intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật hành chính: Mô hình tổ chức của Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Ocxaodua999 Ocxaodua999 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

28
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm phân tích, tổng kết một số vấn đề có tính lí luận về mô hình tổ chức TPL ở Việt Nam hiện nay, qua đó phân tích đánh giá thực tiễn và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện về thể chế, quản lý nhà nước đối với tổ chức mô hình TPL trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật hành chính: Mô hình tổ chức của Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN CÔNG KHANH MÔ HÌNH TỔ CHỨC CỦA THỪA PHÁT LẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8 38 01 02 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI – NĂM 2019
  2. Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Quang Thái Phản biện 1: PGS.TS. Trần Thị Diệu Oanh, Học viện Hành chính Quốc gia Phản biện 2: TS. Đinh Văn Minh, Thanh tra Chính phủ Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: Phòng họp 204, Nhà A - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Số: 77 - Đường Nguyễn Chí Thanh- Quận Đống Đa – TP Hà Nội Thời gian: vào hồi 17 giờ ngày 12 tháng 12 năm 2019 Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web của Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
  3. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Mô hình tổ chức Thừa phát lại (TPL) có vai trò đặc biệt quan trọng đối với toàn bộ các hoạt động của TPL, đánh giá mô hình tổ chức TPL giúp làm sáng tỏ cơ chế quản lý, tổ chức thực hiện, đặc điểm tình hình TPL. Tại Việt Nam, Thừa phát lại tồn tại từ thời kỳ Pháp thuộc, khi đó thực dân Pháp đã áp dụng nguyên mô hình Thừa phát lại của nước Pháp ở nước ta, mô hình này đã tồn tại trong suốt thời kỳ Pháp thuộc và dưới chế độ Ngụy quyền Sài Gòn cho đến khi đất nước ta hoàn toàn giải phóng năm 1975. Sau năm 1975, để phù hợp với công cuộc xây dựng đất nước, Đảng ta không tiếp tục duy trì Thừa phát lại nữa. Nhận thức được tầm quan trọng TPL trong quá khứ và yêu cầu cải cách tư pháp, hoàn thiện định pháp luật nhằm đáp ứng cho công cuộc hội nhập quốc tế và khu vực. Đảng và Nhà nước ta chủ trương phải cải cách và đổi mới một cách mạnh mẽ công tác tổ chức TPL. Thông qua hoạt động thừa phát lại, người dân có thể chủ động hơn trong các hoạt động dân sự, tố tụng dân sự, hành chính, giúp người dân có sự lựa chọn trong hoạt động thi hành án, hạn chế tiêu cực và tính độc quyền của hoạt động này. 2. Tình hình nghiên cứu Qua nghiên cứu và tìm hiểu về mô hình tổ chức TPL ở Việt Nam hiện nay, tác giả nhận thấy vấn đề này đã được một số cơ quan, nhà làm luật ở trong nước quan tâm, dành thời gian nghiên cứu, như một các tác phẩm sau: - Nguyễn Văn Nghĩa (2006), “Chế định TPL: Lịch sử ra đời và đổi mới theo tinh thần cải cách tư pháp”, Tạp chí dân chủ và pháp luật – Bộ tư pháp. - Nguyễn Đức Chính (1998), Cơ sở lý luận và thực tiễn chế định TPL, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ. - Nguyễn Công Bình (2012), “Xu hướng xã hội hóa THADS từ việc thí điểm hoạt động TPL tại thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí dân chủ và pháp luật – Bộ Tư pháp. 1
  4. - Nguyễn Thị Thìn (2018), Thực hiện pháp luật về TPL ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành lí luận và lịch sử nhà nước và pháp luật. - Phạm Phúc Thịnh (2014), TPL trong THADS, Luận văn thạc sỹ luật học. - Phạm Phúc Thịnh (2014), Hoạt động của tổ chức TPL, Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật. - Lê Xuân Hồng (2011), “Từ nhu cầu cầu xã hội đến chủ trương và kết quả bước đầu của việc thực hiện thí điểm TPL”, Tạp chí dân chủ và pháp luật – Bộ tư pháp. Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu khác đã được công bố trên sách, báo, tạp chí như tạp chí nhà nước và pháp luật, tạp chí dân chủ và pháp luật, tạp chí luật học, diễn đàn luật học như: - Huỳnh Đức Thái Lâm Hoàng (2018), “Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí tài chính Việt Nam. - Bùi Mến, H Giang (2015), “Tổng kết thí điểm chế định thừa phát lại trên địa bàn Hà Nội”, Báo pháp luật Việt Nam. - Hà Phương Thảo (2015), “TP.HCM: Nhiều hiệu quả từ mô hình Thừa phát lại sau 5 năm thí điểm”, Báo pháp luật Việt Nam. - Trần Thị Quang Hồng, Đinh Công Tuấn (2019), “Cần nhất quán trong xã hội hóa một số hoạt động thi hành án dân sự”, Báo nhân dân. - Cục Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp, “Phát triển nghề thừa phát lại theo định hướng xã hội hóa các lĩnh vực bổ trợ tư pháp”, Báo thế giới luật. - Chu Văn Khanh Cục Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp, “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động thừa phát lại”, Báo thế giới luật. - Ái Nhân - Mai Hoa (2018), “Miễn nhiệm thừa phát lại sai phạm gây khiếu kiện phức tạp”, Báo tuổi trẻ online. - Phạm Dũng (2014), “Chấn chỉnh nhiều sai phạm của thừa phát lại”, Báo người lao động. - Thảo Mộc (2017), “Quy định xử phạt vi phạm về thừa phát lại Tránh hành chính hóa vi phạm”, Báo người bảo vệ quyền lợi. 2
  5. - Kim Phụng (2018), “Thừa phát lại, biết sai nhưng không phạt được”, Báo pháp luật TP.HCM. - Nguyễn Thị Vân Anh (2018), “Tình hình tổ chức và hoạt động Thừa phát lại trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2017”, Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương. Những công trình, nghiên cứu, những bài viết trên các báo, tạp chí đã nghiên cứu ở những góc độ, khía cạnh khác nhau về mô hình tổ chức, hoạt động của TPL nhưng cho đến nay chưa có công trình nào đi sâu vào nghiên cứu mô hình tổ chức của TPL ở Việt Nam, từ góc độ nghiên cứu, tiếp cận chuyên ngành lí luận hành chính, hiến pháp. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Phân tích, tổng kết một số vấn đề có tính lí luận về mô hình tổ chức TPL ở Việt Nam hiện nay, qua đó phân tích đánh giá thực tiễn và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện về thể chế, quản lý nhà nước đối với tổ chức mô hình TPL trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn - Luận văn phân tích đánh giá làm sáng tỏ mô hình tổ chức TPL ở Việt Nam hiện nay. - Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng mô hình tổ chức TPL ở Việt Nam hiện nay. - Đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện mô hình tổ chức TPL ở Việt Nam trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là mô hình tổ chức TPL ở Việt Nam hiện nay và thực hiện việc tổ chức TPL ở nước ta hiện nay, thực trang và giải pháp. 4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài - Về không gian: Luận văn nghiên cứu dưới góc độ pháp luật về mô hình tổ chức của TPL ở Việt Nam hiện nay. 3
  6. - Về thời gian: Luận văn nghiên cứu mô hình tổ chức của TPL ở Việt Nam từ năm 2010 đến nay trên cơ sở có tham khảo thêm một số tài liệu có liên quan ở nước ngoài phục vụ cho công việc nghiên cứu của mình. - Về nội dung: Phân tích, đánh giá kết quả đạt được và những hạn chế, nguyên nhân, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức TPL trong thời gian tới. Bên cạnh việc nghiên cứu về mô hình TPL tại Việt Nam, do mô hình bao giờ cũng gắn với tổ chức nên trong phạm vi của Luận văn này, nội hàm của Luận văn không chỉ nghiên cứu về mô hình nói chung mà mô hình gắn với tổ chức Thừa phát lại ở Việt Nam. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật, về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp cụ thể như: Phương pháp phân tích và tổng hợp tập trung ở chương 1, chương 2 và chương 3; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp thống kê tập trung chủ yếu ở chương 2. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lí luận: Luận văn là công trình khoa học đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu về mô hình tổ chức TPL, qua đó luận văn đã phân tích cũng như đánh giá, chỉ ra những tồn tại, hạn chế đối với mô hình tổ chức TPL, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện mô hình tổ chức TPL trong thời gian tới. Về mặt thực tiễn: Những phân tích đánh giá và đề xuất cụ thể mà tác giả đưa ra nhằm xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức TPL có giá trị tham khảo hữu ích cho các nhà lập pháp vận dụng vào công tác xây dựng pháp luật, công tác nghiên cứu khoa học, giảng dạy và làm tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan nhà nước trong việc tổ chức thi hành pháp luật bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần ổn định trật tự xã hội. 4
