm, lo  tổ chức nghi lễ hậu sự theo phong t ục.    Sự  cố  kết cộng đồng thể  hiện qua đám ma rõ nét nhất chính là “hội hàng  phường”, một tổ chức phi quan phương chuyên giúp đỡ  tang chủ  các công việc  trong tang ma. Khi nhận được tin báo của gia chủ, người hội trưởng có trách  nhiệm thông báo cho toàn bộ hội viên. Mỗi một gia đình hội viên phải cử  một  thành viên trong hộ  gia đình đến để  giúp đỡ  gia đình tang chủ  và họ  thường   đem theo rượu, gạo, củi, số lượng tùy theo từng phường quy định. Thông thường, gia chủ đều bị rơi vào tình thế bị động không có sự chuẩn bị  về  lợn, rượu và gạo nên phải hỏi mượn anh em trong dòng họ  trước, nếu  không có mới hỏi bà con trong thôn. Sau khi đã có sự  thống nhất và lên kế  hoạch về các khoản chi cho đám ma, hội trưởng và hội phó sẽ  tiến hành phân  thành các nhóm để cùng nhau giúp tang chủ lo chu toàn cho người qua cố.  Tuy nhiên, ở đây vai trò của dòng họ không vì thế mà ít có vị trí quan trọng   khi một thành viên cộng đồng dòng họ  quá cố. Đó là, ngoài trách nhiệm của   hội  hàng phường còn   có trách nhiệm của quan  hệ   họ  hàng thân tộc với  người quá cố. Đây chính là quan hệ chặt chẽ của mạng lưới xã hội giữa các  cá nhân và hộ  gia đình với các bên liên quan một cách tự  giác, phân cấp trên   nền tảng gia đình, dòng tộc và cộng đồng. Tiểu kết Chương 4 Cũng như nhiều tộc người và nhóm địa phương khác, quan hệ dòng họ  của   người Nùng Phàn Slình  ở  Cao Lộc, Lạng Sơn cũng được biểu hiện trong các   hoạt động kinh tế, mà trước hết là truyền thống tương trợ trong hoạt động sản   xuất nông nghiệp. Với điều kiện thiên nhiên không thuận lợi cho việc canh tác,  nhất là canh tác lúa nước rất cần đổi công trong các khâu sản xuất, đặc biệt là  các khâu nặng nhọc và cần nhiều công lao động vào thời điểm cho kịp thời vụ.   Thông qua hoạt động đổi công, tương trợ  trong sản xuất, không chỉ  góp phần   giải quyết nhu cầu trong sản xuất mà còn tăng cường tính gắn kết giữa các  thành viên dòng họ ở người Nùng Phàn Slình. Quan hệ dòng họ còn được biểu hiện qua các hoạt động trợ giúp trong các lễ  nghi sinh đẻ, cưới xin, tang ma, lễ sinh nhật cho người già, về nhà mới.  Trong  các lễ  nghi này, dòng họ  đóng vai trò thiết yếu trong sự  tương trợ cả về vật   chất, tinh thần và công sức. Trợ giúp tạo thành mạng lưới quan hệ của cá nhân,  hộ gia đình với các hộ gia đình khác cùng dòng tộc, cũng như các hộ gia đình có  mối liên hệ thông gia trong cộng đồng. Qua thực hiện các lễ nghi, đã hình thành   mạng lưới quan hệ xã hội, với sự tương trợ được vận hành như một hệ thống  hỗ trợ xã hội.  Xu hướng đưa cả quan hệ dòng họ vào trong mạng lưới cá nhân  và hộ gia đình càng được tăng cường. Mối quan hệ này không chỉ có bên dòng  họ nội mà còn bao gồm họ ngoại và họ vợ/chồng, không chỉ ở cộng đồng thôn  bản mà trong một số  trường hợp còn vượt ra ngoài phạm vi thôn bản. Tuy 
