intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:32

14
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn "Pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu" được hoàn thành với mục tiêu nhằm phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu, Luận văn nhằm đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu ở Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu

  1. ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT VÕ THỊ THUẬN NGÀN PHÁP LUẬT VỀ THOẢ THUẬN TRỌNG TÀI VÔ HIỆU Ngành: Luật Kinh tế. Mã số: 8380107 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ THỪA THIÊN HUẾ - năm 2023
  2. Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học Luật, Đại học Huế Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Thị Huệ Phản biện 1: PGS.TS Nguyễn Duy Phương Phản biện 2: PGS.TS Hà Thị Mai Hiên Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp tại: Trường Đại học Luật Vào lúc...........giờ...........ngày...........tháng ........ năm........... Trường Đại học Luật, Đại học Huế
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài .......................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài ................................................... 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 3 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ................................................ 4 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ......................................................... 4 7. Kết cấu của luận văn ......................................................................................... 5 CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ THOẢ THUẬN TRỌNG TÀI VÔ HIỆU ...................................................................... 5 1.1. Khái quát về thoả thuận trọng tài và thoả thuận trọng tài vô hiệu ........ 5 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thỏa thuận trọng tài ......................................... 5 1.1.2. Khái niệm về thoả thuận trọng tài vô hiệu ................................................. 6 1.2. Khái quát pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu................................ 7 1.2.1. Khái niệm pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu .................................. 7 1.2.2. Nội dung pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu .................................... 7 Tiểu kết Chương 1 ................................................................................................. 8 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THOẢ THUẬN TRỌNG TÀI VÔ HIỆU Ở VIỆT NAM . 9 2.1. Thực trạng pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu ............................. 9 2.1.1. Thực trạng quy định về căn cứ xác định thoả thuận trọng tài vô hiệu........ 9 2.2.1. Thực trạng quy định về thẩm quyền tuyên bố thoả thuận trọng tài vô hiệu ... 12 2.1.3. Thực trạng quy định về hậu quả pháp lý của thoả thuận trọng tài vô hiệu14 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu ở Việt Nam ..................................................................................................................... 15 2.2.1. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về thẩm quyền tuyên bố thoả thuận trọng tài vô hiệu................................................................................................... 15
  4. 2.2.2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về căn cứ xác định thoả thuận trọng tài vô hiệu ............................................................................................................ 16 2.2.3. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về hậu quả pháp lý của thoả thuận trọng tài vô hiệu ................................................................................................... 17 Tiểu kết chương 2 ................................................................................................ 17 CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI VÔ HIỆU .................................................................................... 18 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu ................................................................. 18 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu đáp ứng yêu cầu hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại ................................................................... 18 3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu nhằm tạo sự tương thích, phù hợp và đồng bộ với thông lệ quốc tế .................................................. 18 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu........... 19 3.2.1. Hoàn thiện quy định về căn cứ xác định thoả thuận trọng tài vô hiệu ...... 19 3.2.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về thẩm quyền tuyên bố thoả thuận trọng tài vô hiệu ............................................................................................................ 19 3.2.3. Hoàn thiện quy định về hậu quả pháp lý của thoả thuận trọng tài vô hiệu ... 19 3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu ................................................................................................................. 20 3.3.1. Nâng cao nhận thức, trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán ........................................................................................................... 20 3.3.2. Nâng cao nhận thức, trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của Trọng tài viên ...................................................................................................... 20 Tiểu kết Chương 3 ............................................................................................... 21 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 21 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 23
