intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc

Chia sẻ: Tuhai999 Tuhai999 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

54
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu đề tài là trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn Hệ thống VBQPPL về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong thời gian qua để đề xuất giải pháp góp phần hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm âm nhạc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ --------/-------- -----/----- HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA BÙI THỊ NHUNG HOÀN THIỆN HỆ THỐNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM ÂM NHẠC Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 8 34 04 03 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG HÀ NỘI – 2018
  2. Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THỊ THU VÂN Phản biện 1: TS. Nguyễn Minh Sản Phản biện 2: TS. Lê Thanh Huyền Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: Phòng 204, Nhà D, Hội trường bảo vệ Luận văn Thạc sĩ Học viện Hành chính Quốc gia Số: 77, Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội Thời gian: vào hồi 11h00 ngày 17 tháng 9 năm 2018 Có thể tìm hiểu luận văn tại thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web của Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
  3. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung, quyền tác giả nói riêng đã và đang trở thành những điều kiện bắt buộc trong hội nhập kinh tế quốc tế. Càng ở những quốc gia phát triển, vấn đề bản quyền càng được coi trọng như động lực phát triển kinh tế tri thức, giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của mỗi quốc gia. Đây là động lực thúc đẩy con người sáng tạo ra các tác phẩm có giá trị. Âm nhạc có vai trò quan trọng trong việc làm phong phú đời sống văn hóa, tinh thần của mỗi người. Âm nhạc len lỏi trong mọi ngóc ngách, thời gian, không gian. Để có nhiều tác phẩm hay, đến được nhiều với công chúng là cả một sự đầu tư ý tưởng, công sức, giá trị của người sáng tác, người thể hiện. Chính vì vậy, việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc có vai trò nhất định trong việc thu hút và ổn định tinh thần của các văn nghệ sĩ, đồng thời khích lệ khả năng sáng tạo trong quần chúng nhân dân. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin và công nghệ kỹ thuật số với những ứng dụng to lớn của nó trong mọi mặt của đời sống xã hội ngày càng khẳng định tri thức luôn là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển. Các loại hình tác phẩm đều có thể tồn tại trên môi trường kỹ thuật số, Internet, mạng xã hội.... và các công nghệ khác của "thời đại số" giúp việc sao chép và phổ biến tác phẩm tới công chúng dễ dàng hơn bao giờ hết. Nhưng cũng chính vì thế, việc vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan đang diễn ra hết sức phổ biến và phức tạp, ảnh hường lớn đến quyền, lợi ích đồng thời cản trở sự sáng tạo của các tác giả. 1
  4. Việc các website âm nhạc, các trang nhạc số, trang nghe nhạc trực tuyến ngày một xuất hiện nhiều với sự đa dạng về thể loại và phong phú về nội dung là điều tất yếu diễn ra của thời đại bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay. Nghe nhạc online, tải nhạc online hay cài đặt ứng dụng nghe nhạc trực tuyến không còn là các khái niệm xa lạ đối với giới trẻ nói riêng và người nghe nhạc nói chung. Sự du nhập của âm nhạc nước ngoài, của văn hóa quốc tế vào Việt Nam ngày một tăng. Cũng từ đó, nhiều vấn đề kéo theo như việc đạo nhạc, sử dụng các bản ghi phái sinh khi chưa có sự đồng ý của chủ sở hữu hay việc tự ý tải các tác phẩm âm nhạc có bản quyền trên các trang nhạc trực tuyến về mà không có trả phí bản quyền. Tuy nhiên các mối quan hệ trong Luật sở hữu trí tuệ cũng như những quy định về quyền tác giả âm nhạc có những chuyển biến nhất định, nhanh chóng đòi hỏi những thay đổi của quy định pháp luật. Bên cạnh đó, hành lang pháp lý quản lý tình trạng nói trên còn khá lỏng lẻo, chưa theo kịp thực tế khiến cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả cũng như phía cơ quan chức năng còn lúng túng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tác giả tác phẩm nói chung và tác giả tác phẩm âm nhạc nói riêng. Chính vì vậy, để thực thi có hiệu quả các quy định pháp luật đòi hỏi các cơ quan quản lý và thực thi quyền tác giả, quyền liên quan phải phối hợp chặt chẽ với nhau trong các hoạt động. Đồng thời phải thực hiện một “cuộc cách mạng truyền thông” trên phạm vi quốc gia nhằm từng bước xây dựng ý thức thực hiện quyền tác giả và quyền liên quan, để mọi người dân có trách nhiệm khi thụ hưởng những sản phẩm của sự sáng tạo. Với mục đích làm rõ hơn các quy định của pháp luật liên quan, đưa ra các đề xuất mới để điều chỉnh, xây dựng thêm các quy định về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong giai đoạn hiện nay, tôi đã 2
