intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và Luật hành chính: Quyền của bị cáo là người chưa thành niên phạm tội trong xét xử hình sự tại TAND huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng

Chia sẻ: Ocxaodua999 Ocxaodua999 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:28

33
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ các vấn đề về lý luận và thực tiễn về quyền của bị cáo là NCTN tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự thông qua đó tìm ra những bất cập, vướng mắc trong quá trình thực hiện BLTTHS, đồng thời tìm ra những hạn chế, bất cập, chưa hoàn thiện trong BLTTHS mới ban hành năm 2015, và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng BLTTHS năm 2015 nhằm bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền của, bị cáo là NCTN trong TTHS ở Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và Luật hành chính: Quyền của bị cáo là người chưa thành niên phạm tội trong xét xử hình sự tại TAND huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN THỊ LAN ANH QUYỀN CỦA BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG XÉT XỬ HÌNH SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG Chuyên ngành: Luật Hiến Pháp và Luật Hành chính Mã số : 8 38 01 02 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI, NĂM 2019
  2. Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trương Hồ Hải Phản biện 1: TS. Đàm Bích Hiên Phản biện 2: GS.TSKH. Đào Trí Úc Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia. Địa điểm: Phòng họp 204 .Nhà A - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia. Số 77 - Đường Nguyễn Chí Thành - Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội Thời gian: vào hồi 14giờ00 ngày 13tháng12.năm 2019 Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia Hoặc trên trang Webcủa Ban Quản lý Đào tạo Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của luận văn Trong thời gian vừa qua Đảng ta đã ban hành chiến lược về cải cách tư pháp đến năm 2020. Thực hiện yêu cầu đó, Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã thể hiện quan điểm đề cao vai trò của Tòa án trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) là bảo đảm vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tư pháp, giữ vai trò trọng tâm của hoạt động xét xử trong tố tụng hình sự (TTHS) và thực hiện tranh tụng. Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, cùng với việc xác định Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, Hiến pháp năm 2013 đã xác định nhiệm vụ của Tòa án nhân dân (TAND) là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người (QCN), quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân [39]. Tòa án là cơ quan có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Theo hiến pháp quy định thì chỉ Tòa án thực hiện xét xử đưa ra phán quyết nhân danh nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, có thẩm quyền coi một người là có tội và phải chịu hình phạt, bảo đảm quyền quan trọng của bị cáo với tính cách là QCN về dân sự. Trong toàn bộ quá trình TTHS, phiên tòa xét xử là nơi thể hiện tập trung và rõ nét bản chất hoạt động xét xử của Tòa án, quyết định tính đúng đắn, khách quan của việc giải quyết vụ án, bảo vệ QCN và bảo vệ pháp chế XHCN. Ở Việt Nam, trẻ em luôn được xác định là chủ nhân tương lai của đất nước. Do đó, sau khi phê chuẩn Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em năm 1989, Nhà nước Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo vệ quyền của trẻ em trên nhiều phương diện, nhất là phương diện pháp lý. Nhà nước ta đã thể chế hóa những cam kết quốc tế của mình vào nhiều lĩnh vực khác nhau của pháp luật quốc gia, trong đó có lĩnh vực pháp luật TTHS. Trong pháp luật TTHS, Nhà nước không chỉ quy định quyền của bị cáo là người chưa thành niên, mà còn quy định những bảo đảm để quyền đó được thực hiện đầy đủ. Người chưa thành niên là nhóm người dễ bị tổn thương, khi tham gia vào
