intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật hành chính: Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân Tối cao

Chia sẻ: Ocxaodua999 Ocxaodua999 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

35
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn tập trung nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT thuộc VKSNDTC; chỉ ra những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT thuộc VKSNDTC. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT thuộc VKSNDTC và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc theo tinh thần cải cách tư pháp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật hành chính: Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân Tối cao

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… …………/………… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA BÙI QUANG ĐẠT BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8 38 01 02 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI – NĂM 2019
  2. Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Tường Duy Kiên Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Hà, Học viện Hành chính Quốc gia Phản biện 2: GS.TSKH. Đào Trí Úc, Đại học Quốc gia Hà Nội Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, Học viện Hành chính Địa điểm: Phòng 430, Nhà A - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Số: 77 - Đường Nguyễn Chí Thanh - Quận Đống Đa - TP Hà Nội Thời gian: vào hồi 08 giờ ngày 23 tháng 12 năm 2019 Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính quốc gia hoặc trên trang Web của Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính quốc gia
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bảo đảm quyền con người là một trong những nội dung và cũng là mục đích của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chăm lo đến con người, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho con người phát triển toàn diện trong thực hiện các chính sách kinh tế xã hội, trong các hoạt động Nhà nước là những quan điểm cơ bản được thể hiện trong các văn bản của Đảng và Nhà nước ta, nhất là trong những năm gần đây. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” khẳng định: “Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp ngày càng cao, các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo đảm công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo đảm pháp luật và pháp chế Xã hội chủ nghĩa, có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm” [4]. Văn kiện Đại hội X của Đảng cũng đặt ra nhiệm vụ: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo đảm công lý, quyền con người”. Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng mới đây cũng tiếp tục đặt ra nhiệm vụ: “Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, trong đó đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch vững mạnh, bảo đảm công lý, tôn trọng và bảo đảm quyền con người” [3]. Hoạt động tố tụng hình sự là một mặt hoạt động của Nhà nước liên quan rất chặt chẽ với quyền con người, là nơi các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự được áp dụng, là nơi quyền con người của các chủ thể tố tụng, đặc biệt là người bị buộc tội, bị hại và người làm chứng có nguy cơ dễ bị xâm hại nhất. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử trong những năm qua cho thấy cũng còn nhiều trường hợp vi phạm quyền 1
  4. con người trong quá trình tiến hành tố tụng. Những vi phạm đó xảy ra là do nhiều nguyên nhân, trong đó có bất cập, hạn chế của pháp luật, cơ chế, nhận thức, thái độ của người tiến hành tố tụng, các quy định về chế độ trách nhiệm của Nhà nước, người tiến hành tố tụng đối với công dân. Vì vậy, có thể nói việc bảo đảm quyền con người của các chủ thể tố tụng nói chung, đặc biệt của các chủ thể bị can, bị cáo, bị hại và người làm chữứng trong Tố tụng hình sự từ góc độ lập pháp cũng như áp dụng pháp luật có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa nói chung, trong công cuộc cải cách tư pháp nói riêng ở nước ta. Theo quy định của pháp luật, Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nói chung, CQĐT VKSNDTC nói riêng đã tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, bảo đảm chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Song, trong quá trình điều tra vẫn còn nhiều khó khăn, và đặc thù các vụ án CQĐT VKSNDTC điều tra liên quan đến hoạt động tư pháp là lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp; quyền con người của người tham gia tố tụng đôi khi chưa có biện pháp bảo đảm hữu hiệu trong BLTTHS. Do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau, song sự hạn chế, thiếu đồng bộ của pháp luật có tác động đáng kể. Mặt khác, cơ chế hoạt động, nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐT VKSNDTC phải chịu quy định của đồng thời các luật như: Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và BLTTHS. Vậy, khi CQĐT VKSNDTC tiến hành các hoạt động điều tra ảnh hướng đến quyền con người tham gia tố tụng, thì cơ chế nào sẽ bảo đảm quyền của họ, nếu CQĐT VKSNDTC thực hiện không đúng thì sẽ phải chịu trách nhiệm theo quy định của luật nào… Những câu hỏi như vậy vẫn cần chúng ta nghiên cứu, làm sáng tỏ. 2