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Thực tiễn, cho thấy các thương nhân thường lựa chọn hình thức trọng tài để giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, bởi lý do cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài chứa đựng các “lợi thế” so với các hình thức giải quyết tranh chấp khác, điển hình là tính nhanh gọn, hiệu quả để bảo vệ kịp thời các quyền lợi kinh tế của các bên khi tham gia quan hệ kinh doanh, thương mại. Một nghiên cứu khảo sát của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (Viết tắt: “VIAC”) năm 2014 cho thấy chỉ có 36,7% số doanh nghiệp khảo sát lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp và trong số đó chỉ có 12% lựa chọn VIAC. Tuy nhiên, để các tranh chấp thương mại được giải quyết bằng trọng tài thì cần phải có thỏa thuận trọng tài. Do đó, có thể hình dung thỏa thuận trọng tài được xem là “nền móng” cho việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài với nguyên tắc vàng là không thể tiến hành tố tụng trọng tài mà không có thỏa thuận trọng tài. Nói cách khác, không có thỏa thuận trọng tài thì không có việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Thỏa thuận trọng tài là yếu tố cơ bản cần thiết, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ hoạt động trọng tài kể từ lúc khởi đầu trọng tài cho đến khi công nhận và thi hành phán quyết trọng tài. Để một tranh chấp thương mại có thể được giải quyết bằng trọng tài, điều kiện đầu tiên cần có là phải có thỏa thuận trọng tài. Nếu không có thỏa thuận trọng tài thì tranh chấp thương mại không thể được giải quyết bằng trọng tài. Trải qua hơn 10 năm có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2011 cho đến nay, Luật Trọng tài thương mại (Luật TTTM) năm 2010 đã có những chuyển biến tích cực hơn so với Pháp lệnh Trọng tài thương mại (PLTTTM) năm 2003. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng cũng cho thấy một số quy định của Luật TTTM năm 2010 vẫn chưa rõ ràng, cụ thể và thiếu tính khả thi; trong đó có những quy định lên quan đến “thoả thuận trọng tài vô hiệu”. Trong quy định về thỏa thuận trọng tài vô hiệu còn nhiều điểm chưa được giải thích rõ ràng trong Luật Trọng tài Thương mại năm 2010, gây khó khăn cho việc hiểu và áp dụng pháp luật đối với những tổ chức, cơ quan trực tiếp áp dụng đó là các tổ chức Trọng tài Thương mại, Tòa án và đặc biệt là các doanh nghiệp có tranh chấp yêu cầu trọng tài giải quyết. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của thỏa thuận trọng tài vô hiệu cũng như chưa có được kiến thức đầy đủ về thỏa thuận trọng tài vô hiệu nên việc soạn thảo thỏa thuận trọng tài còn một số hạn chế dẫn tới thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu khiến cho thẩm quyền giải quyết tranh chấp không còn thuộc thẩm quyền của trọng tài, khiến việc giải quyết tranh chấp bị kéo dài hơn và trong nhiều trường hợp dẫn tới những thiệt hại về kinh tế cho các bên tranh chấp. Vì vậy, việc nghiên cứu những quy định của pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật trọng tài thương mại thông qua một số vụ việc liên quan đến thỏa thuận trọng tài vô hiệu, từ đó đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật trọng tài thương mại về thỏa thuận trọng tài vô hiệu là rất cần 1
  6. thiết. Do đó, học viên lựa chọn đề tài “Pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu” làm luận văn thạc sĩ luật Kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Vấn đề thỏa thuận trọng tài và hiệu lực của thỏa thuận trọng tài đã được khá nhiều tác giả phân tích từ nhiều góc độ khác nhau. Có nhiều công trình nghiên cứu khá công phu, có tính hệ thống những vấn đề pháp lý về trọng tài, trong từng nội dung cụ thể, cùng với việc phân tích các quy phạm pháp luật của Việt Nam (Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 và Luật trọng tài thương mại năm 2010). Tuy nhiên, chưa có nhiều công trình nghiên cứu về thoả thuận trọng tài vô hiệu. Khảo sát có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau: - Bài viết “Thẩm quyền quyết định hiệu lực và luật điều chỉnh thoả thuận trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế” của tác giả Trần Thị Thu Phương đăng trên Tạp chí Luật học. Số 10/2016. Bài viết phân tích thẩm quyền quyết định hiệu lực của thoả thuận trọng tài và luật điều chỉnh thoả thuận trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế theo quy định của pháp luật Việt Nam, so sánh với pháp luật một số quốc gia khác trên thế giới. - Bài viết “Xây dựng điều khoản thoả thuận trọng tài thương mại” của tác giả Trần Minh Đức, Nguyễn Vĩnh Phú đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật năm 2022. Bài viết đã làm rõ các phương thức để xây dựng những thỏa thuận trọng tài phù hợp với quy định của pháp luật, giúp doanh nghiệp, cá nhân có thể lựa chọn linh hoạt hình thức điều khoản trọng tài phù hợp với điều kiện thực tiễn. - Bài viết “Thỏa thuận trọng tài vô hiệu, một căn cứ hủy phán quyết trọng tài” của tác giả Tưởng Duy Lượng đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 1/2017. Bài viết đã làm rõ các vấn đề cần phải chú ý khi áp dụng các quy định của Điều 18 Luật Trọng tài thương mại về thỏa thuận trọng tài vô hiệu: người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự; hình thức của thỏa thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 Luật Trọng tài thương mại. - Luận văn thạc sĩ “Quy định pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu” của tác giả Nguyễn Tiến Lực thực hiện tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh năm 2015. Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu trong thực tiễn, nêu lên những kiến nghị có giá trị tham khảo trong việc hoàn thiện chế định luật về Trọng tài thương mại, tạo ra một hành lang pháp lý hoàn chỉnh trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp bằng con đường Trọng tài, lành mạnh hóa môi trường cạnh tranh. - Luận văn thạc sĩ “Thỏa thuận trọng tài theo pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Thị Phương Anh thực hiện tại Học viện Khoa học xã hội năm 2019. Luận văn đã phân tích và đánh giá thực tiễn áp dụng quy định về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở làm rõ những thành tựu đạt được và các hạn chế còn tồn tại, qua đó tìm ra những phương 2
  7. hướng nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam trong thời gian tới. Nhìn chung, các nghiên cứu kể trên chủ yếu nghiên cứu chung các phương diện về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại và những điều kiện để thỏa thuận trọng tài có hiệu lực. Vấn đề thỏa thuận trọng tài vô hiệu chỉ được đề cập ở mức độ hết sức khái quát, chiếm một phần nhỏ trong những công trình nghiên cứu nói trên. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề thỏa thuận trọng tài vô hiệu mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Những giải pháp của đề tài hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu ở Việt Nam. Từ các kết quả nghiên cứu trên, đề tài kế thừa nội dung sau: Một là, các vấn đề lý luận pháp luật về thỏa thuận trọng tài. Hai là, thực trạng pháp luật về thỏa thuận trọng tài. Ba là, thực tiễn thực hiện pháp luật về thỏa thuận trọng tài. Trên cơ sở các nội dung kế thừa, luận văn nghiên cứu chuyên sâu một số vấn đề lý luận về thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thực trạng pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu và thực tiễn thực hiện pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu, Luận văn nhằm đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, Luận văn có các nhiệm vụ cụ thể sau đây: - Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về thỏa thuận trọng tài vô hiệu. - Đánh giá thực trạng pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu, từ đó chỉ ra những ưu điểm và tồn tại, hạn chế. - Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu tại Việt Nam, từ đó chỉ ra những kết quả đạt được và các vướng mắc, bất cập. - Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu tại Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Thứ nhất, các vấn đề lý luận về thoả thuận trọng tài và thoả thuận trọng tài vô hiệu. Thứ hai, pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu thông qua Luật Trọng tài thương mại năm 2010, BLTTDS năm 2015 và Nghị quyết số 01/2014/NQ- HĐTP về thoả thuận trọng tài vô hiệu. Thứ ba, thực tiễn áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu tại Việt Nam trong thời gian vừa qua. 4.2. Phạm vi nghiên cứu 3
  8. - Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu và thực tiễn áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu ở Việt Nam. - Pha ̣m vi thời gian nghiên cứu: Giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2022. - Pha ̣m vi địa bàn nghiên cứu: Việt Nam. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về pháp luật trọng tài thương mại. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu và trình bày, luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau bao gồm: * Phương pháp phân tích, phương pháp luận giải và tổng hợp được sử dụng để tìm hiểu, phân tích, luận giải nhằm làm rõ thực trạng pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu, từ đó chỉ ra những bất cập của pháp luật Việt Nam. * Phương pháp luật học so sánh được sử dụng nhằm phân tích có so sánh các quy định của pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu trong nước và ngoài nước. * Phương pháp phân tích tình huống được áp dụng nhằm phân tích và bình luận về các vụ việc cụ thể liên quan đến thoả thuận trọng tài vô hiệu đã được giải quyết tại Tòa án Việt Nam. Từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm và giải pháp khắc phục những hạn chế, sai sót trong thực tiễn xét xử tại Tòa án Việt Nam hiện nay khi thực hiện pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa khoa học Thứ nhất, Luận văn đã phân tích những bất cập và những vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về thoả thuận trọng tài vô hiệu, đặc biệt là những bất cập và khó khăn trong việc áp dụng các quy định về thoả thuận trọng tài vô hiệu. Thứ hai, Luận văn nghiên cứu pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu theo pháp luật một số quốc gia trên thế giới nhằm một mặt để so sánh với pháp luật của Việt Nam, mặt khác để có cơ sở xây dựng luận cứ khoa học khi đề xuất kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thoả thuận trọng tài vô hiệu. Thứ ba, Luận văn đã đề xuất hệ thống các giải pháp và các kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thoả thuận trọng tài vô hiệu. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của Luận văn là tài liệu tham khảo có giá trị trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập về pháp luật TTTM nói chung và pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu nói riêng. Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc giải thích và áp dụng LTTTM, cụ thể là các quy định liên quan đến thoả thuận trọng tài vô hiệu. Các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, phát triển nguồn lực và xây dựng các cơ chế thực thi được 4
  9. đưa ra trong Luận văn còn là tài liệu tham khảo bổ ích cho Tòa án, trọng tài viên, cơ quan ban hành pháp luật và cả các bên tranh chấp khi họ đưa vụ việc ra giải quyết tại TTTM. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, phần kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn có kết cấu gồm 03 chương. Chương 1: Một số vấn đề lý luận pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu. Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu tại Việt Nam. Chương 3: Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu. CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ THOẢ THUẬN TRỌNG TÀI VÔ HIỆU 1.1. Khái quát về thoả thuận trọng tài và thoả thuận trọng tài vô hiệu 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thỏa thuận trọng tài 1.1.1.1. Khái niệm về thoả thuận trọng tài Với tính chất là một phương thức giải quyết tranh chấp trên cơ sở lựa chọn của các bên, Trọng tài sẽ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi các bên tranh chấp có thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài là sự đồng thuận của các bên về việc đưa các tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh giữa họ ra giải quyết bằng Trọng tài. “Thỏa thuận trọng tài là nền móng của tố tụng trọng tài thương mại quốc tế. Thỏa thuận này ghi nhận sự đồng ý của các bên về việc đưa tranh chấp ra Trọng tài để giải quyết - đây là thỏa thuận không thể thiếu đối với bất kỳ quá trình giải quyết tranh chấp nào ngoài Tòa án quốc gia”. Hiện nay, khoản 2, Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 (sau đây gọi là Luật TTTM năm 2010) quy định như sau: “Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh”. Và khoản 1, Điều 5 quy định: “Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp”. Từ các phân tích trên có thể thấy, “thỏa thuận trọng tài là vấn đề then chốt, là “hòn đá tảng” trong việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài”. Theo tác giả có thể hiểu: “Thỏa thuận trọng tài được hiểu là sự thống nhất ý chí của các bên nhằm giải quyết tranh chấp phát sinh giữa họ thông qua thủ tục trọng tài. Thỏa thuận này thể hiện sự cam kết chấp thuận thẩm quyền của trọng tài của các bên liên quan trong việc giải quyết các tranh chấp đã phát sinh hoặc có thể phát sinh giữa họ với nhau trong khuôn khổ một mối quan hệ pháp luật xác định”. 1.1.1.2. Đặc điểm của thoả thuận trọng tài 5