  4. TTHS với tư cách là bị cáo họ đều có thể bị tác động ở mức độ nghiêm trọng nhất định bởi các biện pháp điều tra và biện pháp cưỡng chế của TTHS. TTHS là quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án nhưng cũng là quá trình mà bị cáo là người chưa thành niên luôn có nguy cơ bị tổn thương thêm lần nữa. Vì thế, chỉ có thể bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong TTHS khi các quyền này được pháp luật quy định và được hiện thực hóa bởi hoạt động thực hiện pháp luật của những chủ thể có liên quan và sự bảo đảm chung của Nhà nước và xã hội. Bên cạnh những tư tưởng chỉ đạo, quan điểm nguyên tắc xử lý trách nhiệm hình sự với người phạm tội chưa thành niên được quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS), Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) Việt Nam cũng có những quy định, nguyên tắc riêng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi. Đáp ứng yêu cầu Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2002 về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 và Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ trọng tâm của công tác trong thời gian tới, ngày 27/11/2015 BLTTHS đã được thông qua thay thế cho BLTTHS năm 2003. Trong những năm qua, tình hình tội phạm có chiều hướng gia tăng, đặc biệt là tình trạng người chưa thành niên vi phạm pháp luật hình sự vẫn còn diễn ra rất phức tạp. Trên địa bàn huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng trong những năm vừa qua xảy ra nhiều vụ án hình sự mà có bị cáo là người dưới 18 tuổi. Trong quá trình THTT đặc biệt ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, viêc bảo đảm quyền của bị cáo tuy đã có những tiến bộ nhất định nhưng vẫn còn nhiều điểm khó khăn, tồn tại và bất cập. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, quy định mới của Hiến pháp năm 2013 và hội nhập quốc tế hiện nay, pháp luật TTHS còn có những bất cập nhất định, việc thực hiện còn những hạn chế, thiếu sót cần có giải pháp khắc phục. Yêu cầu cải cách tư pháp đòi hỏi khách quan phải tăng cường bảo đảm quyền trẻ em trong lĩnh vực tư pháp hình sự trong đó có TTHS. Chính vì vậy, tác giả quyết định chọn vấn đề: Quyền của bị cáo là người chưa thành niên phạm tội trong xét xử hình sự tại TAND huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
  5. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu về vấn đề bảo đảm quyền con người của bị cáo trong tố tụng hình sự, đặc biệt là vai trò bảo đảm quyền con người của Tòa án đã có rất nhiều công trình nghiên cứu tìm hiểu ở những mức độ khác nhau, có thể kể đến như: * Những công trình nghiên cứu trong nước. - Luận án tiến sỹ luật học “Bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị cáo trong TTHS Việt Nam” năm 2011 của tác giả Lại Văn Trình [46]. Công trình ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học đã phân tích một cách tổng thể, chi tiết về hoạt động bảo đảm quyền con người của những người bị buộc tội như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Luận án cũng xác định được các phương thức bảo đảm quyền của bị can, bị cáo cũng như đưa ra các giải pháp nhằm tằng cường bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự trong đó có xác định vị trí, vai trò của Tòa án trong hoạt động này. - Luận án tiến sỹ luật học “Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay” năm 2017 của tác giả Võ Quốc Tuấn [49]. Trong luận án này tác giả đã phân tích trực tiếp về hoạt động bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, trong đó có xác định được vị trí, vai trò của Tòa án trong bảo đảm quyền của bị cáo. Trong hoạt động này Tòa án với tính chất là cơ quan xét xử sẽ tiến hành các phương thức, biện pháp để bảo đảm thực hiện tốt quy định của pháp luật TTHS về bảo đảm quyền con người của bị cáo. - Đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia “Bảo vệ QCN bằng pháp luật hình sự và pháp luật TTHS trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam” - Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội năm 2006 [29]. Trong công trình này, nhóm tác giả phân tích về hoạt động bảo đảm quyền con người nói chung trong đó có nhóm quyền con người của bị can, bị cáo, người bị hại, những người tham gia tố tụng khác. Như vậy, hoạt động bảo đảm quyền con người của bị cáo chỉ là một phần đối tượng nghiên cứu mang tính chính thức của đề tài. Trong chương 3 của đề tài nhóm tác giả đã phân tích về các giải
