intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Năng lực biên dịch viên tại các Trung tâm Lưu trữ quốc gia, Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước

Chia sẻ: Tomhum999 Tomhum999 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

46
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu thực trạng năng lực năng lực đội ngũ biên dịch viên tại các Trung tâm Lưu trữ quốc gia, Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, luận văn nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực năng lực biên dịch viên tại các Trung tâm Lưu trữ quốc gia, Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Năng lực biên dịch viên tại các Trung tâm Lưu trữ quốc gia, Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước

  1. ` BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN PHÚ TRỌNG NĂNG LỰC BIÊN DỊCH VIÊN TẠI CÁC TRUNG TÂM LƢU TRỮ QUỐC GIA, CỤC VĂN THƢ VÀ LƢU TRỮ NHÀ NƢỚC Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 8340403 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG HÀ NỘI, 2020
  2. ` Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS VÕ KIM SƠN Phản biện 1: PGS.TS. Ngô Thành Can, Học viện hành chính Quốc gia. Phản biện 2: PGG.TS. Nguyễn Minh Phương, Đại học Nội vụ Hà Nội Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: Phòng 204A - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Số:77 - Đường Nguyễn Chí Thanh- Quận Đống Đa – TP Hà Nội Thời gian: vào hồi 8 giờ ngày 31 tháng 8 năm 2020 Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web của Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của Luận văn Trung tâm Lưu trữ quốc gia – đơn vị trực thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, là những trung tâm có nhiệm vụ lưu trữ tài liệu lịch sử cấp quốc gia, đây là nguồn di sản văn hóa vô giá của mỗi dân tộc, chứa đựng những thông tin xác thực về nhiều vấn đề, sự kiện thuộc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Những khối tài liệu này không chỉ phục vụ công tác nghiên cứu lịch sử mà còn có giá trị đặc biệt trong thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay, chủ trương của Đảng, Nhà nước, Cục Văn thư và Lưu trữ là phát huy giá trị tài liệu lưu trữ quốc gia, đưa giá trị thông tin vào thực tiễn cuộc sống, coi đó là nguồn lực gián tiếp mang lại lợi ích vật chất và tinh thần, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Trong những năm qua, công tác này được thực hiện với nhiều hoạt động như sau: phục vụ sử dụng tài liệu tại hệ thống các phòng đọc ở bốn Trung tâm Lưu trữ quốc gia; biên soạn, xuất bản các ấn phẩm lưu trữ; giới thiệu trên các phương tiện thông tin đại chúng; triển lãm, trưng bày thường xuyên các tài liệu lưu trữ. Số lượng độc giả đến với các trung tâm ngày càng tăng, nhưng chủ yếu vẫn là người nước ngoài, các nhà nghiên cứu, những người có khả năng nghiên cứu và thành thạo về ngoại ngữ. Trong khi đó, công chúng nước ta vẫn còn khá xa lạ với các tài liệu lưu trữ, các Trung tâm Lưu trữ quốc gia. Yêu cầu phát huy tốt hơn nữa giá trị tài liệu, đưa tài liệu lưu trữ tiếp cận gần hơn với công chúng trong nước cũng như nước ngoài đã đặt ra những nhiệm vụ, thử thách mới cho các Trung tâm Lưu trữ quốc gia. Từ đó cũng chỉ ra yêu cầu các viên chức tại các Trung tâm không ngừng nâng cao trình độ để hoàn thành tốt công việc trong tình hình mới. Các biên dịch viên có vai trò rất quan trọng trong quá trình này, họ là những người biên dịch những nội dung tài liệu từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt hoặc ngược lại. Với yêu cầu mới đòi hỏi các biên dịch viên phải nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn của bản thân để có hoàn thành tốt công việc được giao, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chung của toàn bộ tổ chức. Trong quá trình hoạt động thực tiễn, đã chỉ ra nhiều vấn đề cấp thiết về năng lực của đội ngũ biên dịch viên trong tình hình mới. Khối lượng công việc ngày càng nhiều khiến các Biên dịch viên chưa sắp xếp, giải quyết công việc một cách khoa học, hợp lý. Yêu cầu về công việc cũng ngày càng đa dạng, phong phú, áp lực 1