  10. Thứ nhất, thỏa thuận trọng tài có giá trị ràng buộc các bên trong việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Thỏa thuận trọng tài là yếu tố cơ bản của Trọng tài thương mại, là căn cứ xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và bình đẳng. Theo đó, khi có tranh chấp xảy ra thì Trọng tài được lựa chọn sẽ là cơ quan giải quyết tranh chấp giữa các bên xác lập quan hệ thỏa thuận này. Qua đó, cũng giúp các bên nâng cao ý thức trong việc thực hiện nghĩa vụ cam kết và là một biện pháp tích cực để phòng ngừa các tranh chấp và cũng là một dạng kiểm soát giao dịch. Thứ hai, thỏa thuận trọng tài có hiệu lực cho phép khẳng định “thẩm quyền của Trọng tài thương mại” mà các bên đã có thỏa thuận trọng tài (trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc không thể thực hiện được). Có thể nói đây là chức năng quan trọng nhất của thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có hiệu lực sẽ “cho phép loại trừ sự can thiệp của Tòa án quốc gia vào giải quyết tranh chấp, ít nhất trước khi ban hành quyết định trọng tài”. Thứ ba, thỏa thuận trọng tài trao cho các Trọng tài viên thẩm quyền giải quyết tranh chấp có thể xảy ra giữa các bên. Thỏa thuận trọng tài là cơ sở để xác định thẩm quyền của HĐTT. Về nguyên tắc, HĐTT chỉ được phép thực hiện quyền mà các bên trao cho. Tuy nhiên, HĐTT có thể có một số quyền khác do pháp luật quy định. Thứ tư, tính tự nguyện của thoả thuận trọng tài.“Thoả thuận trọng tài” là nền móng của tố tụng trọng tài, trong đó yếu tố tự nguyện, tự do ý chí là đặc tính không thể thiếu đối với bất kỳ quá trình giải quyết tranh chấp nào ngoài Toà án quốc gia và trong tố tụng Trọng tài cũng không phải là ngoại lệ bởi lẽ quá trình này có thực hiện được hay không là phụ thuộc vào sự thoả thuận giữa các bên. Cũng chính vì lẽ đó mà các luật gia Châu Âu rất coi trọng mong muốn của các bên. 1.1.2. Khái niệm về thoả thuận trọng tài vô hiệu Về nguyên tắc, nếu các bên không có thỏa thuận trọng tài thì Trọng tài không có quyền giải quyết tranh chấp. Một thỏa thuận trọng tài không tuân thủ những điều kiện có hiệu lực của pháp luật như chủ thể ký kết, năng lực ký kết, hình thức, sự tự nguyện… thì thỏa thuận trọng tài đó bị xem là vô hiệu và hậu quả là Trọng tài không có thẩm quyền giải quyết. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là có một số trường hợp thỏa thuận trọng tài tuy vô hiệu (lừa dối, đe dọa, cưỡng ép) nhưng xuất phát từ đặc điểm tự nguyện của thỏa thuận trọng tài, pháp luật cho phép bên bị vi phạm có quyền chấp nhận sự vô hiệu này. Nghĩa là thỏa thuận trọng tài đó vẫn có hiệu lực thi hành. Hiện nay, Luật Trọng tài thương mại không đưa ra khái niệm thế nào là “thỏa thuận trọng tài vô hiệu” mặc dù có cả một điều luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Xét về bản chất thì thỏa thuận trọng tài là một dạng của giao dịch dân sự, do đó, khi xem xét thỏa thuận trọng tài vô hiệu cần phải đặt trong mối quan hệ với giao dịch dân sự vô hiệu nói chung để hiểu đúng bản chất của thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Vô hiệu là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong khoa học pháp lý, trong thực tiễn áp dụng và cả trong pháp luật thực định. 6
  11. Từ các phân tích trên có thể hiểu: “Thỏa thuận trọng tài vô hiệu là thoả thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh nhưng lại không có hiệu lực pháp lý thi hành do các nội dung của thoả thuận trọng tài không tuân thủ các quy định của pháp luật”. 1.2. Khái quát pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu 1.2.1. Khái niệm pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu Thoả thuận trọng tài vô hiệu là một chế định đặc biệt trong pháp luật trọng tài. Bởi vì, thoả thuận trọng tài vô hiệu sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý có thể “vô hiệu hoá” thẩm quyền giải quyết tranh chấp của TTTM hoặc có thể dẫn đến việc Toà án ra quyết định “huỷ phán quyết” của TTTM đã tuyên. Do đó, nhằm bảo vệ các lợi ích tư của đương sự, tránh sự “lạm dụng” của các cơ quan giải quyết tranh chấp xâm phạm đến các lợi ích hợp pháp của các đương sự thì pháp luật cần đưa ra quy định cụ thể về thẩm quyền tuyên bố thoả thuận trong tài vô hiệu, căn cứ pháp lý để xác định thoả thuận trọng tài vô hiệu và hậu quả pháp lý của thoả thuận trọng tài vô hiệu. Với tư cách là một chế định của pháp luật trọng tài thương mại có thể hiểu: “Pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu là hệ thống quy tắc xử sự chung do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình xác định hiệu lực pháp lý của thoả thuận trọng tài”. 1.2.2. Nội dung pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu 1.2.2.1. Nhóm quy phạm pháp luật về căn cứ xác định thoả thuận trọng tài vô hiệu Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Giá trị pháp lý của nó sẽ là cơ sở để làm phát sinh thẩm quyền của Trọng tài, là cơ sở để Tòa án ra tuyên bố hủy phán quyết trọng tài và cũng là cơ sở để Tòa án trong nước ra quyết định công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài tại quốc gia mình. Tuy nhiên, nếu thỏa thuận trọng tài không đáp ứng những yêu cầu do pháp luật quy định thì thỏa thuận đó sẽ bị coi là vô hiệu. Do đó để xác định được một thoả thuận trọng tài vô hiệu thì Luật TTTM đã quy định cụ thể về các căn cứ pháp lý xác định hiệu lực của thoả thuận trọng tài. Có ý kiến nhận định: “Trong Luật trọng tài thương mại đã dành hẳn một chương quy định về thỏa thuận trọng tài. Luật trọng tài thương mại vừa nội luật hóa pháp luật quốc tế, vừa cụ thể hóa quy định của BLDS về các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, vừa quy định thêm các điều kiện bổ sung thể hiện tính đặc thù của thỏa thuận trọng tài, đó là thỏa thuận trọng tài phải là thỏa thuận thuộc loại việc quy định tại Điều 2 Luật trọng tài thương mại và người xác lập thỏa thuận trọng tài phải là người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. 1.2.2.2. Nhóm quy phạm pháp luật về thẩm quyền tuyên bố thoả thuận trong tài vô hiệu Một thỏa thuận trọng tài vô hiệu không đương nhiên vô hiệu mà phải thông qua một quyết định tuyên bố vô hiệu của cơ quan có thẩm quyền. “Bản thân các bên ký kết thỏa thuận trọng tài không thể tự mình quyết định về hiệu lực của 7