  6. pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự. - Ngoài các công trình ở cấp độ là luận án, đề tài khoa học thì còn có các bài tạp chí “Bảo đảm quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong TTHS Việt Nam” của tác giả Hoàng Thị Minh Sơn, Tạp chí Luật học số 3/2011 [43]. Trong bài viết này tác giả đã phân tích về nội dung, phương thức bảo đảm quyền con người của các chủ thể bị bắt, bị tạm giữ, bị tạm giam trong tố tụng hình sự. Những chủ thể này bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do đó có khả năng cao bị tác động tiêu cực đến các quyền con người cơ bản của họ. Chính vì vậy, trong bài viết của mình, tác giả còn đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người của người tạm giữ, người bị tạm giam…; Bài viết, “Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo” của tác giả Phạm Hồng Hải, Tạp chí Kiểm sát số 01/2009 [19]. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích về một nội dung có thể nói là quan trọng nhất, cơ bản nhất về quyền của bị cáo đó là quyền bào chữa, nội dung của quyền này bao gồm quyền tự bào chữa, quyền im lặng và quyền nhờ người bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự trong đó thể hiện tập trung nhất là tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự; Bài viết “Bảo vệ QCN của người bị tạm giữ, bị cáo trong TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” [48] của tác giả Trần Văn Độ, Tạp chí Khoa học pháp lý số 6/2011. Bài viết của tác giả cũng đưa ra các phân tích về hoạt động bảo vệ quyền con người của những đối tượng bị buộc tội trong tố tụng hình sự như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Bài viết của tác giả Võ Quốc Tuấn (2015), “Bảo đảm QCN của bị cáo trong hoạt động tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 7 [48]. Trong bài viết của mình tác, giả đã đưa ra các phân tích về hoạt động bảo đảm quyền con người của bị cáo trong quá trình tranh luận để xác định sự thật khách quan của bị án hình sự. Qúa trình tranh luận tại phiên tòa là quá trình một quyền của bị cáo được bảo đảm một cách cụ thể và chi tiết nhất đó là quyền bào chữa...
  7. - Nhóm công trình thứ hai là các công trình nghiên cứu về hoạt động xét xử vụ án hình sự là người chưa thành niên như: - Tham luận "Những vướng mắc trong thực tiễn xét xử người chưa thành niên (NCTN) phạm tội" [45] của Quách Hữu Thái tham luận tại hội thảo chuyên đề của Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh năm 2013. Trong tham luận của mình, tác giả đã đưa ra phân tích về những vướng mắc, trong quá trình xét xử đối với người chưa thành niên phạm tội. Trong nội dung tham luận, tác giả có đề cập và phân tích về hoạt động bảo đảm quyền con người trong xét xử đối với các bị cáo là người chưa thành niên. - Luận án tiến sỹ "Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN theo pháp luật TTHS Việt Nam" năm 2013 Học viện Khoa học Xã hội của Trần Hưng Bình [2]. Trong luận án của mình, tác giả đã nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền của người chưa thành niên trng tố tụng hình sự. Như vậy, luận án nghiên cứu về bảo đảm quyền của người chưa thành niên trong các giai đoạn tố tụng và ở các tư cách tố tụng khác nhau như người bị bắt, tạm giữ, bị can, bị cáo… Đề tài cũng đưa ra các phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam. - Luận văn thạc sĩ “Xét xử hình sự sơ thẩm đối với NCTN phạm tội từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” [50] năm 2016 Học viện Khoa học Xã hội của Trương Hồng Tú. Đề tài phân tích về hoạt động xét xử sơ thẩm đối với các vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn cụ thể là thành phố Hồ Chí Minh. Trong đó tác giả cũng đã đề cập đến nội dung về bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong xét xử vụ án hình sự.; * Nhóm các công trình nghiên cứu nước ngoài. - Cuốn Human right and criminal procedure (tạm dịch : Quyền con người và tố tụng hình sự) (2009) [27] của tác giả Jeremy McBride do Hội đồng Châu Âu xuất bản với mục đích hỗ trợ các thẩm phán, công tố viên và luật sư trong việc thực thi pháp luật chung Châu Âu về tố tụng hình sự đã đề cập nhiều đến QCN trong tố tụng hình sự có minh chứng bằng những vụ án thực tế. - A guide to juvenile court law (tạm dịch: Hướng dẫn thi hành luật xét xử người chưa thành niên) [16] của tác giả Gilbert H.F.Mumford và T.J.Selwood xuất bản năm 1974 tại London. Nội dung chủ yếu đề cập đến khái niệm NCTN
