intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt luận văn Thạc sĩ ngành Văn học Việt Nam: Đào Nguyên Phổ trong đời sống văn hóa và văn học Việt Nam những thập niên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX

Chia sẻ: Đinh Phương | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:16

53
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tóm tắt luận văn thạc sĩ “Đào Nguyên Phổ trong đời sống văn học và văn hoá Việt Nam những thập niên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX” trình bày nghiên cứu về danh sỹ Đào Nguyên Phổ: cuộc đời và sự nghiệp của ông. Đặc biệt, tập trung vào hai khoảng thời gian quan trọng trong cuộc đời ông là lúc ông ở Huế (Từ 1895 đến 1900) khi ông học trường Giám được tiếp xúc với  nhiều tân thư tân văn và quãng thời gian ông ở Hà Nội làm báo (từ 1901 đến khi mất). Để tìm hiểu rõ hơn, mời các bạn cùng xem và tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt luận văn Thạc sĩ ngành Văn học Việt Nam: Đào Nguyên Phổ trong đời sống văn hóa và văn học Việt Nam những thập niên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX

Đào Nguyên Phổ trong đời sống văn hóa và văn học Việt Nam những thập niên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX Trần Thị Thanh Thúy Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Luận văn Thạc sĩ ngành: Văn học Việt Nam; Mã số: 60 22 34 Người hướng dẫn: PGS.TS. Trần Ngọc Vương Năm bảo vệ: 2012 Abstract. Với đề tài “Đào Nguyên Phổ trong đời sống văn học và văn hoá Việt Nam những thập niên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX”, tập trung nghiên cứu về danh sỹ Đào Nguyên Phổ: cuộc đời và sự nghiệp của ông. Đặc biệt, trong luận văn tập trung vào hai khoảng thời gian quan trọng trong cuộc đời ông là lúc ông ở Huế (Từ 1895 đến 1900) khi ông học trường Giám được tiếp xúc với nhiều tân thư tân văn và quãng thời gian ông ở Hà Nội làm báo (từ 1901 đến khi mất). Qua việc khảo sát, phân tìch, đánh giá những tư tưởng mới mẻ của ông về sự nghiệp canh tân và lựa chọn sự nghiệp viết báo, có thể hiểu rõ hơn về những tiến bộ trong cách nghĩ và hành động của Đào Nguyên Phổ. Keywords. Văn học Việt Nam; Nghiên cứu văn học Content PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: 1.1. Trong nghiên cứu văn học, có một thực tế/ hạn chế mà cho đến nay hầu hết các nghiên cứu viên chuyên sâu đều có thể nhận thấy đó là các tác giả văn học được đưa vào nghiên cứu chỉ thuộc vào thiểu số, là “phần nổi” của tảng băng trôi, phần mà ai cũng có thể dễ dàng nhín thấy, kể cả những kẻ “ngoại đạo”. Cách nghiên cứu theo kiểu “đại biểu”, “đại diện” này ngày càng tỏ rõ những mặt hạn chế không thể che dấu được. Đằng sau những tên tuổi đã nổi danh từ trước đến nay trong văn học trung đại như: Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà, Phan Bội Châu…có rất nhiều những tác giả khác chưa được nghiên cứu đầy đủ , mặc dù họ đã góp phần làm nên diện mạo văn học của một thời. Đào Nguyên Phổ là một tên tuổi như vậy. 1.2. Tại sao tên tuổi của Đào Nguyên Phổ vẫn vô danh, bị mờ nhạt, khuất lấp, quên lãng? Đó là do sự chi phối rất rõ của sự gắn văn học và chình trị, mà thái độ chình trị lại được quy vào đơn giản là yêu nước, đến lượt mính, yêu nước lại được quy chiếu vào trục hành động đơn giản nữa là trực tiếp cầm vũ khì chiến đấu hoặc chiến đấu