intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Nông nghiệp: Kiến thức bản địa và khả năng thích ứng với lũ của nông dân tỉnh An Giang

Chia sẻ: Co Ti Thanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

59
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm cung cấp các thông tin về kiến thức bản địa và khả năng thích ứng với lũ của nông dân tỉnh An Giang nhằm làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất giải pháp và chính sách phù hợp trong việc sử dụng kiến thức bản địa để giảm tính dễ bị tổn thương để thích ứng với thay đổi chế độ ngập lũ và chiến lược sinh kế của người dân vùng lũ được hiệu quả và bền vững.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án tiến sĩ Nông nghiệp: Kiến thức bản địa và khả năng thích ứng với lũ của nông dân tỉnh An Giang

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Chuyên ngành: Phát triển Nông thôn Mã ngành: 9620116 PHẠM XUÂN PHÚ KIẾN THỨC BẢN ĐỊA VÀ KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG VỚI LŨ CỦA NÔNG DÂN TỈNH AN GIANG Cần Thơ, 2019
  2. CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC ĐỆ Luận án được bảo vệ trước hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp cơ sở. Họp tại: Phòng họp 3, lầu 2, Nhà Điều hành, Trường Đại học Cần Thơ. Vào lúc:8 giờ 00, ngày 4 tháng 8 năm 2018. Phản biện 1: PGS.TS. DƯƠNG NGỌC THÀNH. Phản biện 2: TS. LÊ NGỌC THẠCH. Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Trung tâm Học liệu, Trường Đại học Cần Thơ. Thư viện Quốc gia Việt Nam.
  3. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ 1. P.X.Phu and N.N.De, 2016. The situation and solutions for using indigenous knowledge of local people in adaptation to floods in An Giang province, Vietnam. Asia-Pacific Journal of Rural Development, Volume XXVI, Number 2 (2016). ISSN 1018-5291. 2. Phạm Xuân Phú và Nguyễn Ngọc Đệ , 2017. Đánh giá tính tổn thương đối với sinh kế của nông dân do tác động của lũ ở Tỉnh An Giang. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, số 8 (2017). ISSN 1859-4581. 3. Phạm Xuân Phú và Nguyễn Ngọc Đệ, 2017. Nông dân sử dụng kiến thức bản địa để thích nghi với lũ ở tỉnh An Giang. Tạp chí Khoa học Đại học Cần Thơ, số 50 (2017): 13-25. ISSN: 1859-2333. 4. Phạm Xuân Phú và Nguyễn Ngọc Đệ, 2018. Nghiên cứu đánh giá tính phù hợp của kiến thức bản địa trong thích ứng với lũ của nông dân tỉnh An Giang. Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ: Chuyên san Khoa học trái đất và Môi trường, tập 2, số 2 (2018): 71-80. ISSN: 1859-0128. 5. Phu PX, De NN and Tran NTB. Use of indigenous knowledge to adapt with climate change: A case study in
  4. An Giang province, in the Mekong Delta, Vietnam, 2019. Biomedical Journal of Scientific and Technical Research, Volume XII, Issue 4 (2019): 1-4. ISSN 2574-1241. 6. Pham Xuan Phu, Nguyen Ngoc De and Ngo Thuy Bao Tran, 2019. Contribution of indigenous knowledge to adapt to floods in Mekong Delta, Vietnam:Case study in An Phu, Chau Thanh, Tri Ton districts, An Giang province. Journal of Modern Environmental Science and Engineering, Volume 5, Number 1 (2019): 92-102. ISSN 2333-2581. 7. Pham Xuan Phu, Nguyen Ngoc De and Ngo Thuy Bao Tran, 2019. Study on assessment of indigenous knowledge in adapting to floods of farmers in An Giang province, Mekong Delta, Vietnam. Journal of Acta Scientific Agriculture, Volume 3, Number 4 (2019): 275- 283. ISSN 2581-365X.