  8. và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là từ 14 đến 17 tuổi. Tác giả đã dựa vào định nghĩa của The Children and Young Persons Act của những năm 1933 và 1938 để đưa ra khái niệm NCTN. Bên cạnh đó, tác giả còn đề cập đến phiên tòa xét xử NCTN phạm luật sẽ được tiến hành theo các hình thức như đưa ra xét xử giản đơn như một cuộc thảo luận (chỉ có một thẩm phán tham gia) hay xét xử tại Tòa án với sự có mặt của Bồi thẩm đoàn. Thành phần xét xử sẽ gồm 3 thẩm phán và trong đó ít nhất phải có một người là nữ giới. - Law of Juvenile Delinquency (tạm dich: Luật quy định các hành vi phạm tội NCTN) [15] của tác giả Frederick B. Sussmann, A.B., M.S. in Ed., LL.B xuất bản năm 1968 tại New York đề cập đến quy trình, thủ tục điều tra và xét xử đối với NCTN phạm tội. Tuy nhiên, nhóm tác giả này chỉ mới nêu được khái quát các thủ tục TTHS đối với vụ án hình sự tham gia của NCTN phạm tội mà chưa chỉ ra được quy trình, thủ tục điều tra sẽ bắt đầu như thế nào. - The guarantees for accused persons under Article 6 of the European Convention on Human Rights (tạm dịch: Những quy định về bảo lãnh cho bị cáo theo khoản 6 Công ước của Liên minh Châu Âu về Nhân quyền) [44] của tác giả Stephanos Stavros, NXB Sweet & Maxwell, Anh quốc, năm 1993. Công ước Châu Âu về nhân quyền, tên chính thức là Công ước bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do căn bản (Convention for the Protection of Human Rights and Fundamental Freedoms). Điều 6 Công ước đưa ra quyền được xét xử công bằng cách chi tiết, trong đó có quyền được xét xử công khai trước một tòa án độc lập và không thiên vị trong thời gian hợp lý, quyền được coi là vô tội khi chưa có phán quyết của tòa án, và các quyền tối thiểu khác đối với những người bị cáo buộc một tội hình sự (đủ thời gian và các điều kiện để chuẩn bị việc biện hộ bảo vệ họ, tiếp cận với đại diện pháp luật, quyền thẩm vấn các nhân chứng chống lại họ, quyền được có thông dịch viên miễn phí). Công trình phân tích một cách đầy đủ về các vụ án cụ thể tại các quốc gia thành viên EU và sử dụng phép so sánh giữa những vụ án được xét xử theo Công ước Châu Âu về nhân quyền với những phán quyết được dựa trên sự áp dụng của các quốc gia thành viên. Tác giả đã kết luận rằng Điều 6 đã được hiểu và vận dụng vào trong các luật quốc gia theo cách khác hoàn toàn với những chuẩn mực được quy định trong Công ước. Vấn đề là
  9. các quốc gia thành viên hiểu, vận dụng thế nào về những quy định của Công ước phù hợp với truyền thống lập pháp của quốc gia mình. - Criminal process and human rights (tạm dịch: Quá trình tố tụng hình sự và các quyền con người) [28] của tập thể tác giả là các giáo sư, phó giáo sư của các Trường Đại học Luật tại Melbourne: Jeremy Gans, Terese Henning, Jill Hunter và Kate Wamer, NXB New South Wales, Australia, 2011. Nội dung bàn về vấn đề thực thi quyền con người tại Australia đặc biệt là trong quá trình TTHS phải đảm bảo các quyền tự do của con người trong bắt giữ, giam giữ, xét xử; quyền được giữ im lặng; quyền được xét xử một cách công bằng. Như vậy, có thể thấy, vấn đề bảo đảm quyền con người nói chung và bảo đảm quyền con người của người chưa thành niên trong tố tụng hình sự nói riêng ở Việt Nam cũng như trên thế giới đã có khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến. Tuy nhiên các công trình này là những công trình nghiên cứu đề cập những nội dung khác nhau, ở những khía cạnh chung về vấn đề đảm bảo quyền của các bị cáo là chủ thể bị buộc tội nói chung trong TTHS Việt Nam. Các công trình này đề được công bố trước khi BLTTHS năm 2015 được ban hành và không nghiên cứu thực trạng thực hiện tại một địa phương nhất định là huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ các vấn đề về lý luận và thực tiễn về quyền của bị cáo là NCTN tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự thông qua đó tìm ra những bất cập, vướng mắc trong quá trình thực hiện BLTTHS, đồng thời tìm ra những hạn chế, bất cập, chưa hoàn thiện trong BLTTHS mới ban hành năm 2015, và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng BLTTHS năm 2015 nhằm bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền của, bị cáo là NCTN trong TTHS ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
  10. - Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về quyền của bị cáo là NCTN trong TTHS như khái niệm quyền của bị cáo là người chưa thành niên, các đặc điểm của quyền bị cáo là người chưa thành niên; khái quát hóa vấn đề bảo đảm quyền của NCTN trong TTHS Việt Nam như khái niệm, đặc điểm, nội dung của bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên. - Đánh giá việc áp dụng BLTTHS trong thời gian qua, làm sáng tỏ những bất cập, hạn chế của BLTTHS năm 2015 về quyền của bị cáo là NCTN trên địa bàn huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng - Những nội dung cần sửa đổi, bổ sung nhằm góp phần hoàn thiện hơn nữa BLTTHS năm 2015 và tăng cường hiệu quả áp dụng BLTTHS