  4. ngày càng cao cũng làm ảnh hưởng đến hiệu quả công việc của biên dịch viên. Các biên dịch viên làm việc tại các trung tâm Lưu trữ quốc gia còn thiếu những kỹ năng mềm để có thể xử lý khối lượng công việc lớn một cách hiệu quả. Chính vì vậy tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu “Năng lực biên dịch viên tại các Trung tâm Lưu trữ quốc gia, Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước” nhằm xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn để đề xuất một số giải pháp phát triển năng lực đội ngũ biên dịch viên tại các Trung tâm Lưu trữ quốc gia thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận văn - Tình hình nghiên cứu trên thế giới Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về năng lực biên dịch, phải kể đến đó là “Building a translation competence model” (Xây dựng mô hình năng lực biên dịch) của nhóm nghiên cứu PACTE. Nghiên cứu này xác định rõ các tiêu chí năng lực biên dịch với mục đích giúp cho biên dịch viên giá năng lực của mình trong chuyên môn biên dịch. Đây là nghiên cứu được nhiều chuyên gia tham khảo, sử dụng. Bên cạnh đó, công trình nghiên cứu “Competence in Language, in Languages, and in Translation” (Năng lực về ngôn ngữ, đa ngôn ngữ và biên dịch” của tác giả Albrecht Neubert – cũng là một trong những công trình nghiên cứu uy tín cho các biên dịch viên, tác giả công trình này đã nghiên cứu từ rất nhiều nguồn tài liệu khoa học khác nhau, đồng thời có nhiều cuộc khảo sát thực tế về năng lực biên dịch. Từ đó tạp chí này đã đưa ra những yếu tố then chốt cho năng lực biên dịch cần có. Ngoài ra còn có tác phẩm “Nhập môn nghiên cứu dịch thuật” của Jeremy Munday (Trịnh Lữ dịch). Tác phẩm đưa ra những lý thuyết, định nghĩa cơ bản về biên dịch, những yếu tố cần thiết để thực hiện tốt công việc biên dịch. Từ đó làm cơ sở để biên dịch viên nâng cao năng lực của bản thân. - Tình hình nghiên cứu trong nước Dựa trên việc tìm hiểu về Luật Viên chức, thông qua các bài viết của tạp chí Văn thư Lưu trữ và trang thông tin điện tử của Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, và đặc biệt là trong các đề tài nghiên cứu bảo vệ luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến sĩ tại Học viện Hành chính, tôi nhận thấy chưa có đề tài nào nghiên cứu về vấn đề Năng lực biên dịch viên một cách hoàn chỉnh. Đây cũng là một vấn đề mới, số lượng bài nghiên cứu liên quan đến biên dịch viên còn 2
  5. ít, nội dung hạn chế, chưa đa dạng. Tuy nhiên cũng có thể kể tới những công trình nghiên cứu đáng chú ý như: Trương Thị Ngọc Diệp và Nguyễn Văn Phúc, “Các khó khăn về ngôn ngữ trong quá trình biên dịch quảng cáo cung cấp thông tin của sinh viên năm cuối chuyên ngành Phiên – Biên dịch tiếng Anh, Trường Đại học Cần Thơ”, đăng trên Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Nội dung nghiên cứu chỉ ra những khó khăn về ngôn ngữ trong quá trình biên dịch nói chung cũng như biên dịch nội dung quảng cáo nói riêng. Từ đó đưa ra biện pháp khắc phục. Nguyễn Quang, “Từ năng lực ngôn ngữ đến năng lực liên văn hóa”, đăng trên Tạp chí khoa học Đại học quốc gia Hà Nội. Nghiên cứu này trình bày về các năng lực liên quan đến ngôn ngữ mà các biên dịch viên cần có. Để từ đó đưa ra cái nhìn khái quát về các năng lực này, giúp cho biên dịch viên có thêm cơ sở đánh giá, nâng cao năng lực. Lê Hùng Tiến, “Về cơ sở lý luận đào tạo biên phiên dịch ở Việt Nam”, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài. Nghiên cứu này chỉ ra cơ sở lý luận đào tạo biên dịch chuyên nghiệp ở Việt Nam. Trình bày tóm tắt những khái niệm nền tảng của đào tạo biên phiên dịch, các chương trình, đường hướng phát triển, phương pháp đào tạo. Đưa ra khuyến nghị về phát triển chương trình đào tạo biên phiên dịch tại Việt Nam. Nhìn chung các công trình trên đã đề cập đến một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tình hình nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức nói chung. Hoạt động biên dịch