intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Văn hóa dân gian: Lễ hội bà chúa xứ của người Việt ở Nam Bộ

Chia sẻ: Trần Văn Yan | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

89
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm nhận diện đầy đủ về lễ hội Bà Chúa Xứ Núi Sam trong bối cảnh hiện nay. Chỉ ra sự biến đổi trên những phương diện cụ thể về không gian, thời gian, chủ thể cũng như cấu trúc, chức năng của lễ hội. Từ đó làm rõ thêm quan điểm sáng tạo truyền thống gắn với lễ hội. Phân tích, chỉ rõ vai trò của nhà nước; vai trò chủ động của cộng đồng; của phát triển du lịch; sự thỏa hiệp giữa nhà nước và cộng đồng trong quá trình biến đổi của lễ hội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án tiến sĩ Văn hóa dân gian: Lễ hội bà chúa xứ của người Việt ở Nam Bộ

  1. VIỆN HẦN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI BÙI THỊ NGỌC PHƯƠNG LỄ HỘI BÀ CHÚA XỨ CỦA NGƯỜI VIỆT Ở NAM BỘ Chuyên ngành: Văn hóa dân gian Mã số: 9229040 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA DÂN GIAN Hà Nội, 2018
  2. Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Phạm Lan Oanh 2. TS. Phú Văn Hẳn Phản biện 1: PGS.TS. Bùi Hoài Sơn Phản biện 2: TS. Đỗ Lan Phương Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại vào hồi………..….giờ…………phút, ngày………tháng……….năm……………….. Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Mang trong mình những giá trị văn hóa truyền thống sâu sắc, lễ hội Bà Chúa Xứ Núi Sam - Châu Đốc phản ánh một cách sinh động về đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội của cộng đồng cư dân Nam Bộ nói chung, cư dân vùng Bảy Núi nói riêng. Đặc biệt, từ sau năm 2001, khi lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam được nhà nước công nhận là lễ hội cấp quốc gia, các hoạt động tín ngưỡng trở nên sinh động, sức lan tỏa vượt ra khỏi phạm vi trong nước mà minh chứng là lượt khách quốc tế hành hương về đây ngày một gia tăng. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về Lễ hội Bà Chúa Xứ Núi Sam với các nội dung đã được đề cập như: lịch sử lễ hội; những giai thoại về Bà Chúa Xứ; những nội dung của lễ thức - lễ nghi; sự giao thoa văn hóa của bốn dân tộc anh em Kinh, Hoa, Chăm, Khmer trong tín ngưỡng và trong lễ hội; vai trò của lễ hội trong đời sống cộng đồng cư dân địa phương… Với đề tài này, NCS mong muốn phác họa một cách tổng quan nhất về lễ hội Bà Chúa xứ Núi Sam trong giai đoạn hiện nay với nhiều biến đổi mạnh mẽ, nhất là từ sau khi được nhà nước công nhận là lễ hội cấp quốc gia vào năm 2001. Qua đó, chỉ rõ vai trò của nhà nước đối với sự biến đổi của lễ hội; vai trò của cộng đồng trong việc bảo tồn lễ hội; yếu tố du lịch trong sự biến đổi của lễ hội Bà Chúa Xứ Núi Sam. 2. Mục đích nghiên cứu - Nhận diện đầy đủ về lễ hội Bà Chúa Xứ Núi Sam trong bối cảnh hiện nay. - Chỉ ra sự biến đổi trên những phương diện cụ thể về không gian, thời gian, chủ thể cũng như cấu trúc, chức năng của lễ hội. Từ đó làm rõ thêm quan điểm sáng tạo truyền thống gắn với lễ hội. - Phân tích, chỉ rõ vai trò của nhà nước; vai trò chủ động của cộng đồng; của phát triển du lịch; sự thỏa hiệp giữa nhà nước và cộng đồng trong quá trình biến đổi của lễ hội.