trong thực tiễn Việt Nam nói chung và huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng nói riêng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về quyền của bị cáo là người chưa thành niên và thực tiễn thực hiện tại huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Luận văn nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành về quyền của bị cáo dưới góc độ TTHS Việt Nam. - Về thực tiễn: Luận văn nghiên cứu hoạt động áp dụng các quy định của pháp luật về quyền của bị cáo tại huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018. - Về thời gian: Luận văn nghiên cứu quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và thực tiễn trên địa bàn huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành Luận văn và giải quyết được các yêu cầu đề ra Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lê nin; Tư tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng ta về bảo đảm QCN nói chung và bảo đảm quyền
  11. của bị cáo là NCTN nói riêng tại Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Việc thực hiện luận văn còn dựa vào thực tiễn xét xử, những tổng kết, đánh giá của ngành Tòa án, những số liệu thống kê về tình hình xét xử, về tổ chức cán bộ... để kiến nghị, đề xuất có cơ sở thực tiễn tại huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng. Ngoài ra, tác giả dùng phương pháp nghiên cứu so sánh, phương pháp tổng hợp, tiếp cận hệ thống, lịch sử, thống kê để hoàn thành luận văn này. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 6.1. Ý nghĩa lý luận Đề tài góp phần làm phong phú hơn và hoàn thiện hơn cơ sở lý luận về quyền của bị cáo là người chưa thành niên, bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong xét xử vụ án hình sự như khái niệm, nội dung và các phương báo bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Đề tài nghiên cứu thực tiễn hoạt động bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên trên địa bàn huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người của bị cáo là người chưa thành niên trong giai đoạn hiện nay. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là tài liệu tham khảo trong thực tiễn công tác của các cán bộ Tòa án, Viện kiểm sát, Luật sư đồng thời có thể là tài liệu tham khảo trong các cơ sở đào tạo và nghiên cứu luật học. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu thành 03 chương, cụ thể như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong xét xử hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện
  12. Chương 2: Thực trạng quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong xét xử hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng
  13. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA BỊ CÁO LÀ NGƯỜI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN 1.1. Những vấn đề chung về quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện 1.1.1. Khái niệm quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong xét xử hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện Trước khi xác định khái niệm quyền của bị cáo là người chưa thành niên chúng ta cần tìm hiểu khái niệm về bị cáo là người chưa thành niên phạm tội trong TTHS. Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về người phạm tội chưa thành niên như sau: Dưới góc độ TTHS, người phạm tội chưa thành niên là người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Bị cáo chưa thành niên là người đang ở độ tuổi từ đủ 14 đến chưa thành niên đã bị VKS truy tố bằng bản cáo trạng ra trước Tòa án và Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền của bị cáo là người chưa thành niên là những điều mà pháp luật quy định cho người từ đủ 14 đến chưa thành niên bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử được hưởng, được làm, được đòi hỏi khi tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. 1.1.2. Đặc điểm của quyền bị cáo là người chưa thành niên trong xét xử hình sự của tòa án nhân dân cấp huyện Thứ nhất, do bị cáo là người chưa thành niên, có đặc điểm tâm sinh lý đặc thù nên hệ thống quyền của bị cáo là người chưa thành niên có những nét đặc thù hơn so với quyền của người đã thành niên. Thứ hai, với những đặc điểm tâm sinh lý nêu trên nên bị cáo chưa thành niên chưa có năng lực đầy đủ để có thể tự bảo vệ lợi ích của mình trước sự buộc tội của Nhà nước chính vì vậy, bị cáo là người chưa thành niên có những nét đặc trưng là quyền bào chữa của họ cần được bảo đảm một cách chặt chẽ.