  5. Chương 1: GIỚI THIỆU 1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA LUẬN ÁN An Giang là một trong những tỉnh đầu nguồn của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nên chịu ảnh hưởng của lũ hàng năm. Theo Dương Văn Nhã (2006), khi lũ về, bên cạnh việc mang một lượng lớn phù sa để bồi đắp, cải thiện độ phì của đất, vệ sinh đồng ruộng, rửa phèn, lũ còn tạo việc làm và thu nhập cho người dân qua việc đánh bắt cá tự nhiên, hái rau thủy sinh, các dịch vụ du lịch. Tuy nhiên, lũ cũng mang đến một số bất lợi cho người dân, cụ thể từ năm 2000 cho đến nay diễn biến bất thường của lũ đã làm ảnh hưởng đến các hoạt động sinh kế của người dân. Để có thể thích ứng với những thay đổi của lũ, với những thay đổi của xã hội và môi trường con người phải luôn biết cách sử dụng kiến thức bản địa để khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách thích hợp và quản lý một cách linh hoạt hơn (CRES, 2010). Kiến thức bản địa trong thích nghi với lũ ở An Giang được hiểu là kinh nghiệm được tích lũy của cộng đồng địa phương qua nhiều thế hệ và được thừa kế một cách rộng rãi, nó được phản ảnh qua việc người dân địa phương sống và ứng phó hài hòa với lũ hàng năm để khai thác hiệu quả các nguồn tài nguyên do lũ mang lại, nhưng tránh được các tổn thương do lũ gây ra (Van et al., 2011). Công tác ứng phó với lũ dựa trên kiến thức sẵn có của cộng đồng địa phương cần được tìm hiểu và phổ biến hiệu quả để góp phần vào phát triển bền vững của địa phương trước hoàn cảnh của biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng đến thay đổi bất thường của lũ. Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về kiến thức bản bản địa về thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo tồn về cây dược liệu, bảo tồn gen, giống địa phương, sống chung với lũ ở ĐBSCL, thay đổi thời tiết. của các tác giả Warren (1995); Luise (1999); Hoàng Xuân Tý và Lê Trọng Cúc (1998); Mai Văn Tùng (2006), Hoàng Thị Hoàng Ngân (2010); Van el at., (2011); Bùi Quang Vinh (2013); Nguyên Kim Uyên (2013); Hanh (2014); Ngô Văn Lệ và ctv., (2016), Lê Thị Thanh Hương và 1
  6. Nguyễn Trung Thành (2016). Tuy nhiên, thực tế cho thấy chưa có nhiều nghiên cứu về hệ thống hóa và đánh giá tính phù hợp của kiến thức bản địa trong khả năng thích nghi với những thay đổi của lũ trong sản xuất nông nghiệp ở địa bàn nghiên cứu trước bối cảnh biến đổi khí hậu. Do đó, đề tài “ Kiến thức bản địa và khả năng thích ứng với lũ của nông dân tỉnh An Giang” được tiến hành nhằm tìm hiểu hệ thống hóa và đánh giá sự phù hợp của kiến thức bản địa góp phần cung cấp cơ sở khoa học và thự tiễn cho khả năng thích ứng của nông dân đối với lũ trong các điều kiện khác nhau, từ đó đề xuất các giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị sử dụng kiến thức bản địa của nông dân tỉnh An Giang giảm nhẹ tính dễ bị tổn thương của nông dân trong sản xuất nông nghiệp trước bối cảnh của biến đổi khí hậu. 1.2 MỤC TIÊU CỦA LUẬN ÁN 1.2.1 Mục tiêu tổng quát Cung cấp các thông tin về kiến thức bản địa và khả năng thích ứng với lũ của nông dân tỉnh An Giang nhằm làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất giải pháp và chính sách phù hợp trong việc sử dụng kiến thức bản địa để giảm tính dễ bị tổn thương để thích ứng với thay đổi chế độ ngập lũ và chiến lược sinh kế của người dân vùng lũ được hiệu quả và bền vững. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể: (1) Hệ thống hóa và đánh giá được sự phù hợp của kiến thức bản địa và khả năng thích ứng của nông dân đối với lũ trong các điều kiện khác nhau. (2) Phân tích được tính dễ bị tổn thương và khả năng thích ứng của nông dân đối với lũ trong các điều kiện khác nhau. (3) Đề xuất các giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị sử dụng kiến thức của nông dân tỉnh An Giang. 2