đã diễn ra từ rất lâu trong xã hội, tuy nhiên, tình hình nghiên cứu về ngành dịch thuật nói chung hay ngành biên dịch ở nước ta vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Số lượng các bài nghiên cứu về năng lực biên dịch viên còn rất hạn chế, chưa có nhiều đóng góp quan trọng trong lý luận và thực tiễn. Trong tình hình hiện nay, với sự tìm hiểu và nghiên cứu đề tài về “ Năng lực biên dịch viên các Trung tâm Lưu trữ quốc gia, Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước” một đề tài đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và chuyên biệt, đảm bảo tính mới của luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về năng lực biên dịch 3
  6. viên, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực biên dịch viên tại bốn Trung tâm Lưu trữ quốc gia. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, Luận văn thực hiện một số nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu cơ sở lý luận về năng lực biên dịch viên nói chung; - Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực biên dịch viên tại bốn Trung tâm Lưu trữ quốc gia hiện nay; - Đề xuất, kiến nghị những giải pháp nâng cao năng lực biên dịch viên tại 4 Trung tâm Lưu trữ quốc gia. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Năng lực biên dịch viên tại 4 Trung tâm Lưu trữ quốc gia. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung và không gian nghiên cứu: Luận văn chủ yếu đánh giá về năng lực của biên dịch viên công tác tại bốn Trung tâm Lưu trữ quốc gia thông qua các số liệu đã được thống kê và tập hợp trong giai đoạn từ 2014-2019. Để từ đó đưa ra được các kiến nghị, đề xuất và giải pháp nhằm nâng cao năng lực biên dịch viên bốn Trung tâm Lưu trữ quốc gia trong thời gian tiếp theo. - Về thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu năng lực biên dịch viên bốn Trung tâm Lưu trữ quốc gia, từ năm 2014 đến 2019. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của Luận văn 5.1. Phương pháp luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trong việc đánh giá năng lực đội ngũ viên chức nói chung và biên dịch viên nói riêng tại bốn Trung tâm Lưu trữ quốc gia. 5.2 Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: - Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê; - Phương pháp nghiên cứu tài liệu; - Phương pháp so sánh, đánh giá; - Phương pháp điều tra xã hội học: Để thu thập các số liệu và thông tin cần thiết cho việc nghiên cứu; 4
  7. - Phương pháp quan sát; Bên cạnh đó còn các phương pháp kỹ thuật khác để xử lý số liệu thu thập được như chương trình Word, Excel. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận - Kết quả nghiên cứu góp phần hệ thống hóa các cơ sở khoa học về năng lực của đội ngũ biên dịch viên. - Góp phần làm sáng tỏ những lý luận về năng lực viên chức nói chung và đội ngũ biên dịch viên nói riêng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực đội ngũ biên dịch viên tại các Trung tâm Lưu trữ quốc gia, Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước. - Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng năng lực năng lực đội ngũ biên dịch viên tại các Trung tâm Lưu trữ quốc gia, Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, luận văn nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực năng lực biên dịch viên tại các Trung tâm Lưu trữ quốc gia, Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn được kết cấu gồm 03 chương. Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về năng lực biên dịch viên. Chương 2. Thực trạng năng lực biên dịch viên tại các Trung tâm Lưu trữ quốc gia. Chương 3. Một số giải pháp nâng cao năng lực viên chức biên dịch viên Trung tâm Lưu trữ quốc gia, Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước. CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC BIÊN DỊCH VIÊN 1.1. Tổng quan về biên dịch và biên dịch viên 1.1.1. Biên dịch là gì Biên dịch, theo tiếng Hán có thể hiểu là: “sự dịch chuyển”, “sự thông dịch”, “sự giải nghĩa”. Theo định nghĩa được ghi chép trong từ điển tiếng Việt thì biên dịch là: “sự dịch chuyển bài viết từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ nào đó” hay “sự chuyển đổi lời nói hay bài viết từ tiếng của quốc gia này sang tiếng của quốc gia nào đó”. 5