  4. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Tín ngưỡng Thờ Mẫu (Bà Chúa Xứ) ở Nam Bộ thông qua Lễ hội Bà Chúa Xứ Núi Sam tỉnh An Giang trong bối cảnh hiện nay. Phạm vi nghiên cứu về không gian: tập trung nghiên cứu lễ hội Bà Chúa Xứ ở Núi Sam thuộc thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang. Phạm vi nghiên cứu về thời gian: đề tài nghiên cứu Lễ hội Bà Chúa Xứ theo cả hai chiều đồng đại và lịch đại. Đề tài tập trung chú ý các mốc thời gian: 2001, 2013, 2015, 2017. Trong đó, năm 2001 là mốc quan trọng trong nghiên cứu, vì đánh dấu lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam được nâng cấp thành lễ hội cấp quốc gia, từ đây bắt đầu nhiều những thay đổi trong tổ chức lễ hội. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp thu thập, tổng hợp, nghiên cứu tư liệu nhằm kế thừa những thành quả của các công trình, nghiên cứu đi trước. - Phân tích, so sánh tư liệu để tìm ra những thông tin quý, giúp cho đề tài về mặt cứ liệu khoa học. - Phương pháp điền dã, quan sát tham dự, ghi âm, ghi hình nhằm mô tả lại nhịp sống sinh động của lễ hội qua từng ngày, cũng như các hoạt động ngưỡng vọng vô cùng phong phú của du khách. - Phương pháp phỏng vấn và phỏng vấn sâu để thu thập thông tin từ nhiều đối tượng tham gia lễ hội. - Phương pháp điều tra hồi cố giúp phát hiện ra nhiều thông tin thú vị, giúp ích rất nhiều cho công tác nghiên cứu cũng như sự hiểu biết của bản thân. - Điều tra bằng bảng hỏi được tác giả sử dụng với số lượng 250 mẫu ngẫu nhiên từ khách hành hương về miếu Bà. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn Ý nghĩa khoa học: Đề tài được nghiên cứu sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm xu hướng biến đổi tất yếu của lễ hội nói chung, lễ hội Vía Bà nói riêng trong xã hội đương đại, góp phần khẳng định về mặt lý luận
  5. sự tồn tại hay hồi sinh của lễ hội cổ truyền trong vài thập kỷ gần đây trong đời sống tinh thần của con người. Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần nhận diện xu hướng phát triển lễ hội những năm gần đây và nhu cầu đa dạng của du khách khi hành hương về miếu Bà Chúa Xứ. Những giá trị đang dần biến đổi trước xu hướng phát triển của thời đại, đặc biệt là dưới sự tác động của quản lý nhà nước, kinh tế thị trường và phát triển du lịch để từ đó có những điều chỉnh, định hướng, kiểm soát kịp thời. 6. Đóng góp của luận án - Đề tài nghiên cứu những biến đổi của lễ hội Bà Chúa Xứ trong những năm vừa qua, nhất là từ 2001 cho đến 2017 một cách tương đối toàn diện, khách quan và hệ thống; góp phần nhận diện lễ hội trong xu thế phát triển và hội nhập. - Góp phần khẳng định một mô hình quản lý kết hợp giữa nhà nước và nhân dân là một mô hình hiệu quả, phát huy trách nhiệm các bên, phù hợp với xu thế phát triển và mang tính bền vững cao. - Khẳng định sự kết hợp giữa lễ hội và du lịch cho ra loại hình du lịch tâm linh là việc làm đúng đắn và phù hợp với sự phát triển của thời đại cũng như nhu cầu ngày càng cao của du khách. 7. Kết cấu của luận án Bố cục của luận án, ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án có bốn chương như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu. Chương 2: Tín ngưỡng và Lễ hội Bà Chúa Xứ Núi Sam Châu Đốc. Chương 3: Lễ hội Bà Chúa Xứ và những chiều cạnh biến đổi. Chương 4: Một vài bàn luận từ những biến đổi của lễ hội Bà Chúa Xứ Núi Sam.
  6. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 1.1. Cơ sở lý luận của đề tài 1.1.1. Cơ sở lý thuyết Câu hỏi nghiên cứu cần được giải quyết trong luận án là: - Lễ hội Bà Chúa Xứ biến đổi như thế nào trong bối cảnh hiện nay? - Vai trò của Nhà nước đã thể hiện như thế nào trong sự biến đổi của lễ hội Bà Chúa Xứ? - Mối quan hệ giữa du lịch và lễ hội được thể hiện như thế nào trong lễ hội Vía Bà? - Vai trò chủ thể của cộng đồng địa phương được thể hiện như thế nào trong bối cảnh phát triển của lễ hội và trong mối quan hệ với chính quyền? Giả thiếtt nghiên cứu của đề tài là: - Lễ hội Bà Chúa Xứ biến đổi mạnh mẽ từ sau khi được nâng cấp thành lễ hội cấp quốc gia vào năm 2001. Trong sự biến đổi mạnh mẽ đó, vai trò tác động của nhà nước mang tính chi phối. - Đã có sự thỏa hiệp giữa các chủ thể của lễ hội mà cụ thể ở đây là nhà nước và cộng đồng cư dân địa phương. Bên cạnh đó, du lịch đã có những tác động to lớn trong biến đổi lễ hội Bà Chúa Xứ. 1.1.1.1. Lý thuyết biến đổi văn hóa Biến đổi văn hóa được hiểu là quá trình vận động của tất cả các xã hội, chỉ sự thay đổi của các cơ chế trong một cấu trúc văn hóa có từ trước. Từ cuối thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI, khuynh hướng nghiên cứu biến đổi văn hóa trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, đặc biệt diễn ra ở các xã hội đang chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, từ xã hội truyền thống - khép kín sang xã hội hiện đại - hội nhập thật sự hấp dẫn các nhà nhân học, nhà nghiên cứu văn hóa trong và ngoài nước. Tuy tất cả đều cho rằng biến đổi là “hằng số” của văn hóa, là một thực tế không thể đảo ngược, song các tác giả đều khẳng định sự bền bỉ của những giá trị truyền thống trước những biến đổi mạnh mẽ và nó sẽ chi phối sự lựa chọn của từng xã hội cụ thể về phương thức, tính chất, quy mô biến đổi của văn hóa. Chính lẽ đó, càng biến đổi, người ta lại càng trân