  7. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của đề tài bao gồm ba chương sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về mô hình Thừa phát lại ở Việt Nam. Chương 2: Thực trạng mô hình Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay. Chương 3: Quan điểm, giải pháp hoàn thiện mô hình Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay 5
  8. Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MÔ HÌNH TỔ CHỨC THỪA PHÁT LẠI Ở VIỆT NAM 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò mô hình Thừa phát lại ở Việt Nam 1.1.1. Khái niệm Để làm rõ cái khái niệm về mô hình tổ chức của TPL ở Việt Nam, tác giả tập trung nghiên cứu một số các khái niệm cơ bản có liên quan như sau: 1.1.1.1. Khái niệm TPL ở Việt Nam Thừa phát lại là một nghề xuất hiện trên thế giới hàng trăm năm nay, hiện có 72 nước là thành viên của Liên minh Thừa phát lại quốc tế. Ở Việt Nam, Thừa phát lại xuất hiện từ thời Pháp thuộc, miền Bắc gọi là Chưởng tòa, miền Trung gọi là Mõ tòa, miền Nam là Thừa phát lại…”. Thừa phát lại là người có các tiêu chuẩn, được Nhà nước bổ nhiệm và trao quyền để làm các công việc về thi hành án dân sự, tống đạt giấy tờ, lập vi bằng và các công việc khác theo quy định [97]. Thừa phát lại tương tự như chức mõ tòa (Người giữ việc báo tin và thi hành các quyết định của tòa án trong xã hội cũ, có khi trông nom cả việc bán các động sản của Nhà nước) và chấp hành viên”.. 1.1.1.2. Khái niệm về mô hình và mô hình tổ chức Dù với cách hiểu nào thì mô hình cũng chỉ là sự đơn giản hóa hiện thực một cách có chủ định, mô phỏng cấu tạo tổ chức và hoạt động của một vật khác để tiện trình bày, nghiên cứu. Nó cho phép nhà nghiên cứu bỏ qua các mặt thứ yếu để tập trung vào phương diện chủ yếu, có ý nghĩa quan trọng đối với vấn đề nghiên cứu. Về khái niệm tổ chức: Đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về khái niệm tổ chức. Kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy, tổ chức là một hệ thống gồm nhiều người cùng hoạt động vì mục đích chung. Hay tổ chức là quá trình triển khai các kế hoạch. 6
  9. 1.1.1.3. Khái niệm về mô hình tổ chức Thừa phát lại ở Việt Nam Qua việc nghiên cứu các khái niệm về TPL, mô hình tổ chức ở trên, tác giả cho rằng: Mô hình tổ chức TPL là việc mô phỏng tổ chức, hoạt động của TPL với cơ cấu, hệ thống các vị trí cho mỗi cá nhân, các bộ phận sao cho cá nhân và bộ phận có thể phối hợp với nhau một cách tốt nhất, qua đó duy trì hiệu quả hoạt động của TPL với tư cách là công lại được Nhà nước trao quyền để cung cấp dịch vụ công do Nhà nước ủy nhiệm, đặt dưới sự quản lý nhà nước, đáp ứng được nhu cầu của xã hội. 1.1.2. Đặc điểm mô hình tổ chức Thừa phát lại ở Việt Nam Về mục tiêu của tổ chức: Xã hội hóa là giải pháp cải cách tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, huy động nguồn lực và tăng cường trách nhiệm của xã hội đối với các hoạt động của Nhà nước mà nội dung trọng tâm là chuyển giao công việc của Nhà nước đang trực tiếp thực hiện cho các tổ chức xã hội, góp phần làm giảm và từng bước chuyển giao công việc không cần thiết phải do Nhà nước thực hiện với mục đích phát huy tiềm năng của cá nhân, tổ chức trong xã hội. Đây chính là mục tiêu để Nhà nước hướng đến xây dựng mô hình tổ chức TPL ở Việt Nam. Hoạt động của thừa phát lại bước đầu đã đạt được mục tiêu đặt ra cho hoạt động thừa phát lại. 1.1.3. Vai trò của mô hình tổ chức Thừa phát lại ở Việt Nam Thông qua hoạt động, TPL ngày càng khẳng định địa vị pháp lý cũng như vai trò trong hoạt động tư pháp và xã hội hóa thi hành án dân sự. Đối với người dân, xã hội, việc thực hiện chế định Thừa phát lại đã góp phần nâng cao nhận thức không những đối với cơ quan nhà nước mà còn đối với người dân về một chủ trương mới của Đảng, Nhà nước. Ngoài ra, dưới góc độ xã hội, hoạt động Thừa phát lại bước đầu đã tạo lập một nghề mới trong thị trường cung cấp dịch vụ pháp lý và là bước đầu tiên xã hội hóa hoạt động thi hành án, tạo thêm công ăn việc làm cho xã hội. Đối với hoạt động tư pháp và liên quan, hoạt động Thừa phát lại đã bước đầu hỗ trợ tích cực cho các hoạt động tư pháp được nhanh hơn, hiệu quả 7