  5. BLTTHS có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 có nhiều nội dung mới, cần được nghiên cứu để hiểu và vận dụng đúng trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự. Việc nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2015 nhằm phân tích, đánh giá, làm rõ nội dung, liên hệ thực tiễn để có những hiểu biết đúng đắn, áp dụng trong thực tiễn, đồng thời đánh giá mặt bất cập, hạn chế, đề xuất kiến nghị sửa đổi nhằm hoàn thiện chế định này là rất cấp thiết. Do vậy, tác giả chọn đề tài “Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân Tối cao” làm đề tài Luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trong thời gian vừa qua, có rất nhiều các công trình nghiên cứu về quyền con người và bảo đảm quyền con người trong Tố tụng hình sự gồm có như: - Từ góc độ nghiên cứu về bảo đảm quyền con người nói chung trong Nhà nước pháp quyền có các công trình “Quyền con người trong thế giới hiện đại” của nguyên Giám đốc trung tâm quyền con người của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh – GS. TS. Hoàng Văn Hảo và Phạm Ích Khiêm; bài báo “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc bảm đảm quyền con người” của PGS. TS. Đinh Văn Mậu… Trong các công trình này, các tác giả đã nghiên cứu khái niệm và các đặc điểm Nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng; nghiên cứu về mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân; nghiên cứu các vấn đề bảo đảm quyền con người trong Nhà nước pháp quyền… Tuy nhiên, các công trình này nghiên cứu quyền con người dưới góc độ triết học, xã hội học hoặc lý luận chung về Nhà nước và pháp luật. Các tác giả đã 3
  6. đưa ra quan điểm của mình về quyền con người, đặc trưng quyền con người; nghiên cứu mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân; khẳng định yêu cầu bảm đảm quyền con người trong Nhà nước pháp quyền. Đồng thời, tuy có cách nhìn không hoàn toàn giống nhau và ở các mức độ khác nhau, nhưng tác giả cũng đã xây dựng được cơ chế bảo đảm quyền con người trong Nhà nước pháp quyền. Tham khảo các quan điểm lý luận cũng như giải pháp, cơ chế chung bảo đảm quyền con người có ý nghĩa rất quan trọng trong nghiên cứu, xây dựng lý luận cũng như giải pháp cụ thể bảm đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT VKSNDTC. - Từ góc độ pháp luật chuyên ngành tố tụng hình sự, cũng đã có nhiều công trình bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực này như: Luận án tiến sĩ luật học "Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam", Trần Hưng Bình, Viện Khoa học xã hội, 2013; “Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”, Nguyễn Hữu Hậu, Luận án Tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội, 2019. Trong các công trình này, các tác giả nghiên cứu việc bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp nói chung, trong tố tụng hình sự nói riêng. Công trình của tác giả Trần Hưng Bình do phạm vi quá rộng, quyền con ngừoi của người bị buộc tội được nghiên cứu tương đối sơ lược. Công trình của tác giả Nguyễn Hữu Hậu thì phạm vi nghiên cứu chủ yếu xuất phát từ phân tích các quyền và nghĩa vụ tố tụng của người tham gia tố tụng mà chưa đi sâu nghiên cứu các chế định liên quan khác như các nguyên tắc tố tụng hình sự, các biện 4
  7. pháp cưỡng chế tố tụng liên quan đến quyền của người bị buộc tội. Việc nghiên cứu chia từng giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử của tác giả Hậu còn dẫn đến việc trùng lặp về quyền, cơ chế bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội. - Trong một số công trình khoa học khác như: “Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Cao Thị Ngọc Hà, Học viện Khoa học xã hội, năm 2019; “Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự,” của Đỗ Xuân Toán năm 2018 tại Trường Đại học Luật Hà Nội; “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”, của Nguyễn Tiến Linh, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2018. Các tác giả đã nghiên cứu tương đối sâu về bảo đảm quyền còn người trong tố tụng hình sự, nhưng chỉ nghiên cứu một quyền đó là: quyền bào chữa của người bị buộc tội. Và cũng mới chỉ nghiên cứu qua góc độ quyền và nghĩa vụ của