  7. quý các giá trị truyền thống, những nét văn hóa cổ xưa, quay về tìm lại, gìn giữ để lưu truyền cho muôn đời sau. Áp dụng các luận điểm trên vào quá trình nghiên cứu biến đổi lễ hội Bà Chúa Xứ tại Núi Sam – Châu Đốc NCS sẽ trình bày những biểu hiện của sự biến đổi trong lễ hội Vía Bà từ nhiều chiều cạnh khác nhau, tìm hiểu các tác nhân trong đó chú trọng đến vai trò chủ thể của các bên liên quan. Tiếp theo là việc lý giải những biến đổi đó nói lên điều gì từ thực tế của sự phát triển, của Châu Đốc với tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, của đời sống cộng đồng cũng như khách hành hương. 1.1.1.2. Lý thuyết Sáng tạo truyền thống Nhà nhân học E. Hobsbawm cho rằng, mặc dù tính liên tục và kế thừa quá khứ của truyền thống được đề cao, nhưng thực ra truyền thống lại bao gồm một tiến trình sáng tạo ra lễ nghi. Nguyễn thị Hiền cho rằng: sự sáng tạo đó thể hiện trên cả hai bình diện về thời gian và không gian. Đặt nó trong bối cảnh tác động bởi yếu tố nhà nước cũng như mối quan hệ với quần chúng nhân dân – chủ thể của lễ hội. Từ những quan điểm nêu trên, NCS áp dụng lý thuyết sáng tạo truyền thống vào công trình của mình làm hệ quy chiếu, góp phần khẳng định: lễ hội Bà Chúa Xứ núi Sam – Châu Đốc có từ lâu đời, song không phải tất cả các lễ thức lễ nghi đều được bảo tồn vẹn nguyên từ hai thế kỷ qua mà nó được sáng tạo không ngừng để thích ứng với điều kiện kinh tế xã hội hiện thời. 1.1.2. Các khái niệm có liên quan Một số khái niệm liên quan mà Luận án sử dụng: Tín ngưỡng; Tôn giáo; Lễ hội (khái niệm, cấu trúc, thời gian, không gian...) 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.2.1. Nghiên cứu về lễ hội Lễ hội truyền thống được nghiên cứu từ khá sớm và có rất nhiều thành tựu từ thời Pháp thuộc tới hiện nay ở nhiều chiều cạnh. Mặc dù còn những tranh luận nhất định, song tất cả những nghiên cứu nêu trên đều là những tài liệu quý giá, giúp tác giả tiếp cận ban đầu và làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu của mình. 1.2.2. Nghiên cứu về lễ hội Bà Chúa Xứ Núi Sam Những công trình nghiên cứu về lễ hội Bà Chúa Xứ Núi Sam (Châu Đốc - An Giang) đã phác họa nên bức tranh sinh động của tín
  8. ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ và đặt trong sự so sánh đối chiếu với thờ Mẫu ở Bắc Bộ và Trung Bộ để tìm ra nét tương đồng và dị biệt; chứng minh tính đa lớp văn hóa trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ. Ngoài ra, có rất nhiều công trình xem lễ hội Bà Chúa Xứ như tâm điểm của công tác bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc nói chung, tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ nói riêng. Vấn đề kinh tế thị trường trong hoạt động lễ hội tín ngưỡng và sự tác động qua lại giữa lễ hội và du lịch với trung tâm là lễ hội Bà Chúa Xứ Núi Sam cũng là nội dung được đề cập trong nhiều công trình. Bên cạnh đó, du lịch tâm linh - du lịch lễ hội cũng được các tác giả đề cập như một hiện tượng xã hội của thời kỳ mới, thời kỳ của toàn cầu và hội nhập; mang theo những tác động tích cực và tiêu cực đến lễ hội Bà Chúa Xứ và tín ngưỡng thờ Chúa Xứ Thánh Mẫu. Luận án Lễ hội Bà Chúa Xứ của người Việt ở Nam Bộ nghiên cứu biến đổi của lễ hội Bà Chúa Xứ Núi Sam tỉnh An Giang trên cơ sở kế thừa những kết quả của các công trình nghiên cứu đi trước, tiếp tục bàn luận những vấn đề nảy sinh trong bối cảnh hiện nay. Thông qua miêu thuật diễn trình của lễ hội có so sánh đối chiếu với diễn trình lễ hội trước đây để chỉ ra sự biến đổi của lễ hội. Đề tài cũng đi sâu nghiên cứu vai trò của nhà nước trong sự biến đổi của lễ hội, bằng những tác động của hoạt động quản lý nhà nước (ban hành các quy hoạch, kế hoạch, chính sách, quyết định...) đến sự biến đổi của lễ hội trong sự thỏa hiệp với cộng đồng người dân địa phương cũng như tác động của du lịch với sự biến đổi của lễ hội. 1.3. Tổng quan địa bàn nghiên cứu 1.3.1. Khái quát về tỉnh An Giang 1.3.1.1. Lược sử hình thành An Giang là tỉnh ở miền Tây Nam thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, xưa là vùng đất Tầm Phong Long, đến 1757 quốc vương Chân Lạp Nặc Tôn dâng đất này, đặt làm đạo Châu Đốc. Vùng đất này ban đầu hoang vu, sau khi Gia Long lên ngôi chiêu mộ dân đến ở, nên gọi là Châu Đốc Tân Cương. An Giang có diện tích tự nhiên 3.424km2. Phía Tây Bắc giáp vương quốc Campuchia (104km), Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang (70km), Nam giáp Cần Thơ (45km), Đông giáp tỉnh Đồng Tháp