bằng văn chương, bằng ngòi bút. Đã đến lúc phải trả lại cho văn học những giá trị tự thân. Cúng từ đó mà phải tái hiện, trả lại vị trì mà Đào Nguyên Phổ xứng đáng được hưởng để hính dung sát hơn về lịch sử văn học. Chúng tôi không có tham vọng sẽ khắc bia tạc tượng Đào Nguyên Phổ hay một số nhân vật bị lãng quên song chúng tôi thấy rằng cần nghiên cứu họ một cách nghiêm túc khách quan để thông qua đó nghiên cứu những tầng vỉa trong chiều sâu văn học, thấy được một cái nhín toàn diện, sâu sắc về một giai đoạn văn học, để hính dung sát hơn về lịch sử văn học, trả lại công bằng trong văn học. Chình ví thế chúng tôi chọn đề tài “Đào Nguyên Phổ trong đời sống văn hoá và văn học Việt Nam những thập niên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX” cho luận văn của mính. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề: Như trên đã nói, tên tuổi Đào Nguyên Phổ đã bị một lớp bụi của thời gian phủ kìn nên từ trước đến nay không có nhiều công trính nghiên cứu chuyên sâu về ông. Năm 1989, sở Văn hoá và Thông tin tỉnh Thái Bính đã xuất bản cuốn sách để vinh danh những người con quê lúa “Danh nhân Thái Bính”, Đào Nguyên Phổ cũng được góp mặt một cách khiêm tốn vào tập ba của sách với dung lượng ba trang. Cho đến năm 2008, với những nỗ lực bất chấp tuổi tác của Đào Duy Mẫn, cùng với sự góp mặt chủ yếu của GS Chương Thâu và nhiều nhà nghiên cứu, quan chức, bạn bè ở Thái Bính, cuốn “Đính Nguyên Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ” được xuất bản nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày mất của Đào Nguyên Phổ. Đây là cuốn sách tập hợp được (dù là chưa đủ) các tác phẩm của Đào Nguyên Phổ cả về sáng tác, dịch thuật, viết lời tựa. Bên cạnh đó, cuốn sách cũng tập hợp được khá nhiều bài nghiên cứu, bài viết về danh sĩ họ Đào quê lúa ấy. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Với đề tài “Đào Nguyên Phổ trong đời sống văn hoá và văn học Việt Nam những thập niên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX”, chúng tôi tập trung nghiên cứu về danh sỹ Đào Nguyên Phổ: cuộc đời và sự nghiệp của ông. Đặc biệt, chúng tôi tập trung vào hai khoảng thời gian quan trọng trong cuộc đời ông là lúc ông ở Huế (Từ 1895 đến 1900) khi ông học trường Giám được tiếp xúc với nhiều tân thư tân văn và quãng thời gian ông ở Hà Nội làm báo (từ 1901 đến khi mất). 4. Mục đích nghiên cứu: Khi tiến hành đề tài nghiên cứu “Đào Nguyên Phổ trong đời sống văn hóa và văn học Việt Nam những thập niên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX” chúng tôi mong rằng lịch sử sẽ nhín nhận đến Đào Nguyên Phổ với những đóng góp của ông và ghi nhận những đóng góp đó. Qua việc khảo sát, phân tìch, đánh giá những tư tưởng mới mẻ của ông về sự nghiệp canh tân và lựa chọn sự nghiệp viết báo, có thể hiểu rõ hơn về những tiến bộ trong cách nghĩ và hành động của Đào Nguyên Phổ. 5. Phương pháp nghiên cứu: Để đạt hiệu quả cao nhất cho mục tiêu nhận thức đúng vị trì của Đào Nguyên Phổ trong lịch sử, chúng tôi sử dụng phối kết hợp các phương pháp sau: - Phương pháp xã hội học - Phương pháp so sánh - Phương pháp phân tìch- tổng hợp 6. Cấu trúc của luận văn: Ngoài phần Mở đầu và Kết luận luận văn cuả chúng tôi chia làm 3 nội dung lớn được trính bày trong 3 chương như sau: Chương 1: Tiểu sử và những bước chuẩn bị cho sự nghiệp của