  7. 1.3 CÂU HỎI NGHIÊN CỨU (i) Các kiến thức bản địa nào đã và đang được người dân trong vùng nghiên cứu ứng dụng? (ii) Kiến thức bản địa đối với khả năng thích ứng của nông dân đối với lũ trong các điều kiện khác nhau như thế nào? (iii) Các yếu dễ bị tổn thương ảnh hưởng đến sinh kế của nông dân đối với lũ trong các điều kiện khác nhau ra sao? (iv) Cần có giải pháp, chính sách gì để duy trì và bảo tồn kiến thức bản địa của nông dân tỉnh An Giang mang lại hiệu quả và bền vững để góp phần hỗ trợ việc thích ứng và giảm nhẹ tác động tiêu cực trong điều kiện của biến đổi khí hậu? 1.4 THỜI GIAN VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU Thực hiện khảo sát từ tháng 07/2015 đến tháng 03/2016 tại 3 huyện An Phú, Châu Thành, Tri tôn, tỉnh An Giang. 1.5 NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN 5.1.1 Ý nghĩa khoa học - Luận án góp phần hệ thống hóa kiến thức bản địa được người dân trên địa bàn ứng dụng từ trước cho đến nay; cung cấp thêm cơ sở lý luận liên quan đến kiến thức bản địa, thiên tai và biến đổi khí hậu, khả năng thích ứng với lũ của nông dân, tính dễ bị tổn thương đến lũ và biến đổi khí hậu, phương pháp xác định tính dễ bị tổn thương đến lũ và biến đổi khí hậu. - Kết quả nghiên cứu của luận án tổng kết những kinh nghiệm trong dân gian về dự báo lũ vào những biểu hiện của sinh vật và điều kiện thay đổi của môi trường. Đây là thông tin quan trọng giúp triển khai các nghiên cứu khoa học luận giải cho các kinh nghiệm dân gian này. - Những kinh nghiệm trong dân gian khá chính xác trong dự báo lũ có thể phổ biến trong cộng đồng vùng lũ để tạo sự quan sát, giám sát và dự báo lũ trong cộng đồng. 3
  8. - Những thích nghi tốt với lũ có thể phổ biến trong cộng đồng vùng lũ để hạn chế rủi ro, thiệt hại do lũ gây ra trong điều kiện biến đổi khí hậu. 5.1.2 Ý nghĩa thực tiễn - Kết quả nghiên cứu của luận án nhằm cung cấp cơ sở khoa học trong công tác quản lý rủi ro về lũ ở tỉnh An Giang nói riêng và các tỉnh ĐBSCL nói chung có chính sách phù hợp trong việc sử dụng kiến thức bản địa để giảm tính dễ bị tổn thương để thích ứng với thay đổi chế độ ngập lũ và chiến lược sinh kế của người dân vùng lũ được hiệu quả và bền vững trong điều kiện biến đổi khí hậu như hiện nay. - Luận án đã đề xuất một số giải pháp cơ bản bảo tồn và phát huy kiến thức bản địa của người dân thích ứng với lũ trong sản xuất nông nghiệp và đời sống. Giải pháp này có thể được áp dụng trong tỉnh An Giang nói riêng và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long nói chung. 1.6 BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN Luận án dài 290 trang, gồm phần giới thiệu, tổng quan tài liệu, phương pháp nghiên cứu, kết quả thảo luận, kết luận và đề nghị, phần phụ lục. Luận án có 36 bảng, 42 hình, 14 hộp thông tin và 148 tài liệu tham khảo 4
  9. Chương 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN Để thỏa mãn mục tiêu nghiên cứu, nghiên cứu tiếp cận sinh kế bền vững (DFID, 1999) được sử dụng để đánh giá tính dễ tổn thương sinh kế do lũ lụt và những ảnh hưởng của lũ đã được xem xét trong bối cảnh tổn thương của khung Bsinh kế bền vững. Trong nghiên cứu này, tổn thương sinh kế được định nghĩa như tính dễ bị ảnh hưởng khi chịu sự tác động hay một xáo trộn xảy ra trong và ngoài nông hộ có liên quan đến sinh kế nông hộ. Tính dễ bị tổn thương sinh kế trước thay đổi của lũ ở các xã nghiên cứu được tính bằng cách áp dụng cách tính chỉ số LVI được đề xuất bởi Hahn et al.,(2009). Các biến số để tính chỉ số tổn thương là các khả năng tổn thương của cộng đồng khi lũ tác động và được phân loại theo năm nguồn tài sản sinh kế khác nhau trong khung sinh kế bền vững như con người, vật chất, xã hội, tự nhiên và tài chính (Hình 2.1) (Nguồn: Chuyển thể từ DFID, 1999) Hình 2.1 Khung tiếp cận khung sinh kế bền vững trong nghiên cứu 5