nhóm người này, mà chưa nghiên cứu theo các góc độ khác như: cơ chế bảo đảm, nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Đánh giá chung về các công trình nêu trên: đã đề cập đến vấn đề bảo vệ quyền con người nói chung, trong tố tụng hình sự nói riêng mà em được tiếp cận. Tuy nhiên, vấn đề lý luận quan trọng như thế nào là bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự, cơ chế bảo đảm quyền con người ra sao… còn bị bỏ ngỏ hoặc đã được đề cập ở mức độ nhất định nhưng còn thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất; chưa xây dựng được một cơ chế bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự về mặt lý luận để từ đó phân tích, đánh giá khoa học thực trạng bảo đảm quyền con người, nhất là người bị buộc tội; chưa có công trình nghiên cứu tổng thể quyền con người của những người tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, đặc biệt các 5
  8. vụ án thuộc thẩm quyền của CQĐT VKSNDTC và theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 và BLTTHS năm 2015. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu + Mục đích nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT thuộc VKSNDTC; chỉ ra những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT thuộc VKSNDTC. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT thuộc VKSNDTC và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc theo tinh thần cải cách tư pháp. + Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là: - Nghiên cứu các vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT thuộc VKSNDTC; chủ thể của việc bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT thuộc VKSNDTC và hình thức thực hiện; quá trình hình thành và phát triển các chế định bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT thuộc VKSNDTC. - Nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHS hiện hành về bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT thuộc VKSNDTC và đánh giá được ưu điểm cũng như hạn chế của các quy định này. 6
  9. - Nghiên cứu thực trạng bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT thuộc VKSNDTC qua thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự của CQĐT thuộc VKSNDTC, đánh giá được những kết quả đạt được và những hạn chế tồn tại của thực trạng này. - Định hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT thuộc VKSNDTC. + Phạm vi nghiên cứu: - Nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền con người của người tham gia tố tụng theo quy định của BLTTHS năm 2015 trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT VKSNDTC, trên cơ sở phân tích quyền và nghĩa vụ của chủ thể này. Giai đoạn điều tra được hiểu là bắt đầu kể từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự, kết thúc khi CQĐT ra một trong các quyết định: bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra vụ án hình sự; bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc trong trường hợp vụ án bị huỷ quyết định khởi tố vụ án hình sự. - Phạm vi nghiên cứu về không gian và thời gian: Đề tài nghiên cứu về bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra của CQĐT thuộc VKSNDTC trong khoảng thời gian từ năm 2014-2018 và giới hạn thực tiễn trong các vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan này. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lê Nin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật, về Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, về bảo đảm quyền con người. 7
  10. Việc nghiên cứu được thực hiện từ góc độ lý luận chung về quyền con người và từ góc độ tố tụng hình sự nói riêng. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng hợp, so sánh… 5. Những đóng góp mới của đề tài - Đề tài đã góp phần làm rõ thêm nhiều vấn đề lý luận về quyền con người và bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT VKSNDTC; - Đề tài phân tích một cách khoa học các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra theo BLTTHS năm 2015 dưới góc độ bảo đảm quyền con người của những chủ thể này. Từ đó chỉ ra một số hạn chế còn thiếu xót trong quy định của BLTTHS năm 2015 về vấn đề bảo đảm quyền con người. Trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị, nhận xét nhằm bảo đảm tốt hơn quyền con người trong tố tụng hình sự. 6. Ý nghĩa khoa học của đề tài Đây là đề tài Luận văn thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề bảo đảm quyền con người nói chung, của người tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra nói riêng theo BLTTHS năm 2015. Công trình nghiên cứu các vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự, phân tích, đánh giá thực trạng quy định về bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự và kiến nghị các giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con người trong các giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT VKSNDTC; Đề tài là một đóng góp khiêm tốn trong việc giải quyết về mặt khoa học, một trong những nội dung cấp thiết hiện nay ở nước ta cũng như trên thế giới là vấn đề bảo đảm quyền con người. Quy định về quyền con người đã là quan trọng và cần thiết, quan trọng hơn là vấn đề bảo đảm cho các quyền đó được thực thi trong cuộc sống. 8