  14. Thứ ba, quyền của bị cáo là người chưa thành niên là đối tượng đặc biệt, cần có những quy định riêng, cần được bảo vệ đặc biệt bằng một thủ tục tố tụng thân thiện với họ. Thứ tư, quyền của bị cáo là người chưa thành niên cần được bảo vệ chặt chẽ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. 1.1.3. Quy định của pháp luật về quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong xét xử vụ án hình sự a. Những quyền chung của bị cáo là người chưa thành niên - Được giải thích về quyền và nghĩa vụ: - Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá và đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; - Đề nghị thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch theo quy định của BLTTHS: b. Quyền bào chữa của bị cáo chưa thành niên - Quyền tự bào chữa - Quyền nhờ NBC của bị cáo chưa thành niên c. Những quyền khác của bị cáo - Được nhận các quyết định theo quy định của BLTTHS như quyết định đưa vụ án ra xét xử; bản án, quyết định của Toà án: - Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà; nói lời sau cùng trước khi nghị án: - Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án 1.2. Những vấn đề chung về bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện 1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện Bị cáo chưa thành niên là người đang ở độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi đã bị VKS truy tố bằng bản cáo trạng ra trước Tòa án và Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Như vậy, chúng ta có thể hiểu bảo đảm quyền của bị cáo là NCTN là những hoạt động, những công việc tạo ra những điều kiện, tiền đề cần thiết
  15. làm cho quyền của bị cáo là NCTN tham gia TTHS được có đầy đủ, để cho quyền đó có tính hiện thực và không mang tính hình thức. Từ khái niệm bảo đảm quyền của bị cáo là NCTN thể hiện hai đặc điểm sau đây: Thứ nhất, Chủ thể bảo đảm Bảo đảm quyền của bị cáo là NCTN xuất phát từ yêu cầu bảo vệ QCN nói chung. Vấn đề bảo đảm quyền của bị cáo là NCTN thực chất là vấn đề các yếu tố bảo đảm tính hiện thực của quyền đã được pháp luật thừa nhận. Qua phân tích, chúng tôi có thể đưa ra khái niệm bảo đảm quyền của bị cáo là NCTN như sau: Bảo đảm quyền của bị cáo là NCTN là hoạt động của nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng, các tổ chức, cá nhân trong việc xây dựng các quy phạm pháp luật và thực hiện pháp luật trên cơ sở những bảo đảm chung cho QCN nhằm mục đích bảo vệ các quyền của bị cáo là NCTN và thực thi chúng trong cuộc sống. 1.2.2. Nội dung bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện 1.2.2.1. Những bảo đảm về kinh tế xã hội Bảo đảm kinh tế cho việc thực hiện QCN là việc tạo ra tiền đề vật chất để quyền đó thực hiện. Như vậy, bảo đảm về chính trị, kinh tế, xã hội là điều kiện cần nhưng chưa đủ để tạo ra một môi trường xã hội cho QCN được thực hiện mà cần phải có bảo đảm về mặt pháp luật là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo đảm QCN, đồng thời bảo đảm về mặt pháp lý có ý nghĩa trực tiếp trong việc thực hiện trên thực tế. Sự phân định các thành tố trong việc bảo đảm chỉ là tương đối vì các bảo đảm đều thể hiện qua hình thức pháp lý. 1.2.2.2. Bảo đảm về hệ thống pháp luật Ở Việt Nam, QCN là các giá trị đối với những thành quả cách mạng đã đạt được trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc đã được quy định bằng pháp luật thành các quyền và nghĩa vụ của công dân. Tóm lại, xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống các quy phạm pháp luật về QCN nói chung và quy phạm pháp luật về QCN trong TTHS là