  10. 2.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Các thông tin được thu thập bằng cách kết hợp các phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính. Trong đó, phương pháp nghiên cứu định tính bao gồm thực hiện đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân và sử dụng các công cụ sau: lược sử; lịch thời vụ; giản đồ Venn; ma trận xếp hạng khó khăn; và phỏng vấn sâu các cấp lãnh đạo ở địa phương như Sở Tài nguyên Môi trường, Ban Phòng tránh lụt bão, Phòng Tài nguyên Môi trường, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Phó Chủ tịch xã phụ trách về nông nghiệp. Phương pháp nghiên cứu định lượng qua việc phỏng vấn 360 hộ có hơn 50 năm sinh sống tại 6 xã Phú Hữu, Phước Hưng (đầu nguồn), Vĩnh An, An Hòa (giữa nguồn), Vĩnh Phước,Lương An Trà (cuối nguồn). Do đó, các hộ này có đủ thời gian trải nghiệm và tích lũy kinh nghiệm sống tại địa phương, đồng thời có được các kiến thức bản địa đã được áp dụng thành kinh nghiệm sống. Nghiên cứu nhằm tính toán tính dễ bị tổn thương sinh kế trước thay đổi của lũ địa bàn nghiên cứu bằng cách áp dụng chỉ LVI phát triển bởi Hahn et al. (2009). Các thành phần đó là các chỉ số dễ bị tổn thương của cộng đồng để lũ tác động được thể hiện trong (Bảng 2.1). Các thành phần này được phân loại theo 5 tài sản sinh kế khác nhau trong khung sinh kế bền vững: con người, vật chất, xã hội, tự nhiên, tài chính. Tiểu thành phần đã được phát triển như chỉ số theo một thành phần duy nhất được thể hiện trong (Bảng 2.2). Bảng 2.1: Các tiêu chí để đánh giá chỉ số tổn thương của lũ đến sinh kế 6
  11. Nguồn Các yếu tố chính Các yếu tố phụ vốn Con Sức khỏe Tỷ lệ hộ với thành viên có sức khỏe xấu người Tỷ lệ hộ với thành viên có sức khỏe xấu trong mùa lũ Kiến thức và kỹ Tỷ lệ chủ hộ không biết chữ năng Tỷ lệ chủ hộ không tiếp cận được tập huấn ứng phó với lũ. Chiến lược sinh kế Đa dạng hóa sinh kế nông nghiệp Tỷ lệ hộ có nguồn thu nhập chính từ nông nghiệp Tỷ lệ hộ làm hoạt động phi nông nghiệp Tỷ lệ hộ khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên Tỷ lệ hộ đánh bắt cá trong mùa lũ Tỷ lệ hộ không có việc làm trong mùa lũ Tự Đất đai Tỷ lệ hộ không có và ít đất (0-1 ha) nhiên Tỷ lệ hộ có đất trung bình (1-3 ha) Tài nguyên thiên Tỷ lệ hộ không sản xuất lúa vụ 3 (trong nhiên mùa lũ) Tỷ lệ hộ khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên Tỷ lệ hộ bắt cá trong mùa lũ Thảm họa tự nhiên Số người chết do lũ trong năm 2015 và BĐKH Tỷ lệ hộ không nhận được cảnh báo về lũ lụt Độ lệch chuẩn trung bình của mực nước tại Tân Châu Độ lệch chuẩn trung bình lượng mưa Số người chết do lũ trong năm 2000-2015 Xã hội Đặc điểm nông hộ Tỷ lệ lao động phụ thuộc (3-4 người) Tỷ lệ chủ hộ với thành viên nữ Số thành viên trung bình mỗi hộ Tỷ lệ hộ nghèo 7