  5. chọn đề tài "Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc" để làm đề tài luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Đã có một số công trình nghiên cứu, các đề tài, bài viết nói về bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan các tác phẩm âm nhạc nói riêng và quyền tác giả nói chung. Gần đây có nhiều bài viết về nội dung này như: - Nguyễn Phan Khôi (2013), Tập bài giảng Luật Sở hữu trí tuệ, Trường Đại Học Cần Thơ - Tác giả: Bùi Ngọc Toàn, Bài nghiên cứu “Việt Nam với việc gia nhập Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật”, Tạp chí NCQT năm 1999 Số 29 bàn về Công ước Berne - một công ước quan trọng nhất về bảo hộ quyền tác giả trên thế giới và Những lợi ích và đòi hỏi khi gia nhập Công ước Berne đối với Việt Nam. - Tác giả: Vũ Mạnh Chu (2011), đã có bài viết “Hài hòa lợi ích bản quyền, pháp luật và thực thi, Nxb Thế giới. - Tác giả Thanh Hương, Báo Lao Động (2014), Bài viết“Bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan: Pháp luật chưa đủ sức răn đe - Tác giả Gia Linh(2016), Bài viết trên Cổng thông tin điện tử, Bộ Văn Hóa Thể thao và Du lịch: “Khẳng định vai trò của Quyền tác giả đối với sự phát triển văn hóa và kinh tế". - Cục Bản quyền tác giả (2000), Luật Quyền tác giả, quyền liên quan Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. - Lê Văn Chất (2013), Luận văn thạc sĩ luật học - Đại học Cần Thơ. “Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc, thực trạng và giải pháp”. 3
  6. - Nguyễn Anh Đức (2010), Luận văn thạc sĩ Luật học - Đại học quốc gia Hà Nội “Bảo hộ quyền tác giả trước những xâm phạm từ Internet trên thế giới và Việt Nam: Phân tích dưới góc độ quyền con người". 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn Hệ thống VBQPPL về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong thời gian qua để đề xuất giải pháp góp phần hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm âm nhạc. 3.2. Nhiệm vụ - Hệ thống các vấn đề lý luận về quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc. - Phân tích, đánh giá thực trạng của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong giai đoạn hiện nay, chỉ ra nguyên nhân của các thực trạng đó. - Đề xuất một số phương hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc giai đoạn 2010 – 2017 4
  7. - Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Từ 2010 - 2017, do từ năm 2010 thì sau Luật sở hữu trí tuệ cùng với đó là sự bùng nổ của thị trường âm nhạc, việc vi phạm sao chép, đạo nhạc diễn ra rất phổ biến và thiếu sự quản lý kiểm soát của cơ quan chức năng. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn - Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước . - Phương pháp nghiên cứu: Cụ thể thông qua hai phương pháp: + Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về phương diện lý luận: Luận văn góp phần hệ thống hóa lý luận cơ bản về bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan đối với tác phẩm âm nhạc. - Về phương diện thực tiễn: Đây là một trong những nghiên cứu mang tính cấp thiết hiện nay trong việc đưa ra những giải pháp thiết thực bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan trong giai đoạn công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, có nhiều xâm phạm, tranh chấp xảy ra. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc. Chương 2: Thực trạng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạcở Việt Nam hiện nay. Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc. 5