  11. Đề tài là một tài liệu tham khảo có giá trị trong hoạt động lập pháp tố tụng hình sự, trong thực tiễn điều tra vụ án hình sự cũng như trong học tập, nghiên cứu về Tố tụng hình sự. 7. Kết cấu của đề tài Kết cấu của đề tài: ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có 3 chương. Chương 1: Những vấn lý luận về bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền con người trong điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao. 9
  12. Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa bảo đảm quyền con ngƣời trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao 1.1.1. Khái niệm và các thuộc tính của quyền con người Quyền con người trong tố tụng hình sự là những bảo đảm pháp lý xác định trách nhiệm của quốc gia bảo đảm các cá nhân, pháp nhân chống lại sự gây tổn hại nhân phẩm và các quyền tự do cơ bản của cá nhân, pháp nhân đó khi họ tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự mà nhà nước có nghĩa vụ phải ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm thực hiện trên thực tế. Quyền con người có những đặc điểm cơ bản sau đây: - Tính phổ biến. - Tính đặc thù. - Tính không thể bị tước bỏ. - Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyền. 1.1.2. Khái niệm bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn của tố tụng hình sự, theo đó Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, trong thời hạn nhất định, được sử dụng các biện pháp do pháp luật tố tụng hình sự quy định, để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội và những vấn đề cần chứng minh khác có liên quan đến vụ án, làm cơ sở pháp lý để giải quyết vụ án, là tiền đề cho các giai đoạn tố tụng hình sự tiếp theo. 10
  13. Giai đoạn này bắt đầu kể từ khi có quyết định khởi tố vụ án, kết thúc khi Cơ quan điều tra kết thúc điều tra và đề nghị truy tố bị can hoặc đình chỉ điều tra vụ án hình sự. Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao là hoạt động của chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền, đảm bảo các yếu tố cần và đủ cho người tham gia tố tụng thực hiện các đặc quyền cá nhân vốn có của họ, kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự cho đến khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, nhằm giải quyết vụ án theo đúng quy định pháp luật. 1.1.3. Các đặc điểm bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao Thứ nhất, bảo đảm quyền con người là một nguyên tắc, là phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn của hoạt động tố tụng hình sự trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự. Thứ hai, quyền con người trong tố tụng hình sự bị ảnh hưởng, chủ yếu thông qua áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế và biện pháp điều tra. Thứ ba, phạm vi thực hiện việc bảo đảm quyền con người là trong giai đoạn điều tra những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSNDTC. Thứ tư, chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng là CQĐT VKSNDTC. Thứ năm, đối tượng được bảo đảm quyền con người trong vụ án là người tham gia tố tụng, đối với người bị buộc tội phải là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp. 11
  14. 1.1.4. Ý nghĩa của bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra vụ án hình sự Viện kiểm sát nhân dân tối cao Thứ nhất, xét về vị trí của người tiến hành tố tụng hình sự là người nhân danh Nhà nước thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật. Thứ hai, giai đoạn điều tra các vụ án hình sự là một quá trình làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Thứ ba, để đạt được mục đích phát hiện, điều tra, xử lý chính xác, khách quan tội phạm và người phạm tội, Nhà nước bất đắc dĩ phải ban hành một số quy định hạn chế quyền con người của công dân nói chung, người tham gia tố tụng nói riêng. Thứ tư, thông qua hoạt động điều tra làm rõ sự thật khách quan của vụ án, CQĐT VKSNDTC đã giữ vững và bảo đảm pháp chế, ổn định trật tự xã hội, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền. 1.2. Nội dung bảo đảm quyền con ngƣời trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao 1.2.1. Các chủ thể được bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao * Bảo đảm quyền con người đối với người bị buộc tội Người bị buộc tội trong giai đoạn điều tra bao gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can trong vụ án. * Bảo đảm quyền con người đối với tư cách là các đương sự Các đương sự trong vụ án hình sự là những người không thuộc nhóm người bị buộc tội, bao gồm người bị hại, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. 12