  12. thỏa thuận trọng tài”. Về nguyên tắc, thoả thuận trong tài vô hiệu sẽ dẫn đến các hậu quả pháp lý tương đối phức tạp như “vô hiệu hoá” thẩm quyền của TTTM hoặc đình chỉ giải quyết tranh chấp nếu TTTM đã thụ lý và giải quyết hoặc có thể dẫn đến việc huỷ phán quyết TTTM đã tuyên. Do đó, khi tiến hành thụ lý thì vấn đề quan trọng đầu tiên đó là HĐTT cần xác định hiệu lực của thoả thuận trọng tài hay nói cách khác đó là HĐTT cần xem xét liệu thoả thuận trọng tài có hiệu lực hay không? Tuy nhiên, việc tự mình xác định hiệu lực thoả thuận trọng tài của HĐTT đôi khi gặp một số hạn chế nhất định xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Do đó, pháp luật đã trao thẩm quyền hỗ trợ của Toà án trong việc xác định hiệu lực của thoả thuận trọng tài thông qua việc phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài và Toà án. 1.2.2.3. Nhóm quy phạm pháp luật về hậu quả pháp lý của thoả thuận trọng tài vô hiệu Hậu quả theo nghĩa thông thường là kết quả không hay về sau. Như vậy, hậu quả trước hết phải là kết quả và kết quả đó phải xảy ra từ một sự kiện, một hành vi nào đó, tức là hành vi, sự kiện và kết quả phải có mối quan hệ nhân quả với nhau. Mặc dù khái niệm hậu quả được sử dụng rộng rãi trong khoa học pháp lý cũng như luật thực định, thuật ngữ nhưng hiện nay các nhà khoa học vẫn chưa đưa ra một khái niệm cụ thể nào, các nhà lập pháp cũng chỉ đi sâu vào quy định nội dung. Khác với hậu quả pháp lý của các giao dịch bị tuyên bố vô hiệu đó: “Các bên tham gia giao dịch dân sự nhằm thiết lập một quan hệ dân sự, mà ở đó mỗi bên đều đạt được một mục đích nhất định. Mục đích này có thể thỏa mãn về vật chất hoặc tinh thần cho mỗi bên. Tiểu kết Chương 1 Trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp có lịch sử phát triển lâu đời trên thế giới. Các quốc gia trên thế giới đều xây dựng những quy phạm pháp luật điều chỉnh trọng tài nhằm tạo hành lang pháp lý và đưa trọng tài phát triển. Thỏa thuận trọng tài là cơ sở để xác lập thẩm quyền của trọng tài. Do đó, hầu hết trong quy định của pháp luật nội địa của mình, các quốc gia đều dành những quy định cụ thể về điều kiện để một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực. Trong Chương 1, tác giả đã trình bày những vấn đề cơ bản về thoả thuận trọng tài và thoả thuận trọng tài vô hiệu. Đầu tiên, tác giả nghiên cứu khái niệm về thỏa thuận trọng tài và thoả thuận trọng tài vô hiệu. Tiếp theo, tác giả trình bày tổng quan một số vấn đề lý luận pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu. Những kết quả nghiên cứu trên đây sẽ là tiền đề quan trọng để trong Chương 2, tác giả đi vào phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu trong thời gian qua; từ đó làm cơ sở lý luận và thực tiễn để đề xuất các giải pháp nhằm làm cho những quy định pháp luật về lĩnh vực này trở nên rõ ràng, minh bạch, có tính khả thi khi áp dụng vào thực tiễn. 8
  13. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THOẢ THUẬN TRỌNG TÀI VÔ HIỆU Ở VIỆT NAM 2.1. Thực trạng pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu 2.1.1. Thực trạng quy định về căn cứ xác định thoả thuận trọng tài vô hiệu 2.1.1.1. Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài Thẩm quyền của Trọng tài được hiểu là giới hạn những vụ việc được pháp luật quy định thuộc quyền hạn giải quyết của cơ quan Trọng tài. Không giống với Tòa án, Trọng tài không có khái niệm thẩm quyền theo lãnh thổ hay theo cấp. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài được xác lập trên cơ sở thỏa thuận trọng tài được xác lập giữa các bên tranh chấp. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Trọng tài có quyền giải quyết mọi tranh chấp khi được các bên tranh chấp yêu cầu. Pháp luật mỗi quốc gia có những quy định khác nhau về thẩm quyền vụ việc của Trọng tài. Điều 2 Luật Trọng tài thương mại của Việt Nam quy định Trọng tài có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp sau đây: - Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại. - Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó có ít nhất một bên có hoạt động thương mại. - Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài. Về kỹ thuật lập pháp, so với Pháp lệnh năm 2003, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã mở rộng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài cả về lĩnh vực tranh chấp và về chủ thể tranh chấp. (i) Xét về lĩnh vực phát sinh tranh chấp: Trước hết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại, có nghĩa là những xung đột, bất đồng giữa các bên về quyền, nghĩa vụ khi tham gia hoạt động thương mại đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài. Bên cạnh đó, những tranh chấp không phát sinh từ hoạt động thương mại nhưng pháp luật có liên quan quy định được giải quyết bằng Trọng tài cũng được lựa chọn Trọng tài là phương thức giải quyết. (ii) Xét về chủ thể tranh chấp: Tổ chức, cá nhân bất kỳ đều có quyền lựa chọn phương thức Trọng tài để giải quyết tranh chấp của mình. Các tổ chức, cá nhân có thể là chủ thể kinh doanh hoặc không. Pháp luật không có giới hạn về chủ thể, miễn là tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực được giải quyết bằng Trọng tài. Ví dụ, tranh chấp giữa một bên là nhà đầu tư với một bên là cơ quan quản lý Nhà nước liên quan đến hoạt động đầu tư có thể lựa chọn giải quyết tại Trọng tài thương mại theo quy định tại Điều 12 Luật Đầu tư năm 2005 (tương ứng Điều 14 Luật đầu tư năm 2020). 2.1.1.2. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật Về nguyên tắc, thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm quyền xác lập thì thỏa thuận trọng tài đó vô hiệu. Tuy nhiên, đối với tranh chấp có yếu tố nước 9
  14. ngoài thì vấn đề này không đơn giản. Trong một hội thảo do Nhà pháp luật Việt - Pháp tổ chức vào năm 2009, một chuyên gia đã nêu rằng “về thẩm quyền của người đại diện công ty, thực tiễn xét xử của Pháp đã có nhiều thay đổi. Nhiều công ty nghĩ rằng sẽ bị thua kiện khi vụ tranh chấp được đưa ra trọng tài giải quyết nên lấy lý do rằng thỏa thuận trọng tài đã được ký kết bởi người không có thẩm quyền. Đây chỉ là cái cớ của các công ty vì trên thực tế, họ thường cử những người hoàn toàn có thẩm quyền ký kết hợp đồng và Thỏa thuận trọng tài. Để làm thất bại ý định này, Tòa án Pháp đã ra một bản án, theo đó trong trường hợp như vậy, người ký kết hợp đồng được suy đoán là có thẩm quyền ký kết trừ trường hợp doanh nghiệp chứng minh được người đó không có thẩm quyền. Tòa án cho rằng đây là một nguyên tắc của luật quốc tế, do đó không cần phải tìm luật quốc gia là Pháp hay Việt Nam để áp dụng, chỉ cần căn cứ vào nguyên tắc đó để xác định người ký kết hợp đồng là có thẩm quyền”. Trường hợp thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm quyền xác lập nhưng trong quá trình xác lập, thực hiện thỏa thuận trọng tài hoặc trong tố tụng trọng tài mà người có thẩm quyền xác lập thỏa thuận trọng tài đã chấp nhận hoặc đã biết việc người ký kết thỏa thuận trọng tài không phải là người đại diện theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền mà không phản đối thì thỏa thuận trọng tài không vô hiệu. 2.1.1.3. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự So với Pháp lệnh trọng tài thương mại, Luật trọng tài thương mại đã có một số thay đổi trong đó có thêm đoạn cho biết xác định chủ thể có năng lực hành vi dân sự hay không. Theo Luật trọng tài thương mại, việc xác định này được tiến hành “theo quy định của Bộ luật dân sự”. Đồng thời tại Khoản 3 Điều 3 Nghị quyết số 01/2014 đã đưa ra hướng dẫn cụ thể như sau: “Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự” quy định tại khoản 3 Điều 18 Luật TTTM là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Trong trường hợp này thì Tòa án cần thu thập chứng cứ để chứng minh người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự thì phải có giấy tờ tài liệu chứng minh ngày tháng năm sinh hoặc kết luận của cơ quan có thẩm quyền hoặc quyết định của Tòa án xác định, tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Tuy nhiên, trong quá trình soạn thảo quy định tại Khoản 3 Điều 18 Luật TTTM năm 2010 có một số ý kiến lo ngại rằng: “Quy định này được hiểu là đối với một người nước ngoài là một bên trong vụ tranh chấp giải quyết bởi trọng tài, năng lực hành vi của người đó được xác định theo pháp luật Việt Nam. Tôi băn khoăn không biết quy định như vậy có chặt chẽ không vì năng lực hành vi của một người thường được xác định theo luật của nước mà người đó mang quốc tịch. Do đó, khoản 3 chỉ phù hợp với trọng tài trong nước còn đối với trọng tài quốc tế, khoản này sẽ làm hạn chế thẩm quyền của trọng tài trong việc đánh giá năng lực hành vi của các bên”. 2.1.1.4. Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 Luật Trọng tài thương mại 10
  15. Cũng như pháp luật các nước, pháp luật Việt Nam quy định hình thức của thỏa thuận trọng tài phải bằng văn bản . Quy định này hoàn toàn phù hợp với pháp luật thế giới. Pháp luật Anh, Hoa Kỳ hay Luật mẫu UNCITRAL đều xác định rõ thỏa thuận trọng tài phải được lập thành văn bản . Tuy nhiên, pháp luật ở mỗi quốc gia lại có quy định khác nhau về cách thức xác định thế nào là văn bản. Theo pháp luật Việt Nam thì thỏa thuận được coi là xác lập bằng văn bản nếu thuộc một trong các trường hợp sau: Một là, thỏa thuận được xác lập bằng văn bản là một điều khoản trọng tài trong hợp đồng giữa các bên hoặc là một văn bản thỏa thuận riêng của các bên về việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Hai là, thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật. Ba là, thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên. Bốn là, thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên. Năm là, trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác. Sáu là, qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận. 2.1.1.5. Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu Thỏa thuận trọng tài là sự thể hiện ý chí của các bên muốn được giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Khi đã là thỏa thuận thì cần phải có sự tự nguyện của các bên trong quá trình xác lập. Chính vì vậy, ý chí của các bên là yếu tố mang tính chất quyết định, ảnh hưởng lớn đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài được xác lập dựa trên sự lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép thì thỏa thuận đó sẽ bị coi là vô hiệu. “Tự nguyện thiết lập và ký kết thỏa thuận trọng tài là nguyên tắc được pháp luật các nước quy định, nhằm loại bỏ những thỏa thuận trọng tài được các bên ký kết do dùng bạo lực, bị lừa đảo hoặc do các bên nhầm lẫn khi ký kết thỏa thuận trọng tài”. Dưới góc độ luật thực định khoản 5 Điều 18 Luật Trọng tài thương mại quy định thỏa thuận trọng tài sẽ vô hiệu khi: “Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là vô hiệu”. Như vậy, so với Pháp lệnh năm 2003, Luật Trọng tài thương mại đã bổ sung thêm một căn cứ để xác định thỏa thuận trọng tài vô hiệu đó là “cưỡng ép” và nếu so với Pháp lệnh năm 2003 thì điều kiện để coi một thỏa thuận trọng tài là vô hiệu trong trường hợp này còn 2 điều kiện, bớt đi một điều kiện so với Pháp lệnh. Cụ thể là: (i) Một trong các bên bị rơi vào một trong các trường hợp bị lừa dối, bị đe dọa, bị cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng tài và (ii) Chủ thể bị 11
  16. rơi vào những trường hợp nêu trên phải có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Về căn cứ tại Khoản 5, Điều 18 Luật TTTM năm 2010 có ý kiến cho rằng: Luật Trọng tài chỉ đề cập đến hai khuyết tật của sự ưng thuận là đe dọa và lừa dối; không thấy đề cập đến “nhầm lẫn” trong khi đó khả năng nhầm lẫn có thể xảy ra. Cũng theo quan điểm trên đây “vì thỏa thuận trọng tài là một giao dịch dân sự nên các quy định về giao dịch dân sự cũng được áp dụng. Do đó, bên bị nhầm lẫn có thể yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu trên cơ sở của Bộ luật dân sự về giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn”. Tác giả luận văn đồng tình với quan điểm này, bởi lẽ, ở thời điểm hiện tại, khi mà Luật Trọng tài thương mại chưa quy định “nhầm lẫn” cũng là một trong những căn cứ để một bên yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì việc dẫn chiếu này là cần thiết. 2.1.1.6. Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật Ngoài các lý do trên, thỏa thuận trọng tài có thể bị tuyên bố vô hiệu vì các lý do khác như: “Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật” (Khoản 6, Điều 18 Luật TTTM năm 2010). Về kỹ thuật lập pháp, đây là một quy định mới của Luật TTTM năm 2010 so với PLTTTM trước đây. Trên cơ sở Luật TTTM thì Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP đã đưa ra hướng dẫn như sau: “Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật” quy định tại khoản 6 Điều 18 Luật TTTM là thỏa thuận thuộc trường hợp quy định tại Điều 128 của Bộ luật dân sự”. Theo quy định tại Điều 128 BLDS năm 2005 trước đây và Điều 123 BLDS năm 2015 thì: “Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”. Có thể thấy, quy định của Bộ luật dân sự về điều cấm của pháp luật nhưng vẫn còn rất chung chung.. 2.2.1. Thực trạng quy định về thẩm quyền tuyên bố thoả thuận trọng tài vô hiệu 2.2.1.1. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài Pháp luật Việt Nam ghi nhận khá cụ thể thẩm quyền của TTTM trong việc xác định thẩm quyền của mình. Đây là một nguyên tắc cơ bản về trọng tài, theo đó TTTM có thẩm quyền xem xét, quyết định về thẩm quyền của mình. Dưới góc độ pháp lý trước đây, Khoản 1, Điều 30 Pháp lệnh TTTM năm 2003 quy định: “Trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp, nếu có đơn khiếu nại của một bên về việc HĐTT không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp; vụ tranh chấp không có thoả thuận trọng tài hoặc thoả thuận trọng tài vô hiệu, HĐTT phải xem xét, quyết định với sự có mặt của các bên, trừ trường hợp các bên có yêu cầu khác”. Hiện nay, quyền xác định thẩm quyền của TTTM cũng được nhà làm luật tiếp tục ghi nhận trong Luật TTTM năm 2010 theo hướng như sau: “Trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp, HĐTT phải xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài; thỏa thuận trọng tài có thể thực hiện được hay không và xem xét thẩm quyền của mình”. Khi xem xét các vấn đề được nêu ở đây, thực chất là HĐTT xem xét chính thẩm quyền của mình vì hiệu lực của thỏa thuận trọng tài cũng 12