  16. cơ sở pháp lý quan trọng nhất để từ đó tổ chức thực hiện các đảm bảo khác về QCN nói chung và quyền của bị cáo là NCTN trong TTHS nói riêng. 1.2.2.3. Bảo đảm về tổ chức hoạt động Để đáp ứng những yêu cầu đang đặt ra của công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta, cùng với việc phải cải cách bộ máy nhà nước như là một nhiệm vụ trọng tâm thì phải xây dựng và hoàn thiện các thiết chế về tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp để các cơ quan này hoạt động đúng chức năng, thẩm quyền, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là một tất yếu. 1.2.3. Vai trò của bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện Quy định quyền của một chủ thể trong pháp luật TTHS giúp phân biệt chủ thể này với chủ thể khác, đồng thời xác định vị trí và tầm quan trọng của chủ thể đó trong mối quan hệ pháp luật và có vai trò quan trọng về cả chính trị, xã hội và pháp lý. Tiểu kết chương 1 Trong chương 1 của luận văn học viên phân tích về những vấn đề lý luận chung về quyền của bị cáo là người chưa thành niên và bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên. Trong đó nội dung của chương 1 gồm: Thứ nhất, phân tích khái niệm về người chưa thành niên, bị cáo là người chưa thành niên và quyền của bị cáo là người chưa thành niên. Thứ hai, vấn đề bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên. Thứ ba, các yếu tố ảnh hưởng tới bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên là việc bảo đảm đầy đủ các yếu tố chính trị - xã hội, yếu tố pháp lý, yếu tố cơ sở vật chất.
  17. Chương 2 THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG XÉT XỬ HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 2.1. Thực trạng bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong xét xử vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên thành phố Hải Phòng 2.1.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến thự trạng bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong xét xử hình sự tại Tòa án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên thành phố Hải Phòng Yếu tố thứ nhất, đặc điểm tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Theo số liệu thống kê cho thấy, từ năm 2014 đến năm 2018 toàn huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng đưa ra xét xử 522 vụ/678 bị cáo. Trong đó có 88 vụ/ 115 bị cáo là người chưa thành niên (chiếm tỉ lệ 1.9% tổng số vụ án và 1.7% bị cáo). Kết quả xét xử các vụ án có người chưa thành niên tại huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng đạt được như sau: Bảng 2.1. Số người dưới 18 tuổi phạm tội bị đưa ra xét xử tại Tòa án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên trong 5 năm 2014 – 2018 Năm Số người dưới 18 tuổi bị đưa ra xét xử 2014 19 2015 22 2016 23 2017 25 2018 26 Tổng 115 Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm 2014 đến năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên [47]
  18. Số liệu trên có thể được thể hiện qua sơ đồ sau. 30 25 20 15 10 5 0 2014 2015 2016 2017 2018 Yếu tố ảnh hưởng thứ hai tới việc bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong xét xử vụ án hình sự là tình hình tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên. Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên có 32 cán bộ, công chức, người lao động trong đó có 01 Chánh án, 03 Phó Chánh án, 01 Chánh Văn phòng, 01 Phó Chánh Văn phòng, 07 Thẩm phán, 01 Thẩm tra viên, 11 Thư ký, 01 Kế toán; 01 chuyên viên đánh máy, 02 bảo vệ, 02 tạp vụ và 01 lái xe. 2.1.2. Những kết quả đạt được trong bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong xét xử vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên thành phố Hải Phòng và nguyên nhân * Những kết quả chung Trong giai đoạn xét xử đối với các vụ án có người dưới 18 tuổi phạm tội ở huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng trong những năm vừa qua có thể thấy thông qua bảng số liệu sau: Bảng 2.2. Tình hình xét xử vụ án hình sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội tại Tòa án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên trong 5 năm 2014 – 2018 Năm Số người dưới Số vụ trả hồ sơ Số vụ đình Số vụ có kháng 18 tuổi bị đưa chỉ cáo/kháng nghị ra xét xử 2014 19 0 1 3 2015 22 1 1 2 2016 23 2 0 5 2017 25 1 0 3 2018 26 0 2 3 Tổng 115 4 4 16