  15. 1.2.2. Các chủ thể thực hiện việc bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự Đối với CQĐT VKSNDTC là một bộ phận của VKSNDTC, chủ thể có thẩm quyền thực hiện việc bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của cơ quan này là: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT VKSNDTC, cán bộ điều tra, cán bộ, công chức thuộc CQĐT, được phân công nhiệm vụ tham gia quá trình giải quyết vụ án hình sự. 1.2.3. Quy định về bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao * Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra có liên quan đến việc bảo đảm quyền con người Những người tiến hành tố tụng trong CQĐT nói chung, CQĐT VKSNDTC nói riêng, theo Điều 36, 37, 38 BLTTHS 2015, là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên và cán bộ điều tra. Xuất phát từ chức năng kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên có những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định liên quan trực tiếp quyền con người trong tố tụng hình sự. 1.3. Các điều kiện bảo đảm quyền con ngƣời tại giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao 1.3.1. Bảo đảm về mặt lý luận Tiếp tục nghiên cứu các vấn đề lý luận về quyền con người trong đó có quyền con người trong tố tụng hình sự để đưa đến nhận thức đúng đắn về vấn đề quyền con người như một giá trị của nhân loại. 13
  16. 1.3.2. Bảo đảm về mặt pháp lý Quyền con người trong tố tụng hình sự được đặt ra chỉ khi nhà nước tiến hành hoạt động tố tụng hình sự. Chính vì vậy, bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự trước hết đòi hỏi một hệ thống pháp luật không chỉ giúp nhà nước phát hiện xử lý tội phạm mà còn không làm oan người vô tội. 1.3.3. Bảo đảm về mặt tổ chức - Các quy định phải đảm bảo tính khả thi. Nhiệm vụ, quyền hạn được quy định phải được bảo đảm thực hiện bằng các quy định của pháp luật, bằng các biện pháp tổ chức và có cơ chế kiểm tra, giám sát cụ thể, chặt chẽ 1.3.4. Bảo đảm về mặt nhận thức Cần nâng cao nhận thức về quyền con người, hay nói cách khác là tăng cường giáo dục quyền con người cho những người tiến hành tố tụng là các Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, bởi một điều mà người ta lo ngại nhất khi nói đến vấn đề bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đó chính là sự xâm phạm quyền con người từ phía các cơ quan có thẩm quyền, sự xâm phạm này không chỉ thể hiện ở việc pháp luật còn nhiều lỗ hổng mà phần nhiều nằm ở chính hoạt động cụ thể của những người tiến hành tố tụng. 14
  17. Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO 2.1. Khái quát chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và cơ cấu, tổ chức của Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao 2.1.1. Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì phạm vi thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSND được được mở rộng so với quy định của BLTTHS năm 2003 và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự. Do vậy, CQĐT VKSND được tổ chức lại theo hướng thu gọn đầu mối và chỉ được tổ chức ở VKSNDTC. Theo quy định Điều 20 Luật tổ chức VKSND năm 2014, Điều 163 BLTTHS năm 2015 và Điều 30 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015, CQĐT VKSNDTC có thẩm quyền tiến hành điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của luật mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc CQĐT, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân. 2.1.2. Về tổ chức bộ máy của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao Ngày 28/05/2019, Viện trưởng VKSNDTC ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của CQĐT VKSNDTC kèm theo Quyết định số 208/QĐ-VKSTC-C1 (gọi tắt là Quy chế 208) thay thế cho Quy chế 15