  8. CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM ÂM NHẠC 1.1. Khái quát về quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc 1.1.1. Khái niệm quyền tác giả Quyền tác giả hay tác quyền là độc quyền của một tác giả cho tác phẩm của người này. Quyền tác giả được dùng để bảo vệ các sáng tạo tinh thần có tính chất văn hóa không bị vi phạm bản quyền, như các bài viết về khoa học hay văn học, sáng tác nhạc, ghi âm, tranh vẽ, hình chụp, phim và các chương trình truyền thanh. Quyền này bảo vệ các quyền lợi cá nhân và lợi ích kinh tế của tác giả trong mối liên quan với tác phẩm, quyền tác giả thông thường chỉ được công nhận khi sáng tạo này mới, có một phần công lao của tác giả và có thể chỉ ra được là có tính chất duy nhất [5]. Hiểu một cách đơn giản, quyền tác giả cho phép tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả được độc quyền khai thác tác phẩm, chống lại việc sao chép, trình diễn bất hợp pháp. Quyền tác giả nói chung được hiểu là quyền mà pháp luật trao cho các tác giả là người sáng tạo ra tác phẩm, bao gồm quyền bộc lộ tác phẩm, quyền sao chép tác phẩm và phân phối hoặc phổ biến tác phẩm đến công chúng bằng bất kỳ phương thức hoặc phương tiện nào, và quyền cho phép người khác sử dụng tác phẩm theo những cách thức cụ thể. Hầu hết luật quyền tác giả của các nước đều phân biệt rõ giữa quyền tài sản và quyền nhân thân. Các ngoại lệ nhất định cũng được đặt ra đối với các loại hình tác phẩm đủ tiêu chuẩn bảo hộ, và đối với việc thực thi các quyền đó. Luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản hướng dẫn thi hành của Việt Nam cũng trao cho 6
  9. tác giả các quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm do chính tác giả trực tiếp sáng tạo ra. Tóm lại, Quyền tác giả là tổng hợp các quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả được pháp luật quy định đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học do chính mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. 1.1.2. Khái niệm về tác phẩm âm nhạc Khoản 7 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009 có định nghĩa: “Tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào”. Tại Điều 12 Nghị định 100/2006/NĐ-CP ngày 21/09/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ Luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan có định nghĩa tác phẩm âm nhạc là “ tác phẩm được thể hiện dưới dạng nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác có hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn”. Tuy nhiên, tác phẩm âm nhạc thường phải thông qua giọng hát, hay nhạc cụ thì mới có thể truyền trước công chúng, vẫn được xem là tác phẩm âm nhạc và bảo hộ theo nguyên tắc luật định. 1.1.3. Khái niệm về quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc 1.1.3.1. Tác giả âm nhạc Tác giả âm nhạc là người trực tiếp tạo ra toàn bộ hoặc một phần tác phẩm âm nhạc, được thể hiện dưới dạng nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác có hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn. Hay có thể nói rằng nếu tác phẩm âm nhạc là kết quả sáng tạo trực tiếp của cá nhân nào đó thì cá nhân đó được coi là tác giả của 7
  10. tác phẩm âm nhạc đó. Những người đề xuất ý kiến, làm công việc hỗ trợ, đóng góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho người khác sáng tạo ra một tác phẩm âm nhạc thì không được công nhận là tác giả của tác phẩm âm nhạc. Tác phẩm âm nhạc được sáng tác phải là kết quả sáng tạo trực tiếp của tác giả tạo ra tác phẩm âm nhạc đó. 1.1.3.2. Khái niệm quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc Quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc (hay còn gọi là tác quyền âm nhạc) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm âm nhạc do mình sáng tác hoặc được sở hữu hợp pháp. 1.1.4. Đặc điểm quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc Một là, tác phẩm âm nhạc được bảo hộ phải có tính nguyên gốc, tức là không sao chép, bắt chước tác phẩm khác. Hai là, pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc chỉ bảo hộ hình thức thể hiện của ý tưởng sáng tạo trong tác phẩm âm nhạc, mà không bảo hộ những ý tưởng sáng tạo chứa đựng trong tác phẩm, được thể hiện ra từ tác phẩm âm nhạc. Ba là, quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc được bảo hộ mà không phụ thuộc vào nôi dung hay giá trị nghệ thuật của tác phẩm âm nhạc. Bốn là, quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc được bảo hộ tự động. Kết quả của hoạt động sáng tạo ra tác phẩm âm nhạc mang tính nguyên gốc và được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định sẽ được công nhận là tác phẩm âm nhạc và được pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc thừa nhận và bảo vệ. 1.2. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc 1.2.1. Khái niệm hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc 8