  19. Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm 2014 đến năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên [47] * Hoạt động đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niên tại Tòa án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng. Phân tích trên là một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc phạm tội của người chưa thành niên, do đó, muốn hạn chế tình hình tội phạm ở độ tuổi này cần phải giải quyết triệt để các nguyên nhân trên và đòi hỏi sự quan tâm của toàn xã hội. - Trước khi mở phiên tòa: Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án chuẩn bị cho việc mở phiên tòa. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đã phân loại được bị cáo là người chưa thành niên và đã giải thích pháp luật cho bị cáo cũng như người thân của bị cáo về quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa. Bảng 2.3. Số vụ án có người bào chữa tham gia tại Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng giai đoạn từ 2014 - 2018 Năm Số người dưới 18 tuổi Số vụ án bị cáo có Số vụ án mà chỉ định bị đưa ra xét xử thuê luật sư bào chữa người bào chữa 2014 19 5 14 2015 22 8 14 2016 23 11 12 2017 25 5 20 2018 26 14 12 Tổng 115 43 72 Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm 2014 đến năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên [47] BIỂU ĐỒ VỀ SỐ VỤ ÁN CÓ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG XÉT XỬ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN 50 0 2014 2015 2016 2017 2018 Số vụ xét xử ND18T Số vụ có thuê luật sư Số vụ chỉ định NBC
  20. Như vậy, qua bảng số liệu trên cho thấy trong 115 vụ án có người chưa thành niên là bị cáo thì có 43 bị cáo là người chưa thành niên được thuê luật sư là người bào chữa, còn 72 vụ án được Tòa án chỉ định người bào chữa theo đúng yêu cầu của BLTTHS, và không có trường hợp nào từ chối người bào chữa. Như vậy, quyền bào chữa của người chưa thành niên là bị cáo trong xét xử vụ án hình sự đã được TAND huyện Thủy Nguyên đảm bảo theo đúng yêu cầu của BLTTHS. - Trong phiên tòa HĐXX đã đảm bảo sự có mặt của bị cáo, đại diện hợp pháp của họ (đối với bị cáo chưa thành niên, có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất). Trường hợp vắng mặt bị cáo, NBC, đại diện hợp pháp của bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, HĐXX đều hoãn phiên tòa để xét xử vào một ngày khác, ít khi thực hiện việc xét xử vắng mặt bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo và NBC. * Nguyên nhân của những kết quả đạt được Một là, hiện nay về cơ bản các văn bản pháp luật có liên quan đến trình tự, thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên đã được Quốc hội và các cơ quan hữu quan mới sửa đổi bổ sung Hai là, về mặt nhận thức của lãnh đạo Tòa án và các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân Tòa án Thủy Nguyên trong công tác xét xử vụ án hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội có thể thấy trong thời gian qua đã có tiến bộ vượt bậc. Ba là, quan hệ phối hợp của TAND với các cơ quan THTT khác tại huyện Thủy Nguyên và việc chỉ đạo, điều hành trong công tác xét xử vụ án hình sự có người chưa thành niên phạm tội của TAND thành phố Hải Phòng đã được tăng cường. Bốn là, về cơ bản cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc cho TAND huyện Thủy Nguyên đã được tăng cường. 2.2. Những hạn chế trong bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên trong xét xử vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng và nguyên nhân Một là, quyền bào chữa của bị cáo chưa được đảm bảo.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2