  10. hơn, góp phần giảm tải công việc của các cơ quan tư pháp, trước hết là của Tòa án và Cơ quan Thi hành án dân sự. Từ vai trò, tác động của việc thực hiện chế định Thừa phát lại trong thời gian qua tại cho thấy, mô hình này là cần thiết cho người dân, xã hội nói chung, cho hoạt động tư pháp nói riêng. 1.2. Yêu cầu của mô hình tổ chức Thừa phát lại ở Việt Nam 1.2.1. Bảo đảm sự quản lý nhà nước đối với tổ chức Thừa phát lại Thừa phát lại thực hiện việc cung cấp dịch vụ thi hành án dân sự, lập vi bằng theo quy định của pháp luật doanh nghiệp, pháp luật thi hành án dân sự, các văn bản pháp luật khác có liên quan, nên vừa phải bảo đảm quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, ở đây là Văn phòng Thừa phát lại, vừa phải bảo đảm sự kiểm tra, thanh tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để Văn phòng Thừa phát lại tuân thủ đúng pháp luật, vừa bảo đảm quyền tự do kinh doanh của Thừa phát lại. Đây là yêu cần tất yếu để bảo đảm tổ chức của Thừa phát lại hoạt động bền vững Thời gian qua, để bảo đảm hoạt động quản lý Nhà nước đối với hoạt động Thừa phát, Điều 8 Nghị định 61/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh và Nghị định 135/2013/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 61/2009/NĐ-CP đã quy định 04 nội dung chủ yếu liên quan đến quản lý TPL, theo đó: Một là, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về Thừa phát lại. Hai là, Bộ Tư pháp giúp Chính phủ quản lý nhà nước về Thừa phát lại và có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Ba là, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quản lý nhà nước về Thừa phát lại tại địa phương và có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Bốn là, Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh giúp Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quản lý nhà nước về Thừa phát lại tại địa phương và có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: 8
  11. Thứ nhất, Chính phủ vẫn phải giữ vai trò thống nhất quản lý nhà nước về Thừa phát lại. Thứ hai, Bộ Tư pháp tiếp tục là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về Thừa phát lại và có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Thứ ba, trong vai trò quản lý Nhà nước ở địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cần được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về Thừa phát lại tại địa phương và có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Thứ tư, Sở Tư pháp là cơ quan giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về Thừa phát lại tại địa phương và có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: 1.2.2. Kiểm sát hoạt động của Thừa phát lại Mối quan hệ giữa Thừa phát lại và Kiểm sát viên là mối quan hệ kiểm tra - giám sát, bảo đảm mọi hoạt động của Thừa phát lại, đảm bảo luôn tuân thủ đúng quy định của pháp luật, góp phần thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hóa một số hoạt động tư pháp của Đảng và Nhà nước. Trường hợp xét thấy văn bản trả lời kháng nghị không có căn cứ thì Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao yêu cầu Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét lại văn bản trả lời đã có hiệu lực thi hành của Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự đã trả lời kiến nghị. Theo quy định tại Điều 48 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP thì việc kiểm sát hoạt động của Thừa phát lại thực hiện theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và quy định của pháp luật có liên quan. Trường hợp xét thấy văn bản trả lời kháng nghị không có căn cứ thì Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cáo có văn bản đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét lại văn bản trả lời của Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự. Việc thực hiện các quyền kiến nghị và yêu cầu của Viện Kiểm sát nhân dân trong kiểm sát hoạt động của Thừa phát lại được thực hiẹn theo quy định của Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, pháp luật về tố tụng và pháp luật về thi hành án dân sự. 9