  11. 1.2.1.1. Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam được đề cập trong các Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 2002), 2008 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 đưa ra khái niệm về văn bản quy phạm pháp luật như sau: “Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này hoặc trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội”[11, tr 13-15]. 1.2.1.2. Khái niệm hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật là một tập hợp các văn bản quy phạm pháp luật có liên hệ mật thiết với nhau về mọi phương diện, được sắp xếp theo trật tự pháp lý khách quan, lô gíc và khoa học. Đó là hệ thống chặt chẽ các cấu trúc nội dung bên trong và hình thức biểu hiện bên ngoài, phản ánh được và phù hợp yêu cầu của công tác quản lý nhà nước. Trong hệ thống này những tiểu hệ thống với tính chất và mức độ hiệu lực pháp lý cao thấp, rộng hẹp khác nhau. 1.2.1.2. Khái niệm hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc Khái niệm hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc: Văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục luật định được quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, trong đó có chứa đựng các quy tắc xử sự 9
  12. chung được nhà nước về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc bảo đảm thực hiện và được áp dụng nhiều lần trong thực tế đời sống[11, tr 18-22]. 1.2.2. Phân loại hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc Căn cứ Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác phẩm âm nhạc bao gồm: + Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và được chỉnh sửa bổ sung năm 2009 với công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ và quyền tác giả: Năm 1987 Bộ Văn hóa thông tin đã cho ra đời “Hãng bảo hộ quyền tác giả Việt Nam” tiền thân của Cục Bản quyền tác giả - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hiện nay. Năm 1994 tiếp tục có Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả do Hội đồng Nhà nước ban hành, năm 1995 Bộ Luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Chủ tịch Trần Đức Lương ký lệnh ban bố, trong đó có một chương sắc nét và nổi bật những quy định cơ bản của quyền tác giả. Năm 2005, Luật Sở hữu trí tuệ ra đời và năm 2009 chỉnh sửa bổ sung để phù hợp với Công ước Berne, công ước quốc tế về Sở hữu trí tuệ và Quyền tác giả, và Việt Nam là một thành viên vào năm 2004. Điều 33 Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định việc tổ chức, cá nhân sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã được công bố nhằm mục đích thương mại đều phải có nghĩa vụ trả tác quyền cho các nhạc sĩ có tác phẩm trong bản ghi, người biểu diễn trong bản ghi và nhà sản xuất bản ghi đó. + Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Di sản Văn hoá, Luật Điện ảnh, Pháp lệnh Quảng cáo cũng có một số điều khoản quy định về quyền tác giả, nhằm tăng cường quản lí ở các lĩnh vực đặc biệt quan trọng này. Luật 10
  13. Hải quan đã có quy định các biện pháp bảo hộ tại biên giới đối với hàng hóa xuất nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ. + Tại Bộ luật Hình sự sửa đổi tháng 6 năm 2009 (điều 170a) có quy định mức phạt tối đa là 200 triệu đồng và 3 năm tù giam, đối với các hành vi thuộc tội phạm quyền tác giả; Luật Hải quan 2005, Luật xử lý phạt vi phạm hành chính 2012; Luật Điện ảnh 2006, Luật công nghệ thông tin 2006; Luật chuyển giao công nghệ 2006; Luật Đầu tư 2005… + Thông tư số 27/2001/TT-BVHTT về quyền tác giả trong Bộ luật Dân sự do Bộ Văn hóa-Thông ban hành, để hướng dẫn thực hiện Nghị định số 76/CP ngày 29/11/1996, Nghị định số 60/CP ngày 6/6/1997 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số quy định về quyền tác giả trong Bộ luật Dân sự. + Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 17 tháng 10 năm 2006; + Quyết định của thủ tướng chính phủ: Cùng