  12. Tỷ lệ hộ nhận được giúp đỡ khi gặp khó Mạng lưới xã hội khăn Tỷ lệ hộ không cần giúp đỡ Tỷ lệ hộ không tham gia các tổ chức xã hội Nhà ở và điều kiện Vật chất Tỷ lệ hộ có nhà tạm thời sống Tỷ lệ hộ có nhà ở bị ảnh hưởng do lũ Tỷ lệ hộ không đủ đáp ứng nhu cầu vệ sinh Tài Tỷ lệ hộ có vay tiền chính Tỷ lệ hộ có thu nhập dưới hai mươi triệu đồng Tỷ lệ hộ không có nguồn thu nhập trong mùa lũ Bảng 2.2 Nguyên nhân gây ra tổn thương sinh kế ở địa bàn nghiên cứu Tổn Các nguyên nhân yếu tố đóng góp tổn thương sinh kế thương (e) (a) (s) Tỷ lệ hộ có nguồn Tỷ lệ hộ không Tỷ lệ chủ hộ thu nhập chính từ nhận được cảnh không biết chữ nông nghiệp báo về lũ lụt Tổn Tỷ lệ chủ hộ thương Tỷ lệ hộ làm hoạt Thảm họa tự không tiếp cận = sự động phi nông nhiên và biến được tập huấn phơi - sự nghiệp đổi khí hậu ứng phó với lũ nhạy Tỷ lệ hộ không có Số người chết do cảm * Tỷ lệ hộ đánh bắt cá việc làm trong lũ trong năm khả năng trong mùa lũ mùa lũ 200-2015 thích Tỷ lệ hộ không có Tỷ lệ hộ không nghi việc làm trong mùa nhận được cảnh lũ báo về lũ lụt Tỷ lệ lao động Tỷ lệ hộ không có phụ thuộc (3-4 và ít đất (0-1 ha) người) 8
  13. Tổn Các nguyên nhân yếu tố đóng góp tổn thương sinh kế thương Tỷ lệ hộ không đủ Tỷ lệ hộ có đất trung đáp ứng nhu cầu bình (1-3 ha) vệ sinh Tỷ lệ hộ không sản Tỷ lệ hộ không có xuất lúa vụ 3 (trong nguồn thu nhập mùa lũ) trong mùa lũ Tỷ lệ hộ có vay tiền Ghi chú: (e): phơi bày, (a) khả năng thích ứng, (s): sự nhạy cảm Cách tính toán chỉ số LVI: Theo Hahn et al.,(2009), LVI được áp dụng nhằm đánh giá sự tác động của lũ đến tổn thương sinh kế người dân vùng lũ. Chỉ số LVI có hai cách tiếp cận: (1) LVI được thể hiện như một chỉ số hỗn hợp bao gồm bảy yếu tố chính (đặc điểm hộ, chiến lược sinh kế, mạng xã hội, sức khỏe, lương thực, nguồn nước, các thảm họa thiên nhiên và sự thay đổi khí hậu), mỗi yếu tố chính bao gồm một vài chỉ báo hoặc yếu tố phụ; (2) tập hợp bảy yếu tố chính này vào trong ba tác nhân “đóng góp” gồm sự hứng chịu, sự nhạy cảm/tính dễ bị tổn thương và khả năng thích ứng (theo định nghĩa khả năng bị tổn thương của Ủy ban Liên Chính phủ về biến đổi khí hậu. Mỗi yếu tố phụ được đo lường theo mỗi hệ thống khác nhau nên cần được chuẩn hóa để trở thành một chỉ số theo phương trình sau: Sau khi được chuẩn hóa, các yếu tố phụ được lấy trung bình để tính giá trị của mỗi yếu tố chính bằng cách áp dụng phương trình sau: 9
  14. Khi giá trị của các yếu tố chính được xác định, chỉ số tổn thương sinh kế cấp địa phương (xã) được tính toán theo phương trình: Giá trị chỉ số LVI nằm trong khoảng [0,1], LVI càng gần 1 thì mức độ tổn thương càng cao. LVI-IPCC: chỉ số LVI của xã p bằng cách sử dụng khung tổn thương IPCC LVI - IPCCp = (ep – ap) * Sp (có giá trị dao động từ -1 đến 1) Trong đó: -1 là mức tổn thương thấp nhất, 1 là mức tổn thương cao nhất. Chỉ số IPCC: CFP - được định nghĩa gồm những hợp phần chính của mức độ ảnh hưởng (exposure), tính nhạy cảm (sensitivity), và năng lực thích ứng (adaptive capacity) cho mỗi xã p. CFp   i1WMiM pi /  i1WMi  Mpi: hợp phần chính xã p, xác lập chỉ số theo i WMi: trọng số của mỗi hợp phần Hợp phần chính của mức độ ảnh hưởng (e) là biến đổi khí hậu; của năng lực thích ứng (a) là đặc điểm hộ, chiến lược sinh kế và mạng lưới xã hội; mức độ nhạy cảm (s) gồm các hợp phần chính kỹ năng kiến thức và sức khỏe, tài nguyên thiên nhiên và đất, tài chính. 10