  17. như thỏa thuận trọng tài có thể thực hiện được hay không liên quan trực tiếp tới việc HĐTT có thẩm quyền hay không. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu phát hiện HĐTT vượt quá thẩm quyền, các bên có thể khiếu nại với HĐTT. HĐTT có trách nhiệm xem xét, quyết định (khoản 2 Điều 43 Luật TTTM năm 2010). * Quyền, nghĩa vụ xem xét của HĐTT: Dưới góc độ pháp lý, Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 trước đây quy định: HĐTT “phải xem xét, quyết định” với điều kiện là “nếu có đơn khiếu nại của một bên về việc HĐTT không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp; vụ tranh chấp không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu”. Ngày nay, Luật trọng tài thương mại đã không nhắc lại điều kiện này. Vấn đề đặt ra là trong mọi trường hợp HĐTT “phải xem xét, quyết định” về vấn đề thẩm quyền của mình khi áp dụng Luật trọng tài thương mại? Thiết nghĩ, chúng ta cần phải kết hợp với quy định của Điều 35 về bản tự bảo vệ. Điều luật này quy định “Trường hợp bị đơn cho rằng vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của trọng tài, không có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì phải nêu rõ điều đó trong bản tự bảo vệ” (khoản 4 Điều 35). Do vậy, nếu bị đơn không có bản tự bảo vệ hay có bản tự bảo vệ mà không có phản đối thẩm quyền của trọng tài thông qua việc cho rằng vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của trọng tài, không có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì HĐTT không “phải xem xét, quyết định”. Trong trường hợp này Hội đồng không có nghĩa vụ “xem xét, quyết định” mà đây là quyền của HĐTT. Trước đây, HĐTT xem xét và quyết định về “việc HĐTT không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp; vụ tranh chấp không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu”. Hiện nay, ngoài những vấn đề vừa nêu, HĐTT còn xem xét, quyết định cả về việc “thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được”. * Quyết định của HĐTT về thẩm quyền: Trong trường hợp vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì HĐTT tiến hành giải quyết tranh chấp (khoản 1 Điều 43). Trường hợp không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc xác định rõ thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì HĐTT quyết định đình chỉ việc giải quyết và thông báo ngay cho các bên (khoản 1 Điều 43). Đối với trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 43: “trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu phát hiện HĐTT vượt quá thẩm quyền, các bên có thể khiếu nại với HĐTT” Luật chỉ quy định “HĐTT có trách nhiệm xem xét, quyết định” nhưng lại không cho biết hướng HĐTT quyết định. Trong trường hợp này, HĐTT sẽ quyết định không giải quyết đối với phần vượt quá và tiếp tục giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình. 2.2.1.2. Thẩm quyền của Toà án * Quyền khiếu nại đối với quyết định của HĐTT: Trong trường hợp không đồng ý với quyết định của HĐTT như đã trình bày ở trên, “trong thời hạn 13
  18. 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định của HĐTT, các bên có quyền gửi đơn yêu cầu tòa án có thẩm quyền xem xét lại quyết định của HĐTT” (khoản 1 Điều 44 Luật trọng tài thương mại). * Thẩm quyền xem xét khiếu nại của tòa án: Vấn đề tiếp theo cần phải biết là tòa án nào có thẩm quyền xem xét quyết định của HĐTT về thẩm quyền của HĐTT. Theo Pháp lệnh trọng tài thương mại, tòa án có thẩm quyền xem xét là “tòa án cấp tỉnh nơi HĐTT đã ra quyết định” (khoản 2 Điều 30). Ngày nay, việc xác định tòa án có thẩm quyền cần phải căn cứ vào Điều 7 Luật trọng tài thương mại. * Thủ tục, trình tự xét đơn: Ở đây, tòa án không tự mình can thiệp ngay từ đầu để xem xét thẩm quyền của HĐTT cũng như hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Tòa án chỉ can thiệp khi có đơn yêu cầu sau khi HĐTT ra quyết định về thẩm quyền của mình. Trong thời hạn quy định tại khoản 4 Điều 44 Luật TTTM, Thẩm phán phải xem xét, ra quyết định giải quyết khiếu nại. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra Quyết định giải quyết khiếu nại, Tòa án gửi quyết định cho các bên, HĐTT, Trọng tài viên, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp. * Nội dung quyết định của tòa án: Sau khi xét đơn, tòa án sẽ phải ra quyết định, theo 2 hướng như sau: Thứ nhất, Trường hợp Tòa án xác định thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì xử lý như sau: (i) Trường hợp HĐTT đã ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ việc thì các bên có quyền thỏa thuận, lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp. (ii) Trường hợp vụ việc đang được HĐTT tiến hành giải quyết tranh chấp thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại của Tòa án, HĐTT phải ra quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp theo quy định tại khoản 6 Điều 44 Luật TTTM. (iii) Trường hợp HĐTT đã ra phán quyết trọng tài thì một hoặc các bên có quyền yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài theo thủ tục chung. Thứ hai, Trường hợp Tòa án xác định vụ tranh chấp thuộc thẩm quyền của HĐTT, có thỏa thuận trọng tài không vô hiệu thì xử lý như sau: (i) Trường hợp HĐTT đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại của Tòa án, HĐTT tiếp tục thụ lý, giải quyết tranh chấp theo thủ tục chung. (ii) Trường hợp HĐTT đã ra phán quyết trọng tài thì một hoặc các bên có quyền yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài, đăng ký phán quyết trọng tài hoặc yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài theo thủ tục chung. (iii) Trường hợp vụ việc đang được HĐTT tiến hành giải quyết tranh chấp thì HĐTT tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung. * Hiệu lực của quyết định của tòa án: Khi tòa án ra quyết định của mình về thẩm quyền của HĐTT theo trình tự và thủ tục nêu trên, theo pháp luật hiện hành, “quyết định của tòa án là cuối cùng” (khoản 4 Điều 44). 2.1.3. Thực trạng quy định về hậu quả pháp lý của thoả thuận trọng tài vô hiệu 2.1.3.1. Vô hiệu hoá thẩm quyền của trọng tài 14