với các văn bản và hoạt động đó, năm 2008 Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ thị về việc tăng cường công tác bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan, có thể nói chỉ thị này là một bằng chứng rõ nét nhất về quyết tâm mạnh mẽ của Chính phủ trong chính sách về quyền tác giả và quyền liên quan. + Nghị định 47/2009/NĐ-CP và nghị định số 131/2013/NĐ-CP đã được chính phủ ký ban hành ngày 16/10/2013. Nghị định gồm 4 chương, 43 điều sửa đổi, bổ sung một số hành vi vi phạm; điều chỉnh mức phạt tiền, hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả để phù hợp với thực tiễn và các quy định mới của Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012. Mức xử phạt, hình thức xử phạt bổ sung và các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định tại Nghị định đủ sức giáo dục và răn đe. 11
  14. + Nghị định số 85/2011/NĐ-CP ngày 20 tháng 9 năm 2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 100/2006/NĐ- CP ngày 21 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10 tháng 11 năm 2011; + Nghị định số 01/2012/NĐ-CP ngày 04 tháng 01 năm 2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ, hủy bỏ các quy định có liên quan đến thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 27 tháng 02 năm 2012, thẩm quyền từ trung ương tới địa phương. Đồng thời với hệ thống pháp luật quốc gia đã được định hình như trên, Hiệp định song phương về thiết lập quan hệ quyền tác giả, Hiệp định Thương mại giữa Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kì, Hiệp định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ giữa Việt Nam và Liên bang Thụy Sỹ cũng đang có hiệu lực thi hành. 1.2.3. Vai trò của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc 1.2.3.1. Văn bản quản lý nhà nước đảm bảo thông tin cho hoạt động quản lý nhà nước 1.2.3.2. Văn bản là phương tiện truyền đạt các quyết định quản lý 1.2.3.3. Văn bản là phương tiện kiểm tra, theo dõi hoạt động của bộ máy lãnh đạo và quản lý 1.2.3.4. Văn bản là công cụ xây dựng hệ thống pháp luật 1.2.4. Các tiêu chí đánh giá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc Khi đánh giá hệ thống văn bản QPPL cần dựa trên các tiêu chí - Tính thống nhất về nội dung giữa các văn bản trong hệ thống 12
  15. - Tính thống nhất về hình thức giữa các văn bản trong hệ thống - Khả năng phản ánh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phạm vi quản lý của cơ quan, đơn vị đã tạo nên hệ thống văn bản - Khả năng hỗ trợ thông tin giữa các văn bản cùng hệ thống và giữa các hệ thống văn bản 1.3. Hệ thống VBQPPL về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc ở một số quốc gia trên thế giới Tại Hàn quốc, quyền tác giả âm nhạc được bảo hộ bởi Luật quyền tác giả Hàn quốc, lần đầu tiên được ban hành năm 1957, đã trải qua 14 lần bổ sung, và hai lần trong số đó được sửa đổi, bổ sung toàn diện, lần thứ nhất năm 1986 và lần thứ hai năm 2006, có hiệu lực năm 2007. Luật này bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh về quyền tác giả, quyền liên quan nhằm thúc đẩy việc sử dụng công bằng các sản phẩm sở hữu trí tuệ và đóng góp vào việc cải thiện và phát triển nền văn hóa. Tại Hoa kỳ, việc ghi nhận quyền tác giả và các biện pháp bảo hộ quyền tác giả đã được trang trọng ghi nhận trong Hiến pháp Hoa Kỳ tại Điều 1 Mục 8 Khoản 8 “Quốc Hội có quyền… nhằm thúc đẩy tiến bộ khoa học và nghệ thuật bằng các đảm bảo quyền tối cao của tác giả và nhà phát minh trong một khoảng thời gian nhất định đối với những tác phẩm và phát minh của họ”. Luật Quyền tác giả đầu tiên của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ được thông qua và ban hành ngày 31 tháng 05 năm 1790. Năm 1976, Thượng nghi sĩ Mc Clellan đưa ra dự thảo Luật Quyền tác giả mới trình Thượng nghị viện Hoa Kỳ thay thế cho Luật Quyền tác giả cũ. Với 100% số phiếu thông qua (97 phiếu thuận/ 0 phiếu chống), Thượng nghị viện thông qua Luật Quyền tác giả vào ngày 19/02/1976. Ngày 22/09/1976, cả Thượng nghị viện và Hạ nghị viện đều chập thuận thông quan Luật Quyền tác giả. Ngày 19/10/1976, Tổng thống Ford ký lệnh ban hành Luật Quyền tác giả, có hiệu lực từ ngày 01/01/1978. Sau đó, Luật quyền tác giả năm 1976 được sửa đổi, bổ sung năm 1998 [9, tr 13-15]. 13