  18. 18/QĐ-VKSTC-C1 ngày 20/11/2015. Đến nay, căn cứ các Quyết định của Viện trưởng VKSNDTC về việc thành lập các phòng nghiệp vụ; theo đó tổ chức bộ máy của CQĐT VKSNDTC gồm: 10 Phòng nghiệp vụ; 2 Đại diện Thường trực CQĐT VKSNDTC tại các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên và miền Nam; với tổng số 174 biên chế. Về bộ máy gồm có: Thủ trưởng và 03 Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra; 10 Trưởng phòng, 21 Phó Trưởng phòng; có 01 Kiểm sát viên cao cấp và 98 Điều tra viên các cấp (23 Điều tra viên cao cấp, 61 Điều tra viên trung cấp và 14 Điều tra viên sơ cấp, 24 Cán bộ điều tra). Về trình độ: có 01 Tiến sỹ luật; 01 Nghiên cứu sinh; 38 Thạc sỹ luật; 86 Cử nhân luật và 20 Cử nhân chuyên ngành khác (có 26 đồng chí tốt nghiệp Học viện An ninh nhân dân và Học viện Cảnh sát nhân dân). 2.1.3. Về đặc thù loại tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao Theo quy định Điều 20 Luật tổ chức VKSND năm 2014, Điều 163 BLTTHS năm 2015 và Điều 30 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015, CQĐT VKSNDTC có thẩm quyền tiến hành điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của luật mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc CQĐT, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân. 2.2. Kết quả, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong bảo đảm quyền con ngƣời tại giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao từ năm 2013 đến nay 2.2.1. Kết quả bảo đảm quyền con người * Thực tiễn thi hành bảo đảm quyền con người thông qua các quy định về khởi tố, điều tra vụ án hình sự 16
  19. Việc quy định thời hạn kiểm tra xác minh, tố giác, tin báo tội phạm là 20 ngày, tối đa là 02 tháng nhằm ràng buộc trách nhiệm của CQĐT, Viện kiểm sát. Đặc thù tính chất của hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm là phải chủ động để áp dụng các biện pháp do luật định để làm rõ có hay không có dấu hiệu tội phạm, nếu có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố vụ án hình sự để tiến hành các biện pháp điều tra. Tuy nhiên trên thực tế, đối với những vụ việc có tính chất phức tạp, những tin báo, tố giác về tội tham nhũng, kinh tế, chức vụ, có yếu tố nước ngoài, hành vi vi phạm ở nhiều nơi, trong thời gian dài, liên quan đến nhiều đối tượng, nhiều lĩnh vực, các vụ việc bắt buộc phải trưng cầu những ý kiến chuyên môn nhất định để đưa ra những kết luận chính xác nhất hoặc xin ý kiến chỉ đạo về sự cần thiết khởi tố hay không do liên quan đến các yếu tố chính trị, ngoại giao hoặc những lý do nhất định. Điều đó dẫn đến tình trạng còn nhiều vụ việc để kéo dài, hành vi phạm tội không bị pháp luật trừng trị kịp thời, để lại một nỗi đau cho nạn nhân khi bị đạp lên quyền con người, sống trong thù hận và sự sợ hãi bởi tội ác gây ra. * Thực tiễn thi hành bảo đảm quyền con người thông qua các quy định về biện pháp điều tra Trước hết phải thấy rằng, tình trạng bức cung, dụ cung, dùng nhục hình trong hoạt động điều tra vẫn còn xảy ra. Thực tiễn cho thấy, trong các vụ án bị cáo bị kết tội oan thì ở mức độ nhiều hay ít thì họ đều bị truy bức hoặc dùng nhục hình để buộc phải nhận tội. * Việc bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra tại Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao Trong những năm qua, trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, CQĐT VKSNDTC đã cấp chứng nhận bào chữa, đăng ký bào chữa 17
  20. cho 100% trường hợp bị can bị khởi tố có yêu cầu hoặc được chỉ định người bào chữa. CQĐT VKSNDTC đã tạo điều kiện cho các đương sự bảo đảm quyền lợi của mình trong giai đoạn điều tra, kịp thời hủy bỏ các quyết định trái pháp luật, xâm phạm quyền con người của bị can. Quá trình khởi tố, điều tra các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp, CQĐT VKSNDTC đã tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật, đảm bảo việc điều tra và lập hồ sơ xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Không có vụ án nào phải đình chỉ điều tra vì bị can không phạm tội hoặc đã đề nghị truy tố mà Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội. Không có vụ án nào bị hủy án để điều tra lại. Số vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung chiếm tỷ lệ thấp. Trong đó, đã phát hiện, điều tra làm rõ, xử lý nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, được dư luận quan tâm. * Thực tế các điều kiện cơ sở, kỹ thuật, hậu cần đối với hoạt động tố tụng nhằm bảo đảm quyền con người Trong những năm vừa qua, trụ sở CQĐT VKSNDTC và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đều được tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân lực để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình đặc biệt bảo đảm tốt quyền con người trong tố tụng hình sự. 2.2.2. Hạn chế bảo đảm quyền con người trong hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao Thứ nhất, dù các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp trong 5 năm qua không có những biến động đột biến về số lượng nhưng tính chất phức tạp của các vụ án không hề giảm, đặc biệt là những đối tượng phạm tội có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan tư pháp có xu hướng gia tăng đặc biệt là các đối tượng có thâm niên công tác lâu năm, nắm rõ các quy định của pháp luật. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2