  15. Chương 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1 HỆ THỐNG HÓA KIẾN THỨC BẢN CỦA NGƯỜI DÂN THÍCH ỨNG VỚI LŨ Ở ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 3.1.1 Hiện trạng sử dụng kiến thức bản địa của người dân vùng nghiên cứu trong dự báo lũ Các kinh nghiệm đã được người dân sử dụng để dự đoán lũ gồm quan sát diễn biến lũ trong các năm trước; quan sát màu nước, hướng gió; quan sát biểu hiện của một số loài thực vật, động vật, côn trùng. Kết quả cho thấy có sự khác biệt về tỷ lệ người dân sử dụng các dấu hiệu này để làm cơ sở dự báo lũ ở ba vùng nghiên cứu. Ở vùng đầu nguồn có tỷ lệ người dân sử dụng các dấu hiệu này để dự đoán lũ cao hơn so với hai vùng còn lại, tỷ lệ thấp nhất là vùng giữa nguồn. Trong các dấu hiệu để quan sát dự báo lũ thì quan sát màu nước, cây cỏ và động vật được người dân sử dụng nhiều nhất; ít được sử dụng nhất là phương pháp cân nước. Các phương pháp quan sát lũ (chu kỳ hoặc thời gian) và cân nước để dự báo lũ được sử dụng nhiều ở vùng đầu nguồn. Đối với chu kỳ lũ hoặc thời gian lũ, người dân dựa vào các đặc điểm sau (i) mực nước của các tháng 5 và 6 âm lịch, nếu mực nước trong hai tháng này tăng lên thì tháng 7 và tháng 8 âm lịch sẽ có lũ; (ii) cứ 3 năm lũ thấp thì có một năm lũ cao, hoặc cứ 10 năm thì có một đợt lũ cao; (iii) năm Thìn lũ sẽ cao. Dựa vào quan sát màu của nước, nếu trong nước có nhiều tảo (trứng nước) hoặc trứng nước xuất hiện sớm (tháng 5, 6 âm lịch) thì sẽ có lũ. Dự đoán lũ bằng cách cân nước, để biết được lũ năm sau lớn hay nhỏ hơn năm hiện tại, người dân lấy nước vào ngày cuối của năm (ngày 30/12 âm lịch) cho vào một chai sau đó đem cân; đến ngày đầu tiên của năm mới (01/01 âm lịch) lấy nước tại vị trí cũ cho vào chai khác sau đó đem cân rồi so sánh khối lượng 11
  16. hai chai nước, nếu chai nước lấy vào năm nào nặng hơn thì năm đó lũ cao hơn. Trông theo gió hướng nam, nếu gió thổi mạnh kèm theo mưa, nước lên nhanh và chảy mạnh thì năm đó lũ sẽ cao, ngược lại nếu gió thổi ngược thì lũ nhỏ. Quan sát hành vi của động vật như kiến, mối, chim vòng vọc làm tổ trên cây cao; chuột đào hang trên cao; nhạn, cò đi theo đàn; mạng nhện đóng nhiều vào tháng 7 âm lịch thì sắp có mưa lũ lớn. Quan sát thực vật dựa vào (i) ngấn của cây đọt sậy, nếu đọt sậy có 4-5 ngấn vào tháng 5 âm lịch thì lũ lớn, nếu chỉ có 2 ngấn thì lũ nhỏ; (ii) chót lá cây sậy nhiều hơn 2 ngấn thì lũ lớn, nếu có 1 ngấn thì lũ nhỏ; (iii) cây sậy ra lóng dài hơn 50 cm; (iv) cỏ Tây có lá ra gần chóp hay có nhiều ngấn; (v) măng tre mọc sau cao hơn măng mọc trước; (vi) rễ cây cà na ra nhiều. Tuy nhiên, kết quả khảo sát cũng cho thấy phần lớn người dân ở cả ba xã không thể dự báo lũ, trong đó vùng giữa nguồn chiếm tỷ lệ cao nhất (89,4% người dân không thể dự báo lũ), kế đến là vùng cuối nguồn (86,7%) và vùng đầu nguồn (76,7%). Ngoài ra, người dân cũng cho rằng dấu hiệu để dự báo lũ có thay đổi nhưng chưa nhiều. Các dấu hiệu dự báo lũ như quan sát chu kỳ và thời gian lũ, quan sát màu nước, thực vật và cân nước không còn cho kết quả chính xác nữa. Do đó, để có thể dự báo lũ, người dân cần phải kết hợp nhiều thông tin lại với nhau. Người dân cũng cho rằng trong những năm trở lại đây do thời tiết diễn biến bất thường và phức tạp không còn theo quy luật tự nhiên nên độ chính xác của dự đoán lũ và thời tiết không còn cao như trước; cụ thể trong năm 2011 dù măng tre mọc sau không cao hơn măng tre mọc trước nhưng mực nước lũ vẫn cao, hay năm 2015 trong nước có nhiều trứng nước nhưng lại không có lũ (PRA, 2016). 12
  17. 3.1.2 Hiện trạng sử dụng kiến thức bản địa của người dân trong thích ứng với lũ Thông qua việc sống chung với lũ hàng năm, người dân địa phương đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm để dự báo và thích nghi với lũ nhằm để bảo vệ tính mạng, tài sản của người dân trong cuộc sống và trong sản xuất nông nghiệp. Bằng các kinh nghiệm sống chung với lũ từ các mùa lũ trước, người dân đã chủ động phòng tránh và nhằm giảm thiệt hại do lũ gây ra. Trước tiên, người dân vùng lũ biết dựng nhà theo kiểu nhà sàn có trụ nâng; khi có biểu hiện nước dâng thì người