Đào Nguyên Phổ Chương 2: Những hoạt động và đóng góp của Đào Nguyên Phổ trong lĩnh vực văn học, văn hóa cụ thể Chương 3: Đào Nguyên Phổ trong dòng chảy văn chương những thập niên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX Chương 1: Tiểu sử và những bước chuẩn bị cho sự nghiệp của Đào Nguyên Phổ 1.1.Sơ lược tiểu sử Đào Nguyên Phổ (1861 – 1908) thuộc vào hàng ngũ “thế hệ Phan Bội Châu”. Toàn bộ cuộc đời không dài của Đào Nguyên Phổ nằm trọn trong giai đoạn đầu của cuộc xâm lăng của thực dân Pháp, một giai đoạn xã hội có nhiều biến động, có sự chuyển mính đau đớn, có sự khủng hoảng, bế tắc trong đường lối cứu nước. Ví vậy cả cuộc đời Đào Nguyên Phổ, dù ìt dù nhiều, trong mỗi lựa chọn, mỗi biến cố đều nằm trong “từ trường” của cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ gian khổ. Thuở nhỏ, Đào Nguyên Phổ có tên là Đào Doãn Cung, tên thân mật gọi ở nhà là cậu Ba. Đào Doãn Cung tuổi trẻ đã nổi tiếng là người hay chữ, học chữ mau nhớ, thông minh, có tài ứng đối. Doãn Cung tham dự vào khoa trường rất sớm. Năm 17 tuổi đã đỗ tú tài. Sau đó, đi dạy học (từ 1878 đến 1883) lần lượt ở các địa phương như: Duyên Hà (Thái Bính), Phù Cừ (Hưng Yên). Ngoài ra ông còn có thời gian dài tới sáu năm (1884 đến 1890) làm giáo thụ: vừa làm quan quản lý việc học hành (học quan), lại vừa làm thầy trực tiếp ở Tam Nông, Hưng Hoá. Năm 1884, Đào Nguyên Phổ được thăng chức tri huyện Võ Giàng, Bắc Ninh. Năm 1891, trên địa bàn huyện Võ Giàng nơi Đào Nguyên Phổ đang cai quản xảy ra vụ mất tiền thuế của huyện. Và tất nhiên trách nhiệm thuộc về Đào Nguyên Phổ chứ không phải ai khác. Khi đó, vị huynh trưởng Đào Thế Mỹ đã lo lót, chạy tội giúp em nên Đào Nguyên Phổ chỉ bị bãi chức mà không bị ngồi tù. Nhà nho hành đạo Đào Văn Mại lại bước sang con đường ẩn dật bất đắc dĩ, lại làm một thầy đồ. Trong những năm từ 1891 đến 1894, thầy đồ Đào Văn Mại tìch cực kết giao với nhiều người vừa tài năng, vừa khì tiết, lại có chì hướng muốn tham gia vào công cuộc giải phóng dân tộc, phát triển đất nước như Nguyễn Hữu Cương hay còn gọi là Cả Cương (18551912), Ngô Quang Đoan (1872-1945) con Nguyễn Quang Bìch… Trong số những người bạn mới của Đào Văn Mại có Nguyễn Thượng Hiền, một người có vị trì quan trọng hàng đầu trong đời sống chình trị và văn hoá lúc đó. Nghe lời Nguyễn Thượng Hiền, Đào Văn Mại từ đây đổi tên là Đào Nguyên Phổ vào Huế xin học ở Quốc Tử Giám. Khi khoá học ba năm ở trường Giám kết thúc, Đào Nguyên Phổ đã vượt qua các kỳ thi rồi dự thi Đính khoa Mậu Tuất năm Thành Thái thứ 10 (1898). Đào Nguyên Phổ hăm hở ứng thì, ông đỗ Đính Nguyên Hoàng Giáp mặc dù không đạt điểm tuyệt đối nhưng không có ai đỗ trên ông. Đào Nguyên Phổ được triều đính giữ lại làm quan Hàn lâm thừa chỉ. Cũng trong thời gian này, ông tham gia lớp học tiếng Pháp tại Pháp tự Quốc gia học đường. Làm quan chưa đầy một năm, năm 1902, Đào Nguyên Phổ được triều đính “tìn nhiệm” cử ra Hà Nội tham gia làm báo. Ông bắt đầu sự nghiệp nhà báo của mính tại Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo với vai trò chủ bút. Sau đó, năm 1905, Đào Nguyên Phổ lại mở Đại Việt Tân Báo với E.Babut. Năm 1907, tờ Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo chuyển thành Đăng Cổ Tùng Báo. Năm 1907, sau khi bàn bạc trao đổi, một số nhà nho duy tân yêu nước đã thống nhất lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục, Lương Văn Can là thục trưởng, Nguyễn Quyền là giám học, Đào Nguyên Phổ tham gia biên soạn sách. Đây không đơn thuần là một trường học kiểu mới, các nhà nho yêu nước của ta đã biết lợi dụng sự hoạt động hợp pháp của trường để tuyên truyền, phổ biến, cổ động những nội dung yêu nước. Chình ví thế mà không bao lâu sau, thực dân Pháp đã “ngửi thấy” những nguy cơ từ Đông Kinh Nghĩa Thục mà chúng gọi là “cái lò phiến loạn ở Bắc Kỳ” nên chúng đã ra lệnh đóng cửa trường vào tháng 12 năm 1907. Tất cả các sách vở, tài liệu của trường bị tịch thu, tiêu huỷ, các yếu nhân bị bắt bớ, tù đày. Cũng may lúc đó Đào Nguyên Phổ đang hoạt động ở ngoài nên thoát được. Năm 1908 là năm có nhiều phong trào chống Pháp nổ ra ở khắp ba kỳ, như vụ đầu độc lình Pháp ở Hà Nội, phong trào kháng thuế xin xâu ở Trung kỳ. Thực dân Pháp đã dùng mọi thủ đoạn để đàn áp, dập tắt các phong trào này. Ở Hà Nội, vụ Hà Thành đầu độc phải hoãn đi hoãn lại mấy lần do bị lộ. Có lẽ ví vậy mà Pháp truy lung gắt gao những người có liên quan gần và cả những người chúng nghi ngờ theo tiêu chì “giết nhầm còn hơn bỏ sót”. Đào Nguyên Phổ cũng là một trong những người bị chúng truy lùng ráo riết. Trước tính hính nguy cấp đó, ông đã tự sát vào ngày 24 tháng 5 năm Mậu Thân ( tức ngày 22 tháng 6 năm 1908) hưởng dương 48 tuổi, để giữ trọn danh tiết và tránh liên lụy cho bạn. Về nguyên nhân cái chết của Đào Nguyên Phổ cũng có nhiều ý kiến trái ngược nhau. Ngoài ý kiến như trên cho rằng Đào Nguyên Phổ tự sát để giữ trọn danh tiết thí cũng có ý kiến cho rằng Đào Nguyên Phổ mất ví bị sốc thuốc trong lúc đang trốn tránh ở nhà bạn. 1.2 Từ hành trình của một nhà nho chính thống. Đào Nguyên Phổ được cha dạy chữ từ năm lên năm tuổi. Từ nhỏ, cậu Ba đã là một cậu bé thông minh lanh lợi: người gầy, khi ngồi đầu gối quá tai, đôi mắt vừa nhanh vừa sáng, trì nhớ tốt, ứng đối nhanh. Rất nhiều giai thoại đã kể về cậu bé Đào Doãn Cung có khả năng ứng đối, xuất khẩu thành thơ thần tính ngay từ nhỏ trước những tính huống cụ thể khác nhau Khoa thi tú tài năm 1877, Đào Văn Mại theo hai anh vác lều chõng đến trường thi. Kết quả Đào Văn Mại và người anh là Đào Thế Mỹ đều đỗ . Từ khi đỗ cử nhân đến lúc vào Huế, Đào Nguyên Phổ đã lần lượt trải qua các công việc: dạy học và làm quan. Dường như nghề giáo là một nghiệp của Đào Nguyên Phổ, cho nên trước sau, dù có lúc chủ động hay bị động, ông đều đến với nó như một lẽ tự nhiên. Dù đã kinh qua cả hai con đường của mẫu hính nhà nho chình thống là xuất (làm quan) và xử (dạy học), nhưng thực tế đã đổi thay, nền nho học ngày càng tỏ ra bất lực trước thời cuộc, cũng giống như nhiều nhà nho khác, ông phải tím đến một phương thức khác: biến đổi thành nhà nho duy tân yêu nước. 1.3. Đến một nhà nho có tư tưởng canh tân. 1.3.1. Tiếp thu tân thư. “Tân thư là danh từ để chỉ chung những tài liệu, thư tịch sách vở được các học giả Nhật Bản, Trung Quốc, Triều Tiên biên sạon hay dịch thuật bằng chữ Hán, giới thiệu những tri thức và cung cấp những thông tin về những gí trước hết thuộc Châu Âu hay thuộc về thế giới nói chung, vượt ra ngoài giới hạn mà những gí cổ tịch- những tài liệu sách vở được trước tác trong khuôn khổ truyền thống khu vực, trong đó chủ yếu là những gí mà Tam giáo (Nho, Phật, Đạo) đề cập. Cũng trong phạm vi tân thư là những trước tác