  19. nhiên, về  căn bản, mạng lưới quan hệ  các cá nhân dòng tộc của người Nùng  Phàn Slình chủ yếu vẫn chưa vượt ra ngoài ranh giới của cộng đồng thôn bản.  CHƯƠNG 5 QUAN HỆ DÒNG HỌ VỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ 5.1. Về hệ thống chính trị cơ sở  Hệ  thống chính trị  cơ  sở  là toàn bộ  các thiết chế  chính trị  như  tổ  chức   Đảng, chính quyền, các đoàn thể  nhân dân được tổ  chức và hoạt động theo  những nguyên tắc nhất định và gắn bó hữu cơ  với nhau nhằm thực hiện sự  lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và phát huy quyền dân chủ của   nhân dân  ở  cơ  sở. Trong phạm vi lu ận án, chúng tôi đề  cập tới mối quan hệ  dòng họ ở hệ thống chính trị cấp cơ sở (cấp xã và  chân rết hành chính của nó  ­ cấp thôn).  Ở  đây, quan hệ  dòng họ  của người Nùng Phàn Slình được đặt   trong bối cảnh quan hệ  dòng họ  của các nhóm người Nùng khác và của tộc  người khác tại xã được nghiên cứu. Bởi vậy, việc phân tích có nhiều chỗ  không thể tách riêng cho người Nùng Phàn Slình.    5.2. Quan hệ dòng họ trong hệ thống chính trị cấp xã và cấp thôn 5.2.1. Đặc điểm hệ thống chính trị cấp xã và cấp thôn  Xã Thụy Hùng gồm 12 thôn: Nà Pàn, Nà Hỏ, Còn Phèo, Khuổi Khe, Nà Pài,  Pò Nghiều, Pò Mạch, Nà Lại, Khuổi Mươi, Còn Tòong, Lũng Cọong, Tam  Lung. Xã có 1.038 hộ  với 4.765 nhân khẩu, có 3 dân tộc cùng chung sống là   Tày, Nùng (nhóm Nùng Phàn Slình và Nùng Cháo), Kinh, trong đó người Nùng  Phàn Slình sinh sống chủ yếu ở 5 thôn (Pò Nghiều, Nà Pàn, Nà Lại, Còn Phèo,   Còn Tòong). Tính đến thời điểm tháng 12/2012, cán bộ, công chức cấp xã của  Thụy Hùng là 31 người (bao gồm cả cán bộ, công chức và những người chuyên  trách), trong đó có 17 người, tức hơn 50% số lượng cán bộ  xã là người Nùng   (Nùng Phàn Slình: 8 người, Nùng Cháo ­ 9 người), còn lại là người Tày.             Xã Gia Cát gồm 10 thôn: Bắc Nga, Liên Hòa, Bắc Đông I, Bắc Đông II, Nà  Pó, Sơn Hồng, Hợp Tân, Cổ Lương, Pò Cại, Sa Cao. Xã có 1.072 hộ với 4.581   nhân khẩu, có 6 dân tộc chung sống là Kinh, Nùng, Tày, Hoa, Dao, và dân tộc  khác. Trong số các dân tộc kể trên, người Nùng có 2.102 người, chiếm 45,89%;  Tày là 2.350 người, chiếm 51,30%, còn lại là các dân tộc khác. Tổng số  cán bộ  công chức của xã gồm 30 người (bao gồm cả cán bộ, công chức và những người  chuyên trách), trong đó 21 người là dân tộc Tày, 9 người là dân tộc Nùng Phàn   Slình.  Xã Thanh Lòa gồm 6 thôn: Còn Phạc, Bản Rọi, Nà Làng, Nà Pheo, Bản Lòa,  Co Khuất. Xã có 325 hộ  với 1.630 nhân khẩu, trong đó chỉ  có 45 hộ  là người  Tày, còn lại là người Nùng Phàn Slình. Tổng số cán bộ công chức của xã gồm  27 người (bao gồm cả cán bộ, công chức và những người chuyên trách), trong  đó 5 người là dân tộc Tày, 22 người là dân tộc Nùng (nhóm Phàn Slình) Như 