  9. (107km). Dân số toàn tỉnh là 2.159.900 người (thống kê 2016). Toàn tỉnh chia thành 08 huyện, 01 thị xã và 02 thành phố. Vùng đất có bốn dân tộc sinh sống là: Việt, Hoa, Chăm, Khmer. 1.3.1.2. Đời sống kinh tế, văn hóa – xã hội Trong lĩnh vực kinh tế, người dân An Giang, ngoài trồng lúa và hoa màu, họ còn có nghề đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản, với đặc trưng là các làng bè và các hầm (ao) nuôi cá. Bên cạnh đó, với đặc điểm là địa bàn biên giới cũng như hệ thống kênh rạch chằng chịt, nghề buôn bán ở đây vừa mang nét đặc thù của khu vực ĐBSCL vừa mang trong mình nét đặc thù riêng với hình thức buôn bán thị tứ kết hợp buôn bán trên sông. Văn hoá ẩm thực của vùng đất An Giang cũng vô cùng phong phú. Nét riêng trong ẩm thực nơi đây có lẽ là các loại mắm, khô và các sản phẩm của cây thốt nốt. Văn hoá cư trú của người An Giang cũng tương đối đa dạng do địa hình nơi đây. Văn hoá nghệ thuật ở An Giang đặc sắc với hệ thống các lễ hội truyền thống của các dân tộc, nét sinh hoạt mang đậm bản sắc riêng có của từng cộng đồng người: lễ hội đua bò Bảy Núi, lễ hội miếu Bà Chúa xứ núi Sam, các lễ kỳ yên, lễ hội của người Chăm...... Về tôn giáo tín ngưỡng, An Giang có khá nhiều tôn giáo du nhập: đạo Phật, đạo Hồi, Công giáo, đạo Tin Lành. Bên cạnh đó, An Giang còn có một số tôn giáo bản địa như: đạo Cao Đài, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo. 1.3.2. Khái quát về thành phố Châu Đốc Châu Đốc nằm sát cạnh biên giới, là cửa ngõ giao lưu với hai tỉnh Tà Keo, Kandal và thủ đô Phnom Pênh của Campuchia, diện tích tự nhiên: 99,95km2, dân số 104.134 người. Châu Đốc cách tỉnh lỵ Long Xuyên 54km theo đường quốc lộ 91. Đông Bắc giáp huyện An Phú (8,3km), Đông giáp huyện Phú Tân (3,6km), Nam giáp huyện Châu Phú (14,5km), Tây giáp huyện Tịnh Biên (10km), Tây Bắc giáp Campuchia.. Châu Đốc có vị trí thuận tiện trong giao thương, phát triển kinh tế đồng thời có vị trí quan trọng trong việc bảo vệ an ninh quốc phòng, có thế mạnh đặc biệt là du lịch. Châu Đốc là vùng đất có bề dày lịch sử, đậm dấu ấn văn hóa phương Nam thời mở cõi. Ngoài nông nghiệp là ngành kinh tế phát triển mạnh và có từ lâu đời, thương mại và dịch vụ cũng là ngành
  10. mũi nhọn, đóng góp trên 60% cơ cấu kinh tế của thành phố Châu Đốc. Sau giải phóng, Châu Đốc là thị xã thuộc tỉnh An Giang. Đến 2013, Châu Đốc được Chính phủ quyết định là thành phố trực thuộc tỉnh. Đến 2015, Châu Đốc lại được Thủ tướng ký quyết định công nhận là đô thị loại 2. Châu Đốc nổi danh là xứ hành hương với hàng trăm chùa chiền, đình miếu lớn nhỏ; với nhiều lễ hội truyền thống: lễ Kỳ Yên đình Châu Phú, đình Vĩnh Ngươn, lễ giỗ Thoại Ngọc Hầu và đặc biệt là lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam. Hàng năm, từ tháng giêng đến tháng tư âm lịch, du khách đổ về tham quan, dự lễ hội rất đông đảo. Tiểu kết Châu Đốc được mệnh danh là cố đô của mảnh đất An Giang bởi hơn trăm năm làm tỉnh lỵ và bởi vị trí chiến lược về mặt quân sự, được triều đình nhà Nguyễn xác định là vùng “Trọng trấn cõi Nam”. Ngày nay, Châu Đốc còn nổi danh là xứ hành hương với nhiều chùa chiền, đình, miếu. Hành hương đến với Châu Đốc, du khách bắt gặp sừng sững một ngọn núi Sam linh thiêng với nhiều những giai thoại có từ thuở khai hoang, lập ấp. Một trong những giai thoại ấy, lưu truyền mãi cho đến ngày nay, mang tầm ảnh hưởng sâu rộng, tạo nên tín ngưỡng đặc trưng vùng Bảy Núi đó là giai thoại về Bà Chúa Xứ cùng tín ngưỡng thờ Bà. Sự hấp dẫn của một loại hình tín ngưỡng dân gian bản địa trong một không gian văn hóa tâm linh đặc trưng: có núi, có sông, có bạt ngàn đồng lúa và có đường biên giới với nước bạn Campuchia đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu đến đây tìm hiểu. Họ đã dày công nghiên cứu, làm phong phú kho tàng các công trình về Bà Chúa Xứ và lễ hội Vía Bà ở Núi Sam, Châu Đốc. Đây chính là nguồn tư liệu quý cho những ai quan tâm nghiên cứu về lễ hội và tín ngưỡng thờ Bà ở Nam Bộ. Theo chiều dài lịch sử của đất nước, lễ hội Bà Chúa Xứ Núi Sam cũng có nhiều lúc biến đổi thăng trầm: lúc bị mai mộ, lãng quên; khi bị cấm đoán,bắt bớ; lại có lúc hồi sinh một cách mạnh mẽ nhất là từ sau khi
  11. đất nước đổi mới. Tuy nhiên, năm 2001 (năm lễ hội được nâng tầm quốc gia) mới thật sự là mốc thời gian quan trọng, ghi đậm dấu ấn của sự thay đổi trên nhiều bình diện. Luận án nghiên cứu những biến đổi của lễ hội dựa trên cơ sở một số khái niệm và lý thuyết nghiên cứu. Những khái niệm tín ngưỡng – tôn giáo, lễ hội được sử dụng trong đề tài mang tính công cụ, như là sự thống nhất về mặt thuật ngữ hay tên gọi. Hai lý thuyết về Biến đổi văn hóa và Sáng tạo truyền thống được sử dụng chính trong luận án nhằm đi tìm những biểu hiện của sự biến đổi lễ hội, nguyên nhân của sự biến đổi, hình thức biến đổi trên cơ sở kế thừa có chọn lọc giá trị văn hóa truyền thống và sáng tạo thêm các gái trị văn hóa mới phù hợp với bối cảnh xã hội mà lễ hội tồn tại.