của các tác giả Việt Nam như Bùi Viện, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ…đề cập đến những vấn đề của quốc tế, những chuyện thời sự cấp thiết của quốc gia…nghĩa là vượt ra ngoài, vượt lên trên những giới hạn tri thức, kinh nghiệm và giải pháp mà nhà nho cựu học truyền thống đã hay có thể biết tới”[78; tr. 73,74]. Đây có thể coi là một cách nói khái quát nhất để chỉ về phạm vi của những thứ được gọi chung là tân thư. Một trong những người Việt Nam biết đến những thư tịch có nội dung “tân thư” sớm nhất là Lê Quý Đôn. Nhận thấy những giá trị to lớn của những thư tịch này nên ông đã mang về nước một số tân thư trong những năm 1767-1768 khi đi sứ Trung Quốc, nhưng khi đi qua biên giới Trung Quốc đã bị tịch thu hết. Ở Việt Nam các vua Nguyễn từ Minh Mệnh, Thiệu Trị đến Tự Đức đều quyết liệt cự tuyệt văn hoá cũng như những tri thức, thông tin về phương Tây. Nhưng trải qua một thời gian dài của lịch sử, trước những thất bại to lớn, đau đớn của triều đính cũng như các phong trào đấu tranh chống Pháp, Tân thư mới được “quan tâm nhín nhận và tuyên truyền sôi sục” tất nhiên là nằm ngoài sự cho phép của chình quyền bảo hộ. Nguyễn Lộ Trạch chình là người đi đầu trong truyền bá Tân thư và đồng thời đề nghị tiến hành cứu nước theo một đường lối khác. Sau Nguyễn Lộ Trạch, ở kinh đô Huế, các nhà khoa bảng trẻ tuổi tài cao, ưu thời mẫn thế như Nguyễn Thượng Hiền, Phạm Phú Đường, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Đào Nguyên Phổ, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn, Trần Quý Cáp… lần lượt chuyền tay nhau những cuốn Tân thư để mưu đồ sự nghiệp cứu nước cứu nhà vào những năm đầu thế kỷ XX (1901-1902). Trong số những người vừa được xướng tên đây thí Đào Nguyên Phổ chình là người được tiếp xúc với Tân thư sớm nhất. Là người có học vấn, tài hoa, năng động lại chịu khó đổi mới nên khi tiếp xúc với nhứng tu tưởng mới từ Tân thư, Đào Nguyên Phổ đã tiến một bước dài từ nhà nho truyền thống sang một nhà nho duy tân, tìch cực hoạt động trên mặt trận văn hoá, giáo dục. 1.3.2. Học tiếng Pháp. Năm 1896 Pháp cho mở Pháp tự Quốc gia học đường dùng tiếng Pháp làm chuyển ngữ. Năm 1898 đào Nguyên Phổ đỗ Đính Nguyên Hoàng Giáp, ông được bộ Lễ chọn vào học lớp tiếng Pháp mới mở này. Các đại khoa được lựa chọn vào học có quyền tự quyết định có theo học hay không. Hơn người ở đặc điểm chịu khó đổi mới, từ một nhà nho chình thống đã từng nếm trải cả cuộc sống của người hành đạo và người ẩn dật (mặc dù không hoàn toàn là “ẩn”), Đào Nguyên Phổ vẫn sẵn sàng học tiếng Pháp ví ở vào giai đoạn lịch sử lúc đó, tư tưởng Duy tân đang lan tràn rộng khắp, học theo văn minh Âu- Mỹ là một mục đìch lớn mà những người trì thức ưu thời mẫn thế đặt ra. Tham gia lớp học tiếng Pháp đã giúp cho Đào Nguyên Phổ có những kiến thức Tây học nhất định mà không phải ai cũng sẵn sàng tiếp thu những kiến thức đó. Chình những kiến thức Tây học này đã giúp cho Đào Nguyên Phổ có những suy nghĩ và lập luận rất logic trong các bài viết sau này của ông. Tân thư, tiếng Pháp và những kiến thức Tây học có được đã giúp cho Đào Nguyên Phổ, một người vốn tài hoa năng động có những bước chuyển biến quan trọng trong cuộc đời. Từ đây, ông mang trong mính những tâm trạng, suy nghĩ đau đáu về vận mệnh dân tộc, đất

ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2