  12. Chúng tôi cho rằng, việc xác định thẩm quyền và trách nhiệm kiểm sát đối với hoạt động Thừa phát lại như hiện hành là phù hợp vì Thừa phát lại thực hiện một số nhiệm vụ liên quan đến tổ chức thi hành án dân sự. 1.2.3. Tổ chức, hoạt động của Thừa phát lại 1.2.3.1. Là một loại hình doanh nghiệp đặc thù Tại Việt Nam Văn phòng Thừa phát lại là tổ chức hành nghề của Thừa phát lại, tên gọi văn phòng Thừa phát lại phải bao gồm cụm từ “Văn phòng Thừa phát lại” và phần tên riêng liền sau, Văn phòng Thừa phát lại được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp, thực hiện các dịch vụ công. Văn phòng Thừa phát lại có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính. Cơ cấu tổ chức, quản lý, điều hành, chế độ tài chính của văn phòng Thừa phát lại thực hiện theo quy định của pháp luật. 1.2.3.2. Chức năng, nhiệm vụ của mô hình Thừa phát lại Mô hình TPL có chức năng, nhiệm vụ sắp xếp, bố trí, tổ chức để làm cho hoạt động của TPL được thực hiện theo định hướng đã được cơ quan nhà nước thiết lập đề ra, qua đó cơ quan quản lý nhà nước vận dụng cách sắp xếp, bố trí, tổ chức đố để điều hành, quản lý nhằm mục đích tôt chức thực hiện mô hình TPL đạt được các mục tuiêu đề ra theo trật tự nhất định, đáp ứng được nhu cầu của xã hội, phù hợp với chủ trương đường lối của Đảng, đảm bảo sự quản lý vận hành trơn tru, có hiệu quả và tuân thủ pháp luật. 1.2.3.3. Hoạt động của Thừa phát lại ở Việt Nam Một là: Mô hình TPL ở Việt Nam hiện nay trước hết phải đảm bảo cho hoạt động của TPL trơn tru Hai là: Không chồng chéo với các ngành nghề khác Ba là: Hoạt động TPL đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan có liên quan - Mối quan hệ giữa TPL và Chấp hành viên Bốn là, phải có hiệu quả kinh tế - xã hội: 10
  13. 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến mô hình tổ chức Thừa phát lại ở Việt Nam 1.3.1. Yếu tố chính trị Có thể thấy vai trò của Đảng trong việc đưa ra các chủ trương, chính sách pháp luật là đặc biệt quan trọng.Với sự quan tâm của Đảng chế định TPL đã đưa vào Nghị quyết của Đảng, qua đó nhà thực hiện các nghị quyết của Đảng. Từ những định hướng của Đảng về chủ trương thực hiện mô hình TPL đã là căn cứ chỉ đạo, định hướng để các cơ quan Nhà nước nghiêm túc triển khai, thể chế hóa đúng quan điểm của Đảng về chủ trương thực mô hình TPL trong thực tiễn. 1.3.2. Yếu tố pháp luật Pháp luật về tổ chức Thừa phát lại được Đảng và Nhà nước ta tập trung khôi phục trong những năm gần đây cùng với đó đã ban hành Nghị quyết, các Thông tư hướng dẫn, quy định về Thừa phát lại, Văn phòng Thừa phát lại, thành lập, giải thể, tổ chức hoạt động Thừa phát lại, phạm vi hoạt động, quyền hạn, nhiệm vụ, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm tra đối với hoạt động Thừa phát lại, qua đó tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện các hoạt động tổ chức của Thừa phát lại. 1.3.3. Yếu tố kinh tế Nền kinh tế - xã hội phát triển, bền vững là điều kiện cho mọi hoạt động pháp luật phát triển, đóng góp to lớn tới sự hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật của mọi tầng lớp trong xã hội. Qua đó ảnh hưởng nhận thức của nhân dân, nhu cầu sử dụng các dịch vụ pháp lývề TPL nhiều hơn, từ đó hoạt động TPL sẽ có cơ hội phát triển, có thể tự nuôi sống mình bằng nghề TPL, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, đóng góp thuế cho nhà nước và gia tăng số lượng các văn phòng Thừa phát để đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, tổ chức trong xã hội. 1.3.4. Yếu tố văn hóa, xã hội Mặc dù đã từng tồn tại ở Việt Nam (miền Bắc cho đến năm 1950, miền Nam cho đến trước năm 1975) nhưng qua thời gian dài, chế định Thừa phát lại trở nên khá mới mẻ với người dân. Nhận thức của một số cơ quan, cán bộ, công chức, kể cả ở Trung ương về việc thí điểm chế định Thừa phát lại vẫn chưa đầy 11
  14. đủ, chưa đáp ứng yêu cầu về việc thực hiện một chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp, như: Chưa hiểu đúng và đầy đủ về chế định Thừa phát lại, cũng như vai trò, sự cần thiết thí điểm chế định này; trong triển khai thực hiện thiếu sự quyết tâm; xem Thừa phát lại, Văn phòng Thừa phát lại là người, tổ chức hành nghề tự do, vì lợi nhuận, từ đó thiếu sự phối hợp, hỗ trợ, hợp tác. 1.4. Kinh nghiệm mô hình Thừa phát lại ở một số nƣớc trên thế giới có giá trị tham khảo Trong thời gian qua đã có nhiều tác giả nghiên cứu về mô hình Thừa phát lại ở các nước. Qua tổng hợp, đánh giá cho thấy có một số mô hình chủ yếu và có thể tham khảo ở Việt Nam như sau: 1.4.1. Mô hình thứ nhất: Thừa phát lại hành nghề tự do, độc lập Theo ThS. Đinh Công Tuấn, Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp thì đối với một số quốc gia có nghề TPL truyền thống, lâu đời như Pháp, Bỉ, Hy Lạp, Lúcxămbua, Hà Lan,... TPL hành nghề độc lập, không hưởng lương từ ngân sách nhà nhưng được nhà nước bổ nhiệm, trao quyền để thực hiện một số công việc. Khi nghiên cứu về mô hình Thi hành án dân sự ở các nước thì mô hình của Pháp được xếp vào loại mô hình Thi hành án bán công với nghĩa là quá trình đưa bản án, quyết định của tòa án vào thực thi có sự tham gia của hai chủ thể: Thẩm phán chuyên trách thi hành án là đại diện của công quyền và Thừa phát lại (hành nghề tự do). 1.4.2. Mô hình thứ hai: Chấp hành viên tự chủ tài chính, hoạt động theo phương thức hành nghề tự do Kết quả nghiên cứu của ThS. Đinh Công Tuấn, Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp cho thấy, ở một số quốc gia khác như Đức, Áo, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đan Mạch,... chấp hành viên là công chức do nhà nước bổ nhiệm nhưng hoạt động theo phương thức hành nghề tự do, làm việc độc lập với tòa án, chịu trách nhiệm về tài chính, nghề nghiệp và kỷ luật; Nhà nước có thể trả lương tối thiểu hoặc không trả lương cho những người hành nghề độc lập này. Mô hình tiêu biểu thuộc nhóm này là mô hình Chấp hành viên của CHLB Đức. Chấp 12
  15. hành viên đảm nhiệm những công việc tương tự như của TPL, chịu sự giám sát trực tiếp của chánh án tòa án quận, nhưng không nằm trong cơ cấu tổ chức của tòa án hay trong hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật. Chấp hành viên thành lập văn phòng theo quản hạt của các tòa án quận và có trụ sở, con dấu riêng, giao dịch dưới tên gọi, chức danh, được tuyển nhân viên giúp việc. Tại Nhật và một số nước châu Á, chấp hành viên do nhà nước bổ nhiệm, thực hiện công tác tống đạt và tổ chức thi hành án tương tự như mô hình của Đức. 1.4.3. Mô hình thứ ba: Xã hội hóa, chuyển đổi mô hình thi hành án nhà nước thành TPL hành nghề tự do, độc lập, có sự phân định phạm vi thẩm quyền thi hành án giữa TPL và thi hành án nhà nước Một số quốc gia tại Đông Âu, Trung Âu có nền kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường như: Bungaria, Hungary, Cộng hòa Séc, Ba Lan, Xlôvenia, Slovennia,.. và Campuchia ở Đông Nam Á đã xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự, nghĩa là chuyển đổi các cơ quan thi hành án dân sự nhà nước thành hệ thống các văn phòng TPL hành nghề tự do, thực hiện tổ chức thi hành án, tống đạt văn bản tư pháp, lập Vi bằng và cho phép sử dụng văn bản Vi bằng do TPL lập như một loại chứng cứ,.. 1.4.4. Nhận xét: Có thể thấy, hầu hết các quốc gia hiện nay đều áp dụng mô hình TPL với tư cách là người hành nghề tự do hoặc là người thuộc cơ quan nhà nước hoạt động theo cơ chế tự chủ tài chính. Điều này cho thấy, việc xây dựng mô hình TPL hoặc chuyển sang mô hình TPL là xu hướng ngày càng chiếm ưu thế trên thế giới, thể hiện sức sống bền bỉ cũng như ưu điểm của TPL, bổ khuyết cho các hoạt động của cơ quan nhà nước, đồng thời giảm gánh nặng ngân sách nhà nước. 13
  16. TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 Việc tìm hiểu, luận giải mô hình tổ chức Thừa phát lại ở Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng giúp cho hoạt động của TPL được thực hiện theo định hướng đã được cơ quan nhà nước như: Đảm bảo cho hoạt động của TPL trơn tru; không chồng chéo với các ngành nghề khác; đặt dưới sự quản lý của Đảng, Nhà nước; hoạt động TPL phải liên quan đến các cơ quan khác; có hiệu quả kinh tế. Trong chương này, luận văn đạt được một số kết quả như sau: Thứ nhất làm rõ hơn khái niệm, đặc điểm, vai trò mô hình Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay; thứ hai chỉ ra một số yêu cầu của mô hình tổ chức Thừa phát lại ở Việt Nam; thứ ba chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến mô hình Thừa phát lại ở Việt Nam; thứ tư đã nêu ra được những kinh nghiệm mô hình Thừa phát lại ở một số nước trên thế giới có giá trị tham khảo 14