  12. Chương 2 TÍN NGƯỠNG VÀ LỄ HỘI BÀ CHÚA XỨ NÚI SAM CHÂU ĐỐC 2.1. Khái quát tín ngưỡng Bà Chúa Xứ ở Nam Bộ 2.1.1. Tín ngưỡng Bà Chúa Xứ ở Nam Bộ Tín ngưỡng thờ Mẫu – một loại hình tín ngưỡng truyền thống bản địa, tồn tại lâu đời ở Việt Nam. Ở Nam Bộ, Mẫu là tích hợp của nhiều Nữ thần trong đó, đặc trưng điển hình là hai vị Thánh Mẫu “ngự” ở hai vùng trung tâm: Đông Nam Bộ là Linh Sơn Thánh Mẫu và Tây Nam Bộ là Chúa Xứ Thánh Mẫu. Tín ngưỡng thờ mẫu ở Nam Bộ là sự kế thừa, tiếp thu, tích hợp và sáng tạo của cư dân trong quá trình khai hoang, mở cõi và giao lưu văn hóa. Về nguồn gốc của tín ngưỡng Bà Chúa Xứ, một số nhà khoa học cho rằng tín ngưỡng này xuất phát từ tục thờ vợ của thần Shiva trong Bàlamôn giáo với hai hoá thân đối lập nhau. Có người lại cho rằng nguồn gốc của tín ngưỡng Bà Chúa Xứ là tục thờ Bà Mẹ Xứ Sở (Pô Naga) của người Chăm; Dù cho các ý kiến đồng thuận hay trái chiều về nguồn gốc của tín ngưỡng thờ Bà ở Nam Bộ, thì tất cả đều thống nhất rằng: tín ngưỡng thờ Bà là tín ngưỡng bản địa, tồn tại lâu đời trên đất nước Việt dưới nhiều dạng thức khác nhau đối với từng cộng đồng dân tộc khác nhau. Tất cả đều bắt nguồn từ tâm thức trọng nữ, hướng nội, từ văn hóa trọng tình hơn trọng lý của người Việt. Bà Chúa Xứ có thể xem là vị thần hội tụ hình ảnh của các nữ thần Việt và phi Việt khác nhau: Bà Chúa Liễu cùng các Mẫu Tam Phủ - Tứ Phủ của người Việt, Bà Pô Inư Naga của người Chăm; Bà Thiên Y A Na nửa Việt nửa Chăm, Bà Đen (Neang Khmau) và Bà Trắng (Neang Hingthorni) của người Khmer; Bà Thiên Hậu của
  13. người Hoa - tất cả hội tụ vào một Mẹ duy nhất trong tâm thức và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. 2.1.2. Truyền thuyết Bà Chúa Xứ và những câu chuyện linh thiêng liêng quan đến Bà 2.1.2.1. Truyền thuyết về Bà Chúa Xứ Liên quan đến truyền thuyết về Bà Chúa Xứ, có học giả cho rằng Bà là người Việt, có người lại cho rằng Bà là người Khmer, người Chăm, hay là người đến từ Bàlamôn giáo. Đã có khá nhiều những câu chuyện lạ về pho tượng cũng như sự xuất hiện của Bà. Tất cả đều mang tính ly kì linh thiêng làm cho hình ảnh của Bà trở nên huyền bí trong mọi thời đại. 2.1.2.2. Những câu chuyện linh thiêng liên quan đến Bà Lưu truyền trong dân gian có vô số những mẩu chuyện (ghi chép có, truyền miệng có) liên quan tới sự linh thiêng của Bà Chúa xứ Núi Sam. Từ những câu chuyện trên cho ta thấy lòng ngưỡng mộ, tôn sùng của nhân dân đối với “Bà” rất lớn. 2.2. Các di tích của vùng Núi Sam liên quan đến lễ hội Núi Sam: Núi Sam cao 284m, chu vi 5.200m, Núi Sam sở hữu một cảnh quan thiên nhiên ngoạn mục thu hút hàng triệu lượt khách từ khắp mọi miền đất nước tham quan mỗi năm. Núi Sam nổi tiếng không phải ở sự tươi đẹp với non xanh nước biếc, mà là ở sự thiêng liêng mầu nhiệm với miếu Bà Chúa Xứ, chùa Tây An, chùa Hang, lăng Thoại Ngọc Hầu…, trong đó miếu Bà Chúa Xứ và lễ hội Vía Bà luôn là tâm điểm. Chùa Tây An: do Tổng Đốc An Hà Doãn Uẩn (tên thật là Doãn Ôn) xây dựng năm 1847. Tên Tây An mang ý nghĩa: mong ước bờ cõi phía Tây được an định. Qua nhiều lần trùng tu, chùa trở thành một công trình kiến trúc Ấn - Hồi độc đáo của khu vực Núi Sam. Chùa có nhiều tượng nhất An Giang, với khoảng hơn 200 pho tượng đã được Bộ
  14. Văn hoá Thông tin xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia (quyết định số: 92/VH.QĐ ngày 10 tháng 07 năm 1980) và được xác lập kỷ lục Việt Nam vì là ngôi chùa có kiến trúc kết hợp phong cách nghệ thuật Ấn Độ và kiến trúc cổ dân tộc đầu tiên tại Việt Nam. Đình Vĩnh Tế: Đình thần Vĩnh Tế là nơi thờ đức công thần Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu), người có công trấn giữ và khai phá vùng đất phía Tây Nam. Ông là người được vua Minh Mạng ấn chỉ phong sắc thần làng Vĩnh Tế ngày 15-5-1820. Đình nằm cạnh quốc lộ 91, thuộc ấp Vĩnh Tây I, phường Núi Sam. Tổng diện tích đình là 3.760m², trong