  8. Có nhiều định nghĩa khác nhau của các học giả về biên dịch - Foster, M. (1958): “Dịch thuật là một hoạt động tinh thần trong đó một ý nghĩa của diễn ngôn ngôn ngữ được đưa ra từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Đó là hành động chuyển các thực thể ngôn ngữ từ một ngôn ngữ này sang ngôn ngữ tương đương của chúng sang ngôn ngữ khác. Dịch là một hành động thông qua đó nội dung của văn bản được chuyển từ ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ đích”.[38] - Ghazala (1995):”Dịch thuật thường được sử dụng để chỉ tất cả quá trình và phương pháp được sử dụng để truyền đạt ý nghĩa của ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ đích”.[40] - Nida & Taber (1969): “ Bản chất của biên dịch là hành vi tái hiện “ngôn ngữ nguồn dưới dạng ngôn ngữ đích một cách gần nhất về mặt ý nghĩa và làm gia tăng mức độ tự nhiên”.[42] - Catford, J. (1995): “Biên dịch là sự hoán đổi ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác và có sự tham gia của yếu tố văn bản”. [36] - Jean Delisle (1999): Biên dịch không phải là tái hiện kí hiệu mà là tái hiện khái niệm hoặc ý nghĩa.[41] - Nord (1997): Biên dịch là tạo ra văn bản đích có chức năng liên quan đến đặc tính văn bản nguồn mà được chọn lọc tùy theo mục đích sử dụng hay yêu cầu của văn bản đích.[43] Từ những khái niệm trên, có thể rút ra kết luận cách tổng quan rằng rằng biên dịch là công việc chuyển đổi nội dung tài liệu dạng văn bản từ ngôn ngữ nguồn sang một ngôn ngữ đích mà không làm thay đổi nội dung ngôn ngữ nguồn muốn truyền tải. 1.1.2. Vị trí, vai trò của biên dịch Trong một thế giới hội nhập như hiện nay, biên dịch đóng vai trò rất quan trọng. Tất cả các ngành nghề, lĩnh vực đều sử dụng tài liệu chuyên ngành bằng tiếng Việt cũng như các tiếng nước ngoài. Với xu thế hội nhập quốc tế ngày càng phát triển thì công việc biên dịch các tài liệu, văn bản từ một ngôn ngữ sang một ngôn ngữ khác nhằm giúp đối tác hiểu rõ bản chất của nội dung là rất cần thiết cho sự phát triển của mọi lĩnh vực hay ngành nghề trong xã hội. Ngôn ngữ sẽ rào cản lớn trong hoạt động giao tiếp với đối tác, bạn bè quốc tế hay việc tìm hiểu, nghiên cứu tri thức của nhân loại. Để giải quyết những vấn đề khó khăn gặp phải khi bất đồng ngôn ngữ thì cần phải có hoạt động dịch thuật, biên dịch song hành. Biên dịch là yếu tố quan trọng giúp 6
  9. hai bên hiểu rõ nhau hơn, là cầu nối giúp người sử dụng tiếp cận được những tri thức tiên tiến của nhân loại. Biên dịch góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo ra việc làm. Biên dịch giúp nền văn hóa, xã hội phát triển. Tiêu biểu nhất là ngành Giáo dục, những tác phẩm văn học, triết học... đa số xuất phát từ những ngôn ngữ khác nhau ngoài tiếng Việt. Những tác phẩm kinh điển của nhân loại, những nền văn minh lâu đời cùng với đó là nguồn kiến thức vô tận. Tất cả đều cần được dịch sang tiếng Việt một cách chính xác và thoát nghĩa. Để làm được điều này thì cần một đội ngũ chuyên nghiệp về biên dịch. Vì mỗi tác phẩm đều mang trong mình những ngữ cảnh và văn hóa khác nhau, đòi hỏi phải có những con người có trình độ chuyên môn cao và am hiểu một cách tường tận ngôn ngữ đó. 1.1.3. Phân loại biên dịch Tùy theo văn bản, tài liệu ngôn ngữ có thể chia biên dịch thành nhiều nhóm khác nhau. * Xét về ngôn ngữ - Biên dịch từ ngôn ngữ gốc sang một số ngôn ngữ đích. - Biên dịch từ ngôn ngữ của các quốc gia khác (ngôn ngữ nguồn) sang tiếng Việt (ngôn ngữ đích). * Xét về nội dung văn bản Xét về nội dung văn bản, có thể phân loại bản dịch theo chuyên ngành. Có thể đưa ra một vài chuyên ngành phổ biến nhất trong biên dịch như sau: - Biên dịch tài liệu kỹ thuật Dịch thuật tài liệu kỹ thuật là một hình thức dịch thuật chuyên ngành liên quan đến các tài liệu thường được tạo bởi các nhà văn kỹ thuật (hướng dẫn sử dụng, sổ tay kỹ thuật,.. v.v.), hay cụ thể hơn là các văn bản liên quan đến lĩnh vực công nghệ hoặc văn bản liên quan đến ứng dụng thực tế của thông tin khoa học và công nghệ . - Biên dịch tài liệu kinh tế, thương mại Những thông tin về lĩnh vực kinh tế, thương mại này luôn hết sức đa dạng, phong phú từ những bản báo cáo dự báo tăng trưởng của các quốc gia, khu vực đến những thông tin về kim ngạch thương mại giữa các quốc gia, từ các thông cáo cho đến các phân tích về kinh tế vĩ mô và thậm chí cả các trang web chuyên về thương mại điện tử. Những loại tài liệu này đa phần đều đặt ra yêu cầu là phải phù hợp với những chuẩn mực quốc tế. - Biên dịch tài liệu về pháp luật Dịch thuật tài liệu pháp luật là dịch thuật các tài liệu liên quan đến hệ 7
  10. thống những qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội pháp triển phù hợp với lợi ích của giai cấp mình. - Biên dịch các tài liệu, văn bản nghệ thuật, văn học Văn học có nhiều thể loại khác nhau như tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, kịch bản, lý luận phê bình… Nền văn học trong và ngoài nước đã có lịch sử phát triển từ lâu đời tạo nên một kho kiến thức vô cùng rộng lớn. Mỗi thời khắc trôi qua, thế giới lại được đón nhận thêm những đứa con tinh thần mới từ các tác giả trên khắp thế giới cập nhật thêm cho nền văn học. Việc dịch thuật các tài liệu văn học hay sách báo vẫn luôn được mọi người quan tâm. Ngôn ngữ văn học không nhất thiết theo một trình tự nhất định, ý văn không chỉ nằm trên ngôn từ trong tác phẩm mà còn được ẩn đi thông qua các biện pháp nghệ thuật đòi hỏi biên dịch viên phải có vốn từ phong phú, sự sáng tạo và kết hợp linh hoạt để câu văn trở nên chau chuốt mà vẫn giữ được ý văn của tác giả. 1.1.4. Cách tiếp cận về biên dịch viên * Phân loại theo mức độ chuyên môn hóa: - Biên dịch viên chuyên sâu một ngôn ngữ đích: Những biên dịch viên có trình độ thông thạo chuyên sâu một ngôn ngữ đích khác, ngoài ngôn ngữ gốc. Nhiệm vụ của các biên dịch viên này dịch những văn bản có độ khó cao thuộc những chuyên ngành phức tạp, yêu cầu có sự đa dạng về ngữ nghĩa để truyền tải trọn vẹn nội dung của văn bản, đưa ra bản dịch có chất lượng cao nhất. - Biên dịch viên thông thạo nhiều ngôn ngữ đích: Những biên dịch viên có khả năng thông thạo từ hai ngôn ngữ đích trở lên, ngoài ngôn ngữ gốc. Nhiệm vụ của họ là biên dịch những văn bản, bản tin, tài liệu có độ khó vừa phải, không yêu cầu quá cao bản dịch. * Phân loại theo mức độ chuyên ngành: việc phân loại này chia biên dịch viên theo từng chuyên ngành riêng dựa trên nội dung của văn bản. Có những loại biên dịch viên theo chuyên ngành chính sau: - Biên dịch viên tài liệu kỹ thuật. - Biên dịch viên tài liệu kinh tế, thương mại. - Biên dịch viên tài liệu pháp luật. - Biên dịch viên tài liệu văn học. * Phân loại theo chủ thể quản lý 8
  11. - Biên dịch viên làm việc cho các tổ chức tư nhân. - Biên dịch viên làm việc cho các tổ chức nhà nước. - Biên dịch viên làm việc độc lập. * Tiếp cận biên dịch viên dưới góc độ quản lý nhà nước, biên dịch viên vừa đồng thời là người lao động làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị sự nghiệp công lập đồng thời cũng là đối tượng của quản lý nhà nước. 1.1.5 Những yêu cầu năng lực cần có của biên dịch viên 1.1.5.1 Khái niệm về năng lực Nói một cách tổng quát thì năng lực của con người là tổng hòa những điều kiện, những nhân tố chủ quan tiềm năng bên trong con người cùng tham gia vào công việc giải quyết, để xử lý một tình huống và để thực hiện một nhiệm vụ cụ thể trong một môi trường xác định. Năng lực không mang tính chung chung mà khi nói đến năng lực, bao giờ người ta cũng nói đến năng lực thuộc về một hoạt động cụ thể nào đó như năng lực chính trị của hoạt động chính trị, năng lực giảng dạy của hoạt động giảng dạy... Từ những quan niệm trên, theo tác giả: “Năng lực là sự tổng hợp những thuộc tính của cá nhân con người, đáp ứng những yêu cầu của hoạt động và đảm bảo cho hoạt động đạt được những kết quả cao’’. 