  17. CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG MÔ HÌNH TỔ CHỨC THỪA PHÁT LẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Khái quát mô hình Thừa phát lại ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử Thừa phát lại xuất hiện ở Việt Nam song hành với việc Vua Tự Đức ký Hoà ước ngày 05 tháng 6 năm 1862 theo đó nhượng cho Pháp 6 tỉnh Nam kỳ, tiếp đó, với Hiệp ước ngày 06/6/1884 giữa triều đình nhà Nguyễn và Pháp, Việt Nam đã trở thành một nước thuộc địa của Pháp. Từ đó, Pháp đã trực tiếp áp đặt chế độ cai trị thực dân, áp dụng quy chế về thuộc địa lãnh thổ đối với nước ta và phân chia nước ta thành Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ cùng với đó Pháp đặt Thống sứ ở Bắc kỳ và Khâm sứ ở Trung kỳ đại diện cho chính quyền Pháp, coi 6 tỉnh Nam kỳ như một hạt, mỗi tỉnh được coi như mỗi quận của nước Pháp. Sau đó, nhiệm vụ, quyền hạn của Thừa phát lại đã được ghi nhận cụ thể ở Bộ luật dân sự và thương sự tố tụng, Bộ luật hình sự tố tụng do chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ban hành năm 1972. Như vậy có thể thấy việc THADS do Thừa phát lại và Ban tư pháp xã thực hiện trước đây được thay thế bằng Thẩm phán huyện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chánh án. Do vậy từ năm 1950, Thừa phát lại không được duy trì ở miền Bắc nước ta nữa. 2.2. Những kết quả đạt đƣợc, hạn chế trong mô hình tổ chức Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay 2.2.1. Những kết quả đạt được 2.2.1.1. Về quản lý nhà nước đối với Thừa phát lại Thứ nhất, về công tác xây dựng thể chế về thí điểm chế định Thừa phát lại. Thứ hai, quán triệt và tuyên truyền nâng cao nhận thức về Thừa phát lại: Thứ ba, công tác đào tạo, bổ nhiệm Thừa phát lại, thành lập, cấp phép hoạt động các văn phòng Thừa phát lại. Thứ tư, về kiểm tra, giám sát hoạt động Thừa phát lại. Thứ năm, công tác sơ kết, tổng kết hoạt động Thừa phát lại 2.2.1.2. Về kiểm sát hoạt động Thừa phát lại 15
  18. Để bảo đảm hoạt động bình thường của các tổ chức Thừa phát lại, quan nghiên cứu cho thấy, các cơ quan chức năng cũng đã thực hiện tốt việc giám sát, kiểm sát hoạt động Thừa phát lại theo quy định của pháp luật. Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức giám sát việc thực hiện thí điểm Thừa phát lại trên địa bàn. Hàng năm, VKSND tối cao, đã ban hành Chỉ thị và kế hoạch công tác ngành kiểm sát về việc chỉ đạo VKSND các địa phương tiến hành kiểm sát thưởng xuyên và trực tiếp việc tuân theo pháp luật hoạt động của TPL, quá phát hiện các sai sót để kịp thời chính chỉnh cũng như xử lý theo quy định pháp luật. 2.2.1.3. Về thực hiện mô hình tổ chức Thừa phát lại hiện hành Trên cơ sở các nghị quyết của Quốc hội và các văn bản hiện hành, từ năm 2010, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan, thống nhất ý kiến với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao lựa chọn, phê duyệt Đề án thực hiện thí điểm của 12 địa phương ngoài thành phố Hồ Chí Minh. Tính đến nay, chế định Thừa phát lại đã được triển khai tại 13 địa phương gồm: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định, Bình Dương, Đồng Nai, Tiền Giang, An Giang, Vĩnh Long,. 2.2.2. Những tồn tại, hạn chế Bên cạnh những kết quả đạt được, mô hình tổ chức của Thừa phát lại còn có những khó khăn, vướng mắc, tồn tại, hạn chế nhất định, cụ thể như: 2.2.2.1. Về quản lý nhà nước đối với mô hình tổ chức Thừa phát lại Thứ nhất, các hoạt động của TPL gắn chặt, hỗ trợ trực tiếp đối với các hoạt động của cơ quan tư pháp như Tòa án, Thi hành án dân sự, v.v. Thứ hai, còn tồn tại hạn chế trong việc thành lập Văn phòng TPL. Thứ ba, hạn chế trong công tác quản lý, kiểm tra, kiểm sát, giám sát hoạt động TPL. 2.2.2.2. Về mô hình tổ chức Thừa phát lại Kết quả hoạt động của một số Văn phòng Thừa phát lại còn chưa cao, chưa đồng đều ở các địa phương thí điểm và ở các mảng công việc, nhất là tại 12 địa phương mở rộng thí điểm; trong đó việc xác minh điều kiện thi hành án và trực tiếp 16