đó diện tích xây dựng là 745m². Lăng Thoại Ngọc Hầu: gần chùa Tây An, rẽ tay phải đi một đoạn sẽ gặp lăng thờ Thoại Ngọc Hầu. Lăng được xây bằng hồ ô đước. Chùa Hang: Là tên gọi dân gian của Phước Điền tự nằm riêng lẻ trên triền phía Tây Núi Sam cách cụm di tích Tây An tự, miếu Bà và lăng Thoại Ngọc Hầu khoảng 1km nhưng là nơi cảnh quang thanh tịnh, ở độ cao vừa phải, có hang sâu với truyền thuyết Thanh xà, Bạch xà hấp dẫn khách thập phương. Pháo đài: Tên gọi này do sự xuất hiện của ngôi biệt thự mà viên Chánh tham biện người Pháp xây thời Pháp tạm chiếm làm nơi nghỉ ngơi của ông ta. Ngôi biệt thự cách chân núi khoảng 284m và được xây năm 1896. Bệ đá đặt tượng Bà: Đó là nơi gần Pháo đài, ở một vị trí quang đãng trên đỉnh Núi Sam. Nguồn gốc tượng có từ đâu và tại sao lại đặt ở đây, đến nay vẫn là một bí ẩn. Vườn Tao ngộ: Đây là khu vực nằm trên sườn núi, có tầm nhìn rộng bao quát xuống vùng đồng bằng mênh mông phía dưới, xa xa là dãy Thất Sơn.
  15. Miếu Bà Chúa Xứ: là một toà tháp với kiến trúc theo hình chữ “Quốc” có dạng bông sen nở, mái tam cấp ba tầng lầu, lợp ngói ống màu xanh. Trong số hàng loạt các di tích, miếu Bà Chúa Xứ nổi lên như một di tích đặc biệt quan trọng. 2.3. Diễn trình lễ hội Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam người ta còn gọi là Lễ hội Bà Chúa Xứ hay nói ngắn gọn hơn là Lễ Vía Bà, Lễ hội Bà Châu Đốc hay Lễ hội Bà Núi Sam. Từ lâu lễ Vía Bà đều tuân thủ một chu trình thống nhất gồm: Lễ Tắm Bà được tiến hành vào đêm 23 rạng ngày 24 tháng 4 âm lịch là chính lễ của mùa Vía hàng năm; Lễ Thỉnh sắc được thực hiện vào lúc 15 giờ ngày 25 tháng 4 âm lịch là nghi thức rước sắc thần Thoại Ngọc Hầu về miếu Bà để dự lễ hội.; Lễ Túc yết, lễ Xây chầu được cử hành vào đêm 25 rạng ngày 26 tháng 4 âm lịch là nghi thức quan trọng của lễ Vía Bà bởi tính linh thiêng của nghi thức Túc yết cũng như tính hấp dẫn của phần hát Xây chầu ngay khi kết thúc lễ.; Lễ Chính tế cử hành vào lúc 4 giờ sáng ngày 27 tháng 4 âm lịch; Lễ Hồi sắc lúc 14 giờ ngày 27 tháng 4 âm lịch. Diễn trình của nghi lễ gồm đầy đủ các bước cúng tế long trọng như nghi cúng Túc yết. Điểm khác biệt của nghi lễ này chỉ diễn ra ở một vài chi tiết trong bước tế. Lễ Hồi sắc được tiến hành như lễ Thỉnh sắc. Tiểu kết Tín ngưỡng thờ Mẫu - loại hình tín ngưỡng dân gian của người Việt được lưu truyền từ Bắc vào Nam trong quá trình khai hoang mở cỏi. Trên hành trình Nam tiến đó, nó tích hợp nhiều giá trị văn hóa của các cộng đồng cư dân bản địa, tạo ra những nét đặc trưng cho tín ngưỡng thờ Mẫu ở khắp các vùng miền. Đến Nam Bộ, nó dừng chân, giao lưu, tích hợp tín ngưỡng của các cộng đồng: Khơme, Chăm, Hoa tạo nên tín ngưỡng Bà Chúa Xứ với tầm ảnh hưởng vô cùng rộng lớn,
  16. trở thành hạt nhân của lễ hội Vía Bà ở nhiều tỉnh thành khu vực miền Nam; trong đó, lớn nhất phải kể đến lễ hội Bà Chúa Xứ Núi Sam, Châu Đốc, An Giang. Trải qua non hai thế kỷ, trước những đổi thay của đất nước, nhất là từ khi đất nước đổi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, lễ hội cổ truyền cũng chịu nhiều tác động trên cả hai phương diện tích cực lẫn tiêu cực. Một điều đáng ghi nhận ở đây, mặc dù cũng có những “cải cách” cho phù hợp với xu thế phát triển, song nhân dân làng Vĩnh Tế cũng thể hiện rõ vai trò làm chủ của mình khi họ cùng nhau tôn trọng và bảo vệ các giá trị văn hóa cổ xưa, lưu giữ trong lễ hội Vía Bà cho con cháu ngày nay thụ hưởng. Chương 3 LỄ HỘI BÀ CHÚA XỨ VÀ NHỮNG CHIỀU CẠNH BIẾN ĐỔI 3.1. Về thời gian tổ chức lễ hội Các lễ hội truyền thống nói chung hiện nay có 2 xu hướng biến đổi về thời gian. Một là rút ngắn lại thời gian tổ chức lễ hội. Hai là xu hướng kéo dài thời gian lễ hội. Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam theo xu hướng kéo dài. Theo truyền thống, lễ Vía Bà chỉ diễn ra trong ba ngày chính 24, 25, 26 tháng 4 (AL). Tuy nhiên, từ sau năm 2001 đến nay, các nghi thức chính của lễ Vía diễn ra từ 22 đến 27 tháng 4 (AL). Như vậy, thời gian diễn ra lễ hội ngày nay đã kéo dài gần cả tuần, gấp đôi so với truyền thống, mà người dân quen gọi là Tuần lễ Vía Bà. 3.2. Về không gian lễ hội Cũng giống như các lễ hội khác, lễ hội Vía Bà Chúa Xứ được diễn ra trong không gian vật chất, xã hội và không gian thiêng. Trường hợp lễ hội Vía Bà, kể từ khi được công nhận là lễ hội cấp quốc gia (2001), không gian vật chất và không gian xã hội của lễ