  20. vậy,  ở  xã Thanh Lòa, đa số  cán bộ  là người Nùng Phàn Slình; tại xã Thụy  Hùng, đa số  cán bộ  là người Nùng Cháo; còn  ở  xã Gia Cát, đa phần là người   Tày.  5.2.2. Quan hệ dòng họ với cán bộ chủ chốt cấp xã  Bối cảnh kinh tế ­ xã hội hiện nay ở địa phương được nghiên cứu cho thấy,  những người giữ  vị  trí trong bộ  máy chính quyền cấp xã đều có lợi ích nhất  định về vật chất, tinh thần và lợi ích chính trị. Các vị trí có tiếng nói quyết định  trong hệ thống này là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân và Bí thư Đảng ủy.  Từ tài liệu điền dã cho thấy, một số chức danh chủ chốt như Ch ủ tịch  Ủy   ban Nhân dân và Bí thư  Đảng  ủy đều là người thuộc dòng họ  chiếm dân số  đông nhất xã.  Ở  đây, chưa xét đến vai trò, năng lực quản lý của họ  mà chỉ  muốn nói đến một hiện tượng, một số  người giữ  chức v ụ  ch ủ  chốt c ủa xã  đều có mối quan hệ  họ  hàng với Chủ  tịch và Bí thư  Đảng  ủy xã. Dựa trên  phân tích  mạng lưới quan hệ họ hàng tại địa phương đã chỉ  ra, những người   đương giữ chức vụ trên không chỉ là những người ruột thịt bên họ nội, mà còn   cả họ ngoại và bên họ vợ nữa (phi nội, tác ngoại).  Bên cạnh các chức vị Chủ tịch, Bí thư có quan hệ họ hàng nội ngoại gần gũi  còn có các Phó Chủ  tịch, Phó Bí thư  Đảng  ủy, Trưởng Công an xã, Chủ  tịch  Hội người cao tuổi cũng như  vậy. Ở  đây không chỉ có quan hệ  cha con (cha ­  con gái; cha ­ con trai; cha ­ con rể) mà còn có quan hệ  thông gia, quan hệ  vợ  chồng, quan hệ anh em không chi gần thì cũng là chi xa trong cùng dòng tộc.  Qua đây cho thấy rằng, quan hệ gia đình, dòng họ đều có sự chi phối không   nhỏ  đến việc bố  trí cơ  cấu đội ngũ cán bộ  cấp xã.  Sự  cố  kết dòng họ  ngày   càng rõ nét, đang chi phối sự  vận hành của hệ  thống chính trị  tại địa phương   các điểm nghiên cứu là một thực tế. Ngoài quan hệ dòng họ là quan hệ bản vị  địa phương  ở cấp xã có mối gần gũi với người cùng làng, bản cũng được thể  hiện ở các địa bàn Nùng Phàn Slình vào thời điểm khảo sát.  5.2.3. Quan hệ dòng họ trong hệ thống chính trị cấp thôn Có thể  thấy rằng, mối quan hệ gia đình, họ  hàng có những  ảnh hưởng tới   hoạt động quản lý cấp xã và cấp thôn nhưng trên thực tế, ảnh hưởng này đối   với cấp thôn yếu hơn so với bộ  máy quản lý cấp xã tại những điểm nghiên  cứu. Những người được bầu vào ban quản lý cấp thôn đều có điều kiện thuận  lợi về  gia đình (vợ  chồng hòa thuận, đủ  nhân sự  để  sản xuất,…) không quá  nghèo, có uy tín với gia đình, thôn bản.   Mỗi thôn thường có vài dòng họ  cùng tụ  cư  với nhau, trong đó thường có  một dòng họ có dân số lớn và là dòng họ đến cư trú đầu tiên trong thôn. Dòng   họ lớn có  ưu thế trong việc bầu cử nên dễ giữ những vị trí chủ  chốt của cấp   thôn. Điều này cũng dễ  lý giải, bởi bên cạnh dòng họ  lớn với số  hộ, số  nhân  khẩu đông là những dòng họ có số hộ, nhân khẩu ít hơn nhưng thường có mối  quan hệ thông gia với họ lớn và các dòng họ khác ở trong thôn. Như vậy, trong  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2