dân chủ động nâng sàn nhà lên. Đối với sản xuất nông nghiệp, người dân chủ động thay đổi lịch thời vụ, giống canh tác, kỹ thuật bón phân, làm đất và thu hoạch; người dân cũng biết cách bảo vệ vật nuôi trong mùa lũ bằng việc đóng bè chuối, dùng rơm và đất sình trải lên trên, cho gia súc, gia cầm lên trên bè, sau khi lũ rút các bó rơm này được dùng để làm phân hữu cơ bón cho cây trồng. Trong đánh bắt thủy sản người dân trong cả ba vùng nghiên cứu dựa vào mực nước, quan sát các loại cá đánh bắt được để dự đoán các loài cá sẽ hiện diện trong các ngày tiếp theo. Trước tình hình lũ thay đổi bất thường người dân ở ba vùng nghiên cứu đã thay đổi cách dự báo lũ. Khác với trước đây, khi dự báo lũ, người dân thường chú ý đến các dấu hiệu tự nhiên để dự đoán nhưng hiện nay họ đã biết kết hợp kiến thức bản địa cùng với theo dõi dự báo lũ và diễn biến của lũ trên các phương tiện truyền thông để tìm cách ứng phó thích hợp. Phương thức này đã được hầu hết người dân ở cả ba vùng chọn lựa (93.3%) Thành lập nhà trẻ di động (nhà nổi) có nghĩa là tập trung trẻ em vào một điểm để tránh lũ có người lớn thay nhau trông trẻ với mục đích giúp cho cha mẹ trẻ an tâm làm việc trong mùa lũ. Tuy nhiên, trong ba vùng nghiên cứu chỉ có vùng đầu nguồn người dân thành lập nhà trẻ di động này, hai vùng còn lại thì không. Nguyên nhân có thể là do ở khu vực đầu nguồn nên lũ luôn ngập sâu hơn hai vùng còn lại, người dân ở vùng này 13
  18. thường tận dụng mùa lũ để khai thác thủy sản tự nhiên, thêm vào đó do khả năng ngập sâu nên thường thiệt hại về tính mạng nhất là trẻ em thường cao hơn hai vùng còn lại. Do đó, nhà trẻ di động này giúp giảm bớt thiệt hại về tính mạng của trẻ trong mùa lũ. Sống trên nhà sàn, đây là phương thức thích nghi với lũ đã được người dân vùng lũ sử dụng từ rất lâu. Từ xưa, người dân vùng lũ đã biết dựng nhà theo kiểu nhà sàn có trụ nâng; khi có biểu hiện nước dâng thì người dân chủ động nâng sàn nhà lên. Tuy nhiên, đối với phương thức thích nghi này thì có khác nhau về tỷ lệ người dân sử dụng ở ba khu vực nghiên cứu, trong đó, vùng đầu nguồn có 93.3% hộ phỏng vấn lựa chọn, trong khi ở vùng giữa và cuối nguồn chỉ có 80% hộ dân sử dụng biện pháp này. Kết quả cũng chỉ ra rằng ở vùng lũ cao đa số người dân ở nhà sàn có độ cao từ 1,6-2,9m chiếm tỷ lệ 53,3% và có nhà sàn trên 3m chiếm tỷ lệ 6,7% cao hơn 2 vùng còn lại ở vùng lũ trung bình và lũ thấp. Ngược lại người dân ở vùng lũ trung bình và lũ thấp có nhà sàn từ 1,2-1,5 m chiếm tỷ lệ 46,7% và 33,3% cao hơn vùng lũ cao. Điều này cho thấy những người dân ở vùng lũ cao có mực nước lũ cao nên họ cất nhà sàn cao hơn với vùng lũ trung bình và lũ thấp. Trong từng vùng, người dân không có xu hướng thay đổi độ cao của sàn nhà trong tương lai chiếm 50% vì người dân cho rằng họ đã lấy mốc của 2 lũ lớn gần đây để làm nhà lại là năm 2000, 2011. Bên cạnh đó, có 35,6% người dân trong vùng nghiên cứu muốn nâng xu hướng nâng nhà lên cao hơn nữa vì người dân cho rằng diễn biến thời tiết rất phức tạp nên những năm sau có thể lũ cao năm 2000 và năm 2011 và rất ít người có xu hướng ngược lại . 3.1.3 Hiện trạng sử dụng kiến thức bản địa của người dân trong sản xuất nông nghiệp thích nghi với lũ Qua kết quả khảo sát cho thấy nông dân ở ba vùng nghiên cứu có nhiều kinh nghiệm thích ứng với lũ trong sản xuất nông nghiệp, cụ thể người dân biết dựa vào mực nước lũ của từng năm 14