  19. Về mặt pháp lý, Thỏa thuận trọng tài vô hiệu sẽ dẫn đến hậu quả là vụ việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài. Nếu các bên tranh chấp không thỏa thuận lại về thỏa thuận trọng tài thì tranh chấp sẽ được giải quyết theo thủ tục chung, có nghĩa là các bên tranh chấp có thể thương lượng với nhau hoặc hòa giải hoặc đưa vụ việc ra giải quyết tại Tòa án. Theo đó, khi xem xét thụ lý đơn kiện, nếu có cơ sở để khẳng định thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì tổ chức trọng tài từ chối thụ lý vụ việc. Trường hợp các bên không xác lập được một thỏa thuận trọng tài mới có hiệu lực thì một bên tranh chấp có thể khởi kiện vụ việc ra Tòa án. 2.1.3.2. Đình chỉ giải quyết tranh chấp Theo quy định của Luật TTTM năm 2010, trong quá trình HĐTT giải quyết tranh chấp mà phát hiện thỏa thuận trọng tài vô hiệu và các bên tranh chấp không đạt được thỏa thuận trọng tài mới có hiệu lực thì HĐTT ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc. Khoản 2, Điều 59 Luật TTTM năm 2010 quy định: “HĐTT ra quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp. Trường hợp HĐTT chưa được thành lập thì Chủ tịch Trung tâm trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp”. Như vậy, có 2 chủ thể có quyền ban hành quyết định đình chỉ vụ tranh chấp là HĐTT và chủ tịch trung tâm trọng tài tuỳ thuộc vào tiến độ của tố tụng trọng tài. Thực tế, không hiếm trường hợp sau khi nộp đơn khởi kiện, nguyên đơn xin rút đơn khởi kiện trong khi HĐTT vẫn chưa được thành lập (như chưa bầu được chủ tịch HĐTT). Trường hợp này, chủ tịch trung tâm trọng tài ra quyết định đình chỉ. 2.1.3.4. Hủy phán quyết trọng tài Theo quy định của Điều 69 Luật TTTM năm 2010 trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài, nếu một bên có đủ căn cứ để chứng minh được rằng HĐTT đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật TTTM thì có quyền làm đơn gửi Toà án có thẩm quyền yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài. Đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài phải kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là có căn cứ và hợp pháp. Khi nhận được đơn yêu cầu, Tòa án kiểm tra đơn yêu cầu có thuộc thẩm quyền? Người yêu cầu đã cung cấp đủ các tài liệu phải kèm theo đơn yêu cầu? Đơn yêu cầu có nằm trong thời hạn luật định? Nếu việc thuộc thẩm quyền nhưng giấy tờ, tài liệu cung cấp chưa đầy đủ thì phải hướng dẫn ngay để người yêu cầu kịp thời bổ sung. Khi đơn yêu cầu đã đáp ứng được đầy đủ thì phải tiến hành thụ lý. Sau khi thụ lý đơn yêu cầu hủy PQTT, Tòa án phải thông báo ngày cho trung tâm trọng tài hoặc các trọng tài viên của HĐTT vụ việc các bên tranh chấp và viện kiểm sát cùng cấp. 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thoả thuận trọng tài vô hiệu ở Việt Nam 2.2.1. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về thẩm quyền tuyên bố thoả thuận trọng tài vô hiệu Trong thực tế không hiếm trường hợp các bên có thỏa thuận trọng tài nhưng thỏa thuận này không có hiệu lực pháp luật vào thời điểm các bên có 15
  20. tranh chấp. Dưới góc độ pháp lý, trước đây Điều 5 Pháp lệnh trọng tài thương mại quy định: “Trong trường hợp vụ tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài, nếu một bên khởi kiện tại tòa án thì tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu”. Như vậy, theo điều luật này, trong “trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu” thì tòa án có quyền thụ lý giải quyết vụ việc. Điều đó có nghĩa là khi được yêu cầu tòa án không từ chối thụ lý mà giải quyết tranh chấp giữa các bên. Hiện nay, tương tự như vậy, theo Điều 6 Luật trọng tài thương mại: “Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại tòa án thì tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu”. Với quy định này thì khi một bên yêu cầu tòa án giải quyết mặc dù có thỏa thuận trọng tài thì tòa án không từ chối thụ lý và giải quyết tranh chấp khi thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Thực tế, hướng giải quyết như trên đã tồn tại ở Việt Nam trước khi có Pháp lệnh trọng tài thương mại. Ví dụ: Trong vụ Công ty Kolon (Hàn Quốc) bán cho Công ty Vinafood (Việt Nam) một số lượng phân bón, các bên có thỏa thuận trong hợp đồng như sau: “trong quá trình thực hiện hợp đồng này, tất cả những tranh chấp không được sự thỏa thuận hữu nghị của hai bên sẽ được giải quyết bởi Trung tâm Trọng tài quốc tế ở Hà Nội theo quy định của Phòng Thương mại quốc tế”. Các bên có tranh chấp và Kolon khởi kiện ra Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam nhưng ngày 02-5-1998, trung tâm trọng tài này trả lời “không thể thụ lý vụ kiện vì điều khoản trọng tài mà hai bên thỏa thuận trong Hợp đồng không phù hợp với điều lệ và quy tắc tố tụng của Trung tâm”. 2.2.2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về căn cứ xác định thoả thuận trọng tài vô hiệu Thứ nhất, tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài (Khoản 1, Điều 18 Luật TTTM năm 2010). Trong thực tế, đã có tranh chấp về việc xác định này nhưng tòa án dường như rất “thoáng” trong việc xác định yếu tố này. Chẳng hạn, Tổng công ty vật tư nông nghiệp chuyển nhượng cho Công ty cổ phần vật tư nông sản 20.000.000 cổ phiếu của mình trong Công ty cảng Đình Vũ. Sau đó đôi bên có tranh chấp và phía Tổng công ty vật tư nông nghiệp cho rằng “không phải là tranh chấp về hành vi thương mại theo quy định tại Luật thương mại. Thứ hai, người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật (Khoản 2 Điều 18 Luật TTTM năm 2010). Thực tiễn xét xử cho thấy, tại thời điểm PLTTTM năm 2003 có hiệu lực thi hành và Luật TTTM năm 2010 hiện nay, khi xảy ra tranh chấp bên bị thua kiện thường viện dẫn căn cứ tại Khoản 2 Điều 18 Luật TTTM năm 2010 để yêu cầu Tòa án tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu do người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền, từ đó là căn cứ để huỷ phán quyết trọng tài. Thứ ba, người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự (Khoản 3 Điều 18 Luật TTTM năm 2010). Về kỹ thuật lập pháp, trước đây Pháp lệnh năm 2003 và Nghị quyết số 05/2003 và hiện nay Luật trọng tài thương mại và Nghị quyết số 01/2014 chỉ đề cập đến 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2