  17. hội đã được mở rộng lên rất nhiều. Bao trùm lên không gian của cả thành phố Châu Đốc rộng lớn và lan tỏa ra các vùng lân cận như Tịnh Biên, Tri Tôn, An Phú, Tân Châu, Châu Phú.. Ít có lễ hội nào mà không gian thiêng lại được “tăng cường” như lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam. Các hoạt động lễ thức không chỉ được thực hiện trong khuôn khổ khu vực miếu mà lan ra cụm di tích Núi Sam. Bằng việc sáng tạo nghi thức Phục hiện rước tượng Bà (2002), đỉnh Núi Sam giờ đây là một địa điểm thiêng trong lòng du khách. 3.3. Chủ thể lễ hội Theo truyền thống, lễ hội Vía Bà là của dân làng Vĩnh Tế, nay là nhân dân phường Núi Sam. Từ thực tế cho thấy, chủ thể của lễ hội từ cái nhân cốt lõi là cộng đồng làng xã đã được nhân rộng ra với phong phú thành phần, giờ đây đối tượng đã phát triển rất nhiều và trở thành lễ hội của vùng, của quốc gia và một bộ phận bạn bè quốc tế. 3.4. Mục đích, chức năng của lễ hội Mục đích tham gia lễ hội ngày càng đa dạng và phong phú hơn cùng với sự phong phú của thành phần dân cư. Chính thành phần người đi lễ định ra mục đích mà họ đến đây. Đến với Vía Bà, mục đích lớn nhất vẫn là để cầu nguyện cho bản thân và sau đó là đắm mình trong không gian hội tưng bừng để thỏa mãn nhu cầu vui chơi giải trí. Thế nhưng, những yếu tố mới đã dần xuất hiện theo đó, nhu cầu đi để để mở mang kiến thức, để tìm hiểu văn hóa của dân tộc lại đang là một xu hướng phát triển hiện nay. 3.5. Cấu trúc lễ hội Những năm qua, cùng với sự phát triển đi lên của đô thị trẻ Châu Đốc, sự gia tăng đột biến số lượt khách Vía Bà, lễ hội Vía Bà
  18. Chúa Xứ cũng thay đổi ngay chính trong thành phần cấu trúc của nó. Qua khảo sát thực tế những năm gần đây, lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam có sự biến đổi theo các chiều hướng cơ bản sau: Một là, sự tập trung đầu tư vào các thực hành nghi lễ. Hai là, phần hội cũng đang được các cơ quan ban ngành quan tâm, tập trung đầu tư, xây dựng nhiều hoạt động hội phong phú, đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí của người dân. Ba là, lễ hội biến đổi trong sự gắn kết chặt chẽ với du lịch Tiểu kết Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam đã có nhiều biến đổi từ thời gian đến không gian tổ chức, từ chủ thể đến thành phần mục đích, cấu trúc, chức năng. Một không gian hội sầm uất được “nới rộng” tối đa để “chứa đựng” số lượt khách đổ về ngày càng tăng cao. Thời gian tổ chức cũng “giãn ra” cho tất cả các thành phần du khách. Đối tượng trẩy hội thì ngày một đa dạng, đến từ khắp muôn phương với mục đích cũng ngày càng phong phú. Một mặt, những biến đổi cho thấy tín hiệu đáng mừng của việc bảo lưu các giá trị văn hóa truyền thống, không những thế, các giá trị ấy còn đang được cộng đồng “sáng tạo” thêm qua từng giai đoạn, từng mốc lịch sử nhất định. Đặt lễ Vía Bà trong bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội thay đổi từng ngày như hiện nay mới thấy hết sự vận động đa chiều của nó. Về với Châu Đốc, về với Vía Bà để thấy sự chuyển mình của một đô thị trẻ, của một lễ hội mang tầm quốc gia đang có sức ảnh hưởng rộng trên toàn khu vực Nam Bộ. Đó vừa là nhu cầu, vừa là động lực cho chính quyền và cộng đồng địa phương ra sức gìn giữ, bảo lưu các giá trị truyền thống, đồng thời làm mới lễ hội bằng những trò tiêu khiển lành mạnh thông qua các hoạt động văn hóa thể thao và du lịch.