  19. để thay đổi lịch thời vụ, chọn giống ngắn ngày, kỹ thuật bón phân, kỹ thuật làm đất, kỹ thuật thu hoạch cho phù hợp. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy người dân rất cần tiếp cận thông tin từ phương tiện truyền thông một cách nhanh để thích ứng với lũ trong sản xuất nông nghiệp trong điều kiện biển đổi khí hậu bởi vì hiện nay thông tin thường cung cấp cho họ rất chậm trễ nên không có khả năng để thích ứng. Ngoài ra, trình độ học vấn trung bình của các nông hộ không cacòn thấp, chủ yếu là không biết chữ hoặc cấp 1, cấp 2 nên phần nào đã ảnh hưởng đến việc tiếp thu khoa học kỹ thuật vào sản xuất để thích ứng với biến đổi khí hậu. Mặt khác, đa số nông dân sản xuất nông nghiệp nói chung và canh tác việc trồng lúa nói riêng thường làm theo kinh nghiệm không theo khuyến cáo của các nhà khoa học, vì thế người nông dân không có thái độ chắc chắn nên không theo khuyến cáo và hướng dẫn của nhà chuyên môn. 3.2 ĐÁNH GIÁ TÍNH PHÙ HỢP CỦA KIẾN THỨC BẢN ĐỊA MÀ NGƯỜI DÂN SỬ DỤNG TRONG THÍCH ỨNG VỚI LŨ VÀ SXNN Ở ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 3.2.1 Đánh giá tính phù hợp của kiến thức bản địa trong dự báo lũ lụt Kết quả cho thấy người dân dự báo lũ lụt theo xếp hạng ưu tiên thứ nhất là hướng gió, thứ hai đến dựa vào động vật, thứ ba là dựa vào chu kỳ và thời gian lũ, thứ tư màu nước, thứ sáu là thực vật. Người dân ưu tiên dựa vào hướng gió và động vật vẫn còn theo quy luật của tự nhiên nên vẫn phù hợp và chính xác nên bảo tồn và phát huy kiến thức này. Còn dựa vào chu kỳ và thời gian lũ, màu nước thì không còn chính xác và phù hợp như trước kia nữa do tác động của con người. 3.2.2 Đánh giá tính phù hợp kiến thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp và đời sống Kết quả nghiên cứu đã tổng hợp được 39 kiến thúc bản địa của người dân thích ứng với lũ trong sản xuất nông nghiệp và đời sống. Trong đó có 31/39 kiến thức bản địa của người vẫn 15
  20. còn chính xác và phù hợp cần bảo tồn và phát huy các kiến thức này cho cộng đồng địa phương. Tuy nhiên, những kiến thức này chưa được ghi chép cụ thể và lưu trữ phù hợp để truyền lại cho các hệ sau và chia sẻ rộng rãi trong cộng đồng. Bên cạnh đó, cũng có 8/39 kiến thức bản địa của người dân không còn phù hợp và đã sai lệch so với hiện nay cần nên xem xét trong điều kiện hiện tại do tác động của con người và biến đổi khí hậu nên khả năng dự báo lũ của người dân cũng giảm, chỉ có một số lượng nhỏ người dân có thể dự đoán được lũ, thời tiết. Nên cần tăng cường kiến thức và khuyến khích người dân kết hợp giữa kiến thức bản địa và kiến thức khoa học để giảm tối đa các thiệt hại do lũ gây ra. 3.3 ĐÁNH GIÁ TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG DO LŨ ĐẾN SINH KẾ CỦA NÔNG HỘ Ở VÙNG TRONG VÀ NGOÀI ĐÊ BAO 3.3.1 Đánh giá tính dễ bị tổn thương do lũ đến sinh kế của nông hộ ở vùng ngoài đê bao Qua kết quả phân tích các nguồn vốn và các chỉ số tổn thương sinh kế (LVI) từ 10 hợp phần chính, 30 tiểu hợp phần và 5 nguồn vốn cho thấy vùng đầu nguồn là khu vực dễ bị tổn thương nhất. Trong năm nguồn vốn trên thì nguồn vốn tự nhiên, nhân lực, tài chính và xã hội là những nguồn vốn mà cả ba vùng đều có chỉ số tổn thương cao, trái lại nguồn vốn vật chất có chỉ số tổn thương thấp nhất (Hình 3.1) Cụ thể chỉ số tổn thương theo trung bình trọng số của H, N, S, P, F (trong đó H - vốn con người; N - vốn tự nhiên; S - vốn xã hội; P - vốn vật chất và F - vốn tài chính) ở xã Phú Hữu là cao nhất: 0,390, kế đến là xã Vĩnh Phước: 0,331; và thấp nhất là xã Vĩnh An: 0,287. Giá trị các hợp phần của LVI dao động trong khoảng từ 0 (mức độ tổn thương thấp) ở trung tâm của hình đến 0,5 (mức độ tổn thương lớn nhất) ở vùng ngoài và khoảng dao động là 0,1. 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2