  19. tổ chức thi hành án còn hạn chế, chiếm tỷ lệ thấp trong kết quả hoạt động. Quá trình hoạt động của các Văn phòng Thừa phát lại tuy đã có một số sai sót, nhưng đó là những sai sót nhỏ trong thực thi một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, không phải là bản chất của chế định Thừa phát lại và một số bất cập như: Thứ nhất, về chất lượng hoạt động Thừa phát lại, một số văn phòng Thừa phát lại còn những sai sót, ảnh hưởng tới niềm tin và sự lựa chọn dịch vụ của người dân cũng như các cơ quan Nhà nước. Thứ hai, có sự mất cân đối lớn trong các dịch vụ của Thừa phát lại Thứ ba, về chi phí dịch vụ Thừa phát lại, thực hiện tống đạt văn bản của Tòa án và cơ quan thi hành án dân sự là công việc có khối lượng rất lớn. 2.2.3. Nguyên nhân của hạn chế Mặc dù đã từng tồn tại ở Việt Nam nhưng qua thời gian dài, chế định TPL trở nên khá mới mẻ đối với nhiều người dân. Các văn phòng TPL hoạt động chưa lâu, trong khi cơ sở pháp lý chưa đầy đủ, lại theo cơ chế thí điểm nên người dân còn tâm lý e ngại, chưa thật tin tưởng để sử dụng các dịch vụ của TPL. Cũng do thực hiện theo cơ chế thí điểm, trong điều kiện các quy định về TPL còn thiếu, hiệu lực thấp (đều là văn bản dưới luật) và chưa đồng bộ với các quy định trong hệ thống pháp luật nên hoạt động của TPL chưa nhận được sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức có liên quan, nhất là trong việc tống đạt văn bản, xác minh điều kiện và trực tiếp tổ chức thi hành án, đã hạn chế hiệu quả hoạt động của tổ chức TPL Ngoài ra công tác thanh tra, kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc có nơi chưa sâu sát, kịp thời; công tác đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ cho đội ngũ TPL, thư ký và nhân viên các văn phòng TPL chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức về chủ trương của Đảng, Nhà nước đối việc thí điểm TPL chưa đầy đủ. Nhìn chung, nguyên nhân lớn nhất của những tồn tại, hạn chế trên đó là do đang trong giai đoạn thí điểm, do đó về nguồn lực; về thể chế; về hiểu biết và sự tin tưởng của người dân đối với hoạt động của Thừa phát lại... còn dừng lại ở 17
  20. một mức độ nhất định. Nếu chế định này được thực hiện chính thức, có thời gian, lộ trình phù hợp chắc chắn sẽ khắc phục được những tồn tại, hạn chế trên. TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 Thời gian qua mô hình tổ chức Thừa phát lại ở Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực góp phần quan trọng trong công cuộc cải cách hành chính và xã hội hóa một số lĩnh vực do nhà nước thực hiện thành tư nhân. Hoạt động của Thừa phát lại đã giúp giảm tải công việc, từ đó góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xét xử và thi hành án. Hoạt động lập Vi bằng của Thừa phát lại đã tạo thêm một công cụ pháp lý để người dân tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia các giao dịch dân sự, kinh tế và trong quá trình tố tụng. Có thể nói, hoạt động của Thừa phát lại đã góp phần bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong đời sống dân sự, trong quan hệ với cơ quan nhà nước và trong các hoạt động tố tụng; tạo môi trường pháp lý lành mạnh, đảm bảo các giao dịch dân sự, kinh tế đúng pháp luật, từ đó thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động Thừa phát lại còn có những khó khăn, vướng mắc, tồn tại, hạn chế nhất định, cụ thể như: Việc triển khai thực hiện nghị quyết của Quốc hội còn chậm, công tác tuyên truyền vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu cho việc phục vụ thí điểm một chế định mới; kết quả hoạt động của một số Văn phòng Thừa phát lại còn chưa cao, chưa đồng đều ở các địa phương thí điểm và ở các mảng công việc. Những tồn tại, hạn chế trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân khách quan và chủ quan. Về nguyên nhân khách quan: Cả về mặt lý luận, pháp lý và thực tiễn còn đang trong quá trình thí điểm để có cơ sở nghiên cứu, hoàn thiện; việc xây dựng và hoàn thiện thể chế về Thừa phát lại là rất khó khăn, chưa thể ban hành đạo luật có hiệu lực pháp lý cao, đồng bộ với các bộ luật, luật có liên quan để điều chỉnh về vấn đề này; nhu cầu sử dụng dịch vụ này tại một số địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn chưa nhiều… 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0