  19. Chương 4 MỘT VÀI BÀN LUẬN TỪ NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA LỄ HỘI BÀ CHÚA XỨ NÚI SAM 4.1. Vai trò của nhà nước trong biến đổi lễ hội Bà Chúa Xứ Trải qua nhiều thời kỳ, từ thời phong kiến cho đến giai đoạn hiện nay, nhà nước vẫn luôn tham gia vào công tác chỉ đạo và tổ chức lễ hội ở các địa phương. Vai trò chủ đạo trong công tác quản lý của UBND Châu Đốc được thể hiện rất rõ qua các văn bản chỉ đạo địa phương trong việc phối hợp thực hiện bảo đảm an toàn, an ninh, hiệu quả, chất lượng cho lễ hội. Đồng thời vai trò ấy cũng thể hiện rõ nét trong từng chiều cạnh biến đổi của lễ hội: về thời gian, về không gian lễ hội, về chủ thể, về cấu trúc, về chức năng. Nhà nước bằng việc ban hành các công văn, kế hoạch, quyết định... đã tác động đến lễ hội, làm cho thời gian tổ chức lễ hội dài hơn, không gian rộng hơn, chủ thể đa dạng, cấu trúc thay đổi theo hướng tích hợp. 4.2. Du lịch – động lực cho sự biến đổi và phát triển của lễ hội Bà Chúa Xứ Ngày nay, khi chất lượng cuộc sống được nâng cao, lễ hội không còn dừng lại với vai trò truyền thống như trước mà nó đã từng bước gắn với nhu cầu đi du lịch và trở thành nguồn “tài nguyên vô giá” cho sự phát triển của du lịch. Trong phạm vi cả nước, lượt khách viếng Bà vẫn luôn chiếm cao nhất so với các trung tâm tín ngưỡng - tôn giáo khác và con số này có xu hướng tăng qua các năm. Điều này đã chứng minh một cách thuyết phục trung tâm tín ngưỡng thờ Mẫu - Miếu Bà Chúa Xứ và lễ hội Vía Bà thật sự chiếm vị trí quan trọng trên con đường hành hương hàng năm của người dân.
  20. Đảng bộ và chính quyền An Giang đã xác định phát triển du lịch dựa trên tài nguyên hấp dẫn đặc trưng của địa phương là lễ hội Bà Chúa Xứ và KDL Núi Sam. Song, chính khi du lịch phát triển mạnh mẽ và trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh lại tạo động lực vô cùng to lớn cho sự biến đổi lễ hội Bà Chúa Xứ. 4.3. Vai trò của cộng đồng địa phương và sự thỏa hiệp với nhà nước trong biến đổi của lễ hội Bà Chúa xứ Núi Sam Ngay từ khi xuất hiện lễ hội đã thấy đậm vai trò chủ thể của dân làng Vĩnh Tế đối với lễ hội thông qua những truyền thuyết. Sự thương thỏa hai chiều giữa nhà nước và cộng đồng trong đó cộng đồng luôn được tôn trọng quyền làm chủ lễ hội. Các thực hành văn hoá được bảo tồn không phải do nhà nước chọn lọc mà chính do chủ thể là cộng đồng địa phương lựa chọn cho phù hợp với bối cảnh mới nhằm phục vụ cho nhiều loại đối tượng. Ở lễ hội Bà Chúa Xứ, mặc dù nhà nước có vai trò to lớn trong việc tạo ra những biến đổi, song vai trò chủ thể của cộng đồng địa phương chưa từng bị mờ nhạt hay mất đi. Sự tham gia của cộng đồng vào lễ hội vẫn vẹn nguyên ý nghĩa ban đầu tốt đẹp của nó. Quá trình quản lý và sử dụng nguồn tiền công đức tại khu vực miếu Bà cho thấy sự hòa hợp, mềm dẻo và linh hoạt, có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà nước và nhân dân. Tiểu kết Ở lễ hội Bà Chúa Xứ, sự kết hợp giữa quản lý nhà nước và quản lý cộng đồng diễn ra một cách nhuần nhuyễn, hài hòa theo cơ chế có lợi đôi bên. Tuy nhà nước và cộng đồng có vai trò khác nhau trong tổ chức lễ hội song cả hai cùng hướng đến mục tiêu chung là bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của địa phương, sáng tạo thêm những
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2