  16. CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG HOÀN THIỆN HỆ THỐNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI CÁC TÁC PHẨM ÂM NHẠC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Tình hình vi phạm bản quyền tác giả âm nhạc Giai đoạn trước năm 1946, Ở Việt Nam Đảng và Nhà nước ta chưa xác định rõ vai trò của tài sản trí tuệ và bảo hộ quyền tác giả là một trong những yếu tố quan trọng trong xây dựng nền kinh tế thị trường. Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên vào năm 1946, Nhà nước Việt Nam đã ghi nhận những quyền cơ bản của công dân liên quan đến quyền tác giả, thể hiện tư tưởng tiến bộ, nhân văn về con người. Đó là quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản của công dân; là việc Nhà nước cam kết bảo vệ quyền lợi của trí thức; tôn trọng quyền tư hữu tư nhân về tài sản. Tư tưởng lập pháp đó đã tiếp tục được thể hiện tại Hiến pháp 1959, 1980 và Hiến pháp 2013 đang có hiệu lực thi hành. Năm 1986 với Nghị định số 142/HĐBT ngày 14 tháng 11 năm 1986, lần đầu tiên ở Việt Nam, một văn bản riêng biệt về quyền tác giả đã được ban hành với một số quy định cơ bản, ban đầu về quyền tác giả với sự giúp đỡ của hãng VAB (hãng bảo hộ quyền tác giả thuộc Liên Xô trước đây). Trước yêu cầu của phát triển, ngày 02 tháng 12 năm 1994, Ủy Ban thường vụ Quốc hội khóa IX đã thôngqua Pháp lệnh về quyền tác giả. Tại kỳ họp thứ 8 Khóa IX, ngày 28 tháng 10 năm 1995, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ Luật Dân sự, trong đó có các quy định về quyền tác giả. Với 36 Điều quy định riêng về quyền tác giả tại Chương I, Phần thứ 6 Bộ Luật Dân sự, đã điều chỉnh các quan hệ dân sự về quyền tác giả trong điều kiện đất nước chuyển đổi cơ chế quản lý từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. 14
  17. 2.2. Khái quát về sự hình thành và phát triển của phát luật về bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm âm nhạc trƣớc năm 2005 và điều ƣớc quốc tế có liên quan 2.2.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm âm nhạc Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên vào năm 1946, Nhà nước Việt Nam đã ghi nhận những quyền cơ bản của công dân liên quan đến quyền tác giả, thể hiện tư tưởng tiến bộ nhân văn về quyền con người. Đó là quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản của công dân, là việc Nhà nước cam kết bảo vệ quyền lợi của trí thức, tôn trọng quyền tư hữu tư nhân về tài sản. Tư tưởng lập pháp đó đã tiếp tục được thể hiện tại Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp 2013 đang có hiệu lực thi hành. Một loạt văn bản liên quan đến quyền tác giả được ban hành, với sự ra đời điều lệ Li-xăng 1984 và năm 1986 nghị định 142/HĐBT,đây là những văn bản riêng biệt về quyền tác giả ban hành với một số qui định nhằm điều chỉnh về quyền này. Năm 1986 với Nghị định 142/HĐBT, lần đầu tiên ở Việt Nam một văn bản riêng biệt về quyền tác giả đã được ban hành với những quy định cơ bản, ban đầu với sự giúp đỡ của hãng VAB (Hãng bảo hộ quyền tác giả của Liên Xô cũ). Trước yêu cầu của sự phát triển, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh về quyền tác giả vào tháng 10-1994. Tại kì họp thứ 8 khoá IX, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Bộ luật Dân sự, trong đó có các quy định về quyền tác giả. Với 36 điều quy định riêng về quyền tác giả tại chương I, phần thứ 6 và phần thứ 7 Bộ luật Dân sự, nó đã điều chỉnh hầu hết các quan hệ dân sự về quyền tác giả, trong điều kiện đất nước chuyển đổi cơ chế quản lí từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường. 15
  18. 2.2.2. Một số điều ước quốc tế điều chỉnh về quyền tác giả 2.2.2.1. Công ước Berne 1886 về bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật 2.2.2.2. Công ước Rome 1961 2.2.2.3. Công ước Geneva bảo hộ nhà sản xuất bản ghi ấm chống lại việc sao chép trái phép bản ghi của họ 2.2.2.4. Hiệp định TRIPS về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ 2.2.2.5. Hiệp ước WCT 1996 về bản quyền tác giả (WIPO Copyright Treaty) 2.3. Tình hình ban hành Hệ thống VBQPPL về bảo hộ quyền tác giả các tác phẩm âm nhạc từ 2005 đến nay 2.3.1. Hệ thống VBQPPL đã được ban hành 2.3.1.1. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 2.3.1.2. Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Di sản Văn hoá, Luật Điện ảnh 2.3.2. Những nội dung điều chỉnh chính của hệ thống VBQPPL về bảo hộ quyền tác giả các tác phẩm âm nhạc 2.3.2.1. Những nội dung điều chỉnh hệ thống VBQPPL cho chủ sở hữu quyền tác giả”. 2.3.2.2. Hành vi xâm phạm quyền tác giả 2.3.2.3. Xử phạt hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm 2.3.2.4. Giới hạn bảo hộ về quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc 2.3.2.5. Thời hạn bảo hộ về quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc 2.3.2.6. Chuyển giao quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc 2.3.2.7. Chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan là việc chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan chuyển giao quyền sở hữu 2.3.2.8. Đồng thời quy định các quyền không được chuyển nhượng 16
  19. 2.3.3. Đánh giá chung về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc ở Việt Nam 2.3.3.1. Tính thống nhất về nội dung giữa các văn bản trong hệ thống VBQPPL Thứ nhất, qua thời gian áp dụng vào sự phát triển trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng, hệ thống VBQPPL về quyền tác giả đối tác phẩm âm nhạc còn bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót. Thứ hai, hệ thống VBQPPL vẫn còn mâu thuẫn, trùng chéo về giám định, vấn đề giám định sẽ đặt ra khi đối tượng sở hữu trí tuệ đang có tranh chấp là đối tượng phức tạp. Theo Điều 90 Bộ luật tố tụng dân sự 2004, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định theo sự thoả thuận lựa chọn của các bên đương sự hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự. 2.3.3.2. Khả năng phản ánh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phạm vi quản lý của cơ quan, đơn vị Thứ nhất, Hệ thống VBQPPL về quyền tác giả đối tác phẩm âm nhạc xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả còn vi phạm tính thống nhất, rõ ràng về chức năng, quyền hạn của các đơn vị xử lý về vi phạm quyền tác giả đối tác phẩm âm nhạc. Thứ hai, hệ thống VBQPPL chưa có các quy định rõ ràng về quyền hạn và phạm vi quản lý của cơ quan đơn vị, chưa quy định rõ được mức độ vi phạm. 2.3.3.3. Khả năng hỗ trợ thông tin giữa các văn bản cùng hệ thống và giữa các hệ thống văn bản Nguyên nhân dẫn đến có tỷ lệ vi phạm quyền tác giả đối tác phẩm âm nhạc hiện nay ngày càng tinh vi và phức tạp đó là do hệ thống VBQPPL hiện nay về quyền tác giả đối tác phẩm âm nhạc thiếu tính hỗ trợ thông tin giữa các văn bản cùng hệ thống và giữa các hệ thống văn bản. 17
  20. 2.4. Đánh giá chung về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả tác phẩm âm nhạc 2.4.1. Những kết quả đạt được Hệ thống VBQPPL về bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm âm nhạc của Việt Nam đã phát triển và tương đối đầy đủ và có sự quy định rõ ràng trong các điều luật về bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm âm nhạc. Hệ thống VBQPPL về bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm âm nhạc đã chính thức được quy chuẩn theo Luật Sở hữu trí tuệ ra đời 2005 và năm 2009 chỉnh sửa bổ sung để phù hợp với Công ước Berne, công ước quốc tế về Sở hữu trí tuệ và Quyền tác giả, và Việt Nam là một thành viên vào năm 2004. Hệ thống VBQPPL về bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm âm nhạc của Việt Nam đã có đủ các hệ thống các văn bản Luật pháp và pháp quy mà Quốc hội, Chính phủ và cả trong các Nghị quyết của Trung ương Đảng đã ban hành. Trong Hệ thống VBQPPL về bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm âm nhạc đã bao gồm các lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học. Hệ thống VBQPPL về bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm âm nhạc đã quy định rõ quyền và lợi ích của những sáng tạo trí tuệ trong lĩnh vữ âm nhạc, không còn sự thiếu minh bạch như hệ thống văn bản cũ trước năm 2005. 2.4.2. Những hạn chế Tuy đã có hệ thống VBQPPL về quyền tác giả đối tác phẩm âm nhạc khá đầy đủ tuy nhiên Hệ thống VBQPPL này vẫn còn nhiều hạn chế. Do Hệ thống VBQPPLphức tạp về cấu trúc, cồng kềnh về số lượng văn bản, nội dung chưa đầy đủ có khi chồng chéo nhau, khó hiểu, hoặc có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau và còn một số điểm chưa phù hợp với pháp luật quốc tế. Trong các nội dung được quy định trong hệ thống VBQPPL còn 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2