1.1.5.2 Một số mô hình quy định năng lực biên dịch viên Ở Tây Ban Nha, công việc tập trung rõ ràng nhất vào việc xác định khái niệm này là do nhóm PACTE thực hiện (1998, 2000, 2003, 2005). Họ đề xuất một mô hình về năng lực dịch thuật mà họ coi là hệ thống kiến thức cơ bản cần có để có thể dịch (2000: 100; 2001: 39; 2003: 126). Trên thực tế, Mô hình năng lực dịch thuật do nhóm nghiên cứu này (2003) đề xuất bao gồm 5 năng lực và các thành phần tâm sinh lý (2005: 610-611) chồng chéo lẫn nhau khi chúng hoạt động. Bao gồm - Năng lực song ngữ. - Năng lực ngoài ngôn ngữ. - Kiến thức về biên dịch. - Năng lực sử dụng công cụ. - Năng lực lập chiến lược. - Thành phần tâm sinh lý. Bên cạnh mô hình của PACTE, có một mô hình khác về năng lực biên dịch được phát triển bởi nhóm chuyên gia EMT ( European Master’s in Translator), một tổ chức được thành lập bởi Tổng cục dịch thuật của Ủy ban châu Âu. 9
  12. Theo mô hình này, có sáu năng lực: - Năng lực cung cấp dịch vụ dịch thuật. - Năng lực ngôn ngữ. - Năng lực liên văn hóa. - Năng lực khai thác thông tin. - Năng lực chuyên môn. - Năng lực công nghệ (làm chủ công cụ). 1.1.5.3 Những năng lực cần có của biên dịch viên Hiện nay, tại Việt Nam chưa có tiêu chí cụ thể dành cho năng lực của đội ngũ biên dịch viên. Tuy nhiên, tham khảo dựa trên hai mô hình năng lực biên dịch của PACTE và EMT và thực tiễn công việc, có thể thấy rất nhiều yếu tố cần có đối với một biên dịch viên. Thứ nhất, khả năng ngoại ngữ. Thứ hai,có năng lực viết. Thứ ba, có năng lực tra cứu. Thứ tư, có mức độ am hiểu về các lĩnh vực khác nhau. Thứ năm, năng lực sử dụng công nghệ thông tin. Thứ sáu, nắm vững các kỹ năng mềm. Thứ bảy, có năng lực đa văn hóa. 1.2. Biên dịch viên làm việc trong các cơ quan nhà nƣớc Để hiểu được bản chất của biên dịch viên, cần phải làm rõ khái niệm viên chức 1.2.1 Quy định về Biên dịch viên trong bộ máy nhà nước Việt Nam Trong văn bản pháp luật Việt Nam hiện hành, chưa có danh mục nghề nghiệp và danh mục nghề nghiệp trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, trong một số văn bản pháp luật (Luật cán bộ, công chức; Luật viên chức và các văn bản hướng dẫn), chia nhóm người làm việc cho các tổ chức nhà nước thành một số lĩnh vực khác nhau gọi chung là ngach. Đối với nhóm viên chức sử dụng cụm từ ngạch viên chức. Ngạch viên chức là sự phân chia viên chức theo từng nghề nghiệp, chuyên môn và cấp bậc phù hợp của họ. Các chuyên ngành viên chức có thể kể đến một và ngành như y tế, giáo dục, giải trí, khí tượng, biên dịch,v.v. Biên dịch viên làm việc trong bộ máy nhà nước là người làm chuyên về biên dịch và điều chỉnh theo luật viên chức. Tuy nhiên, do đòi hỏi của công việc này, họ có thể làm việc mang tính chuyên môn, chuyên nghiệp ở tất cả các loại cơ quan nhà nước từ trung ương đến chính quyền địa 10
  13. phương các cấp. Tuy nhiên, do ngành nghề, họ được xếp vào nhóm viên chức. 1.2.2 Viên chức đảm nhận vị trí biên dịch viên Căn cứ vào Luật Viên chức 2010 cùng với Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTTTT-BNV năm 2016, có thể nhận thấy các khía cạnh quan trọng của khái niệm viên chức là biên dịch viên. ( Sau đây sẽ gọi là Biên dịch viên) Có thể rút ra khái niệm về biên dịch viên như sau: Biên dịch viên là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập, thực hiện hoạt động dịch viết, sưu tầm tài liệu lưu trữ thuộc phạm vi và quyền hạn được giao. Hoạt động biên dịch bao gồm: Dịch viết các tài liệu thuộc thẩm quyền; Thu thập, sưu tầm, bổ sung tài liệu theo phạm vi quản lý; Chỉ dẫn các thuyết minh, các kỹ thuật, mỹ thuật đối với các loại hình tài liệu được đưa vào tra cứu, triển lãm; Tham gia chuẩn bị nội dung và dịch cho các hội thảo về nghiệp vụ trong nước và nước ngoài. 1.3. Năng lực biên dịch viên 1.3.1. Các yếu tố cấu thành năng lực của biên dịch viên Như đã nói ở trên, năng lực bao giờ cũng được xem xét gắn với một con người cụ thể và một công việc cụ thể. Trên thực tế, năng lực của một cá nhân bao giờ cũng cấu thành ít nhất bởi 3 yếu tố: Thứ nhất, kiến thức là tổng thể tri thức, hiểu biết mà một người lĩnh hội, tích lũy qua trải nhiệm hoặc học hỏi. Hay kiến thức là những hiểu biết chung hoặc chuyên ngành của một cá nhân cần thiết để đảm nhiệm một vị trí lao động nào đó. Nhờ có những kiến thức cơ bản này mà cá nhân có sự nhìn nhận vấn đề khách quan, khoa học, có khả năng quan sát, nhận xét, tư duy, xét đoán và quyết định hành động phù hợp, kịp thời và đúng thời điểm. Thứ hai, kỹ năng là khả năng của một người (không phân biệt mức độ kiến thức, học vấn) có thể làm, thực hiện trôi chảy một công việc cụ thể được trao cho người đó. Thứ ba, thái độ, cách ứng xử và cách quan hệ, đây là yếu tố thứ ba để xác định năng lực của một con người được biểu hiện thông qua cách thức, hành vi quan hệ, ứng xử, giao tiếp, nói và nghe. Ba nhóm yếu tố cơ bản kể trên được kết hợp chặt chẽ với nhau tạo nên một chỉnh thể đó là năng lực của cá nhân con người. Có thể hiểu, năng lực của 11
  14. một cá nhân là sự kết hợp và chi phối lẫn nhau giữa ba nhóm yếu tốcơ bản: kiến thức – kỹ năng – Thái độ ứng xử, quan hệ. Trên thực tế, cũng có thể chi tiết các nhóm yếu tố trên thành những yếu tố nhỏ hơn hoặc cũng có thể bổ sung thêm những tiêu chí khác. Khi cá nhân được giao thực hiện công việc cụ thể, đòi hỏi cá nhân đó phải có năng lực (cả ba nhóm yếu tố kể trên) phù hợp với yêu cầu của công việc,thì mới đảm bảo thực thi có hiệu quả công việc được giao. 1.3.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực biên dịch viên 1.3.2.1. Theo tiêu chuẩn pháp luật quy định Tiêu chuẩn, năng lực của Biên dịch viên được quy định cụ thể theo Điều 10, Điều 11, Điều 12 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTTL-BTTTT- BNV.[7] Biên dịch viên được phân loại với các cấp độ từ cao xuống thấp, tương ứng với đó là các tiêu chuẩn năng lực khác nhau: Biên dịch viên hạng I Biên dịch viên hạng II Biên dịch viên hạng III 1.3.2.2. Các tiêu chí đánh giá thông qua yếu tố cấu thành năng lực - Kiến thức của biên dịch viên * Kiến thức chung : Biên dịch viên là nguồn lực giúp bộ máy cơ quan, tổ chức có thể vận hành và hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Chính vì vậy, biên dịch viên phải tổng hợp được các kiến thức về trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ, quản lý nhà nước, lý luận chính trị. Đó là một trong những điều kiện tiên quyết bảo đảm cho việc thực hiện công việc đạt kết quả tốt. * Kiến thức cụ thể gắn liến với vị trí biên dịch viên Bên cạnh các kiến thức chung mà bất kỳ viên chức nào cũng phải đảm bảo theo quy định, thì biên dịch viên phải được trang bị kiến thức cụ thể tương ứng với chức danh công tác. Nó thể hiện tính chất, đặc điểm riêng của từng ngành, từng lĩnh vực và mang tính chuyên môn, nghiệp vụ cụ thể. Tại Điều 10,11,12 của Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTTTT- BNV quy định tiêu chuẩn đối với chức danh Biên dịch viên. + Năng lực trong giải quyết công việc của biên dịch viên. Năng lực là tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng viên chức khi thực hiện công việc. Nói đến năng lực của biên dịch viên là nói đến khả 12
  15. năng thực tế giải quyết công việc, khả năng sử dụng các công cụ, vận dụng kiến thức, kỹ năng nhằm đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ được cơ quan, tổ chức giao cho một cách có hiệu quả. Năng lực của biên dịch viên là một loại năng lực đặc thù, gắn liền với chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm về ngoại ngữ. Để đánh giá năng lực biên dịch viên có thể sử dụng các tiêu chí :Năng lực sử dụng công nghệ; Năng lực tra cứu thông tin; Năng lực đa ngôn ngữ; Năng lực tiếp cận vấn đề; Năng lực lập kế hoạch; Năng lực làm việc nhóm. 1.3.2.3. Các tiêu chí đánh giá thông qua kết quả thực hiện nhiệm vụ Đánh giá năng lực viên chức thông qua kết quả thực hiện nhiệm vụ là hình thức đánh giá hiện đang được áp dụng theo quy định pháp luật hiện hành về viên chức nói chung, do đó, cũng được áp dụng với biên dịch viên. Theo quy định của Luật Viên chức, Nghị định số 56/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09/6/2015 về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức. Việc đánh giá viên chức được phân loại thành 4 mức: Từ Không hoàn thành nhiệm vụ đến Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. 1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực biên dịch viên 1.3.3.1. Chất lượng và hiệu quả tuyển dụng biên dịch viên Năng lực của đội ngũ biên dịch viên chịu sự tác động lớn từ chất lượng và hiệu quả của công tác tuyển dụng. Sự khách quan, minh bạch, công tâm, nội dung thi tuyển phù hợp với vị trí công việc, chức danh nghề nghiệp là cơ sở đầu tiên để có được đội ngũ biên dịch viên phù hợp. Công tác tuyển dụng được thực hiện tốt không chỉ bổ sung năng lực tổng thể cho biên dịch viên mà còn tạo nền tảng để có đội ngũ biên dịch viên có đủ tâm, đủ tầm, đủ tài trong tương lai. 1.3.3.2. Công tác đào tạo, bồi dưỡng phát triển năng lực của biên dịch viên Đào tạo, bồi dưỡng chính là công cụ để phát triển năng lực của biên dịch viên. Yêu cầu đối với kết quả thực thi nhiệm vụ của biên dịch viên ngày càng cao hơn. Đào tạo, bồi dưỡng cho phép bổ khuyết những thiếu hụt đó và chuẩn bị những năng lực cần thiết cho biên dịch viên trong giai đoạn tiếp theo. Chính vì vậy, để nâng cao năng lực của biên dịch viên, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cần được đặc biệt chú ý. 1.3.3.3. Chế độ, chính sách tạo động lực đối với biên dịch viên Các chế độ, chính sách đối với biên dịch viên có tác động mạnh mẽ đến động lực làm việc. Chế độ, chính sách đối với biên dịch viên cần phải quan tâm để các viên chức này thực sự gắn bó với nghề nghiệp, có sự đam mê, không ngừng tìm tòi, nâng cao hiệu quả thực hiện công việc. 13
  16. 1.3.3.4. Sự quan tâm của người đứng đầu đơn vị đối với việc phát triển năng lực của biên dịch viên Đội ngũ biên dịch viên chịu sự tác động rất lớn của người đứng đầu cơ quan quản lý. Vì thế quan điểm của người lãnh đạo quản lý có tác động thực sự quan trọng đến sự phát triển của đội ngũ biên dịch viên. Người lãnh đạo quản lý quan tâm đến công tác dịch thuật, quan tâm đến đội ngũ biên dịch thì công tác phát triển năng lực đội ngũ biên dịch viên sẽ được đẩy mạnh Tiểu kết Chƣơng 1: Qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận về năng lực viên chức và năng lực biên dịch viên sẽ làm rõ vấn đề sau: Viên chức ngành Lưu trữ là viên chức thực hiện hoạt động lưu trữ nên được áp dụng các quy định pháp luật về viên chức nói chung nhưng cũng cần xây dựng thêm quy định về cơ chế riêng để xây dựng lực lượng viên chức ngành Lưu trữ. Năng lực biên dịch viên ngành Lưu trữ là tập hợp những thuộc tính tâm lý của người đó (gồm tri thức, kỹ năng và thái độ, hành vi ứng xử, quan hệ) của viên chức trong quá trình thực thi nhiệm vụ được giao, được đánh giá dựa trên các yếu tố cấu thành năng lực (kiến thức, kỹ năng, thái độ) hoặc đánh giá theo phân loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ. Có thể nói, nội dung chương 1 là cơ sở khoa học quan trọng và cần thiết cho việc đánh giá thực trạng về năng lực của biên dịch viên tại các Trung tâm Lưu trữ quốc gia. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp mang tính khả thi trong việc nâng cao năng lực của đội ngũ biên dịch viên tại các Trung tâm Lưu trữ quốc gia trong thời gian tới. Chƣơng 2:THỰC TRẠNG NĂNG LỰC BIÊN DỊCH VIÊN TẠI CÁC TRUNG TÂM LƢU TRỮ QUỐC GIA 2.1. Chức năng nhiệm vụ của các trung tâm Lƣu trữ quốc gia Hiện nay, có bốn trung tâm trực thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, bao gồm: Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV. Các Trung tâm Lưu trữ quốc gia là đơn vị sự nghiệp công lập phục vụ công tác lưu trữ tài liệu quốc gia, thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước; là các đơn vị đầu ngành về công tác lưu trữ tài liệu lịch sử. Trong quá trình hình 14
  17. thành và phát triển, các Trung tâm đã có nhiều đóng góp cho ngành Lưu trữ. Đây là những đơn vị đi đầu trong ngành lưu trữ, có bề dày truyền thống lịch sử lâu đời. 2.2. Khái quát về nhiệm vụ biên dịch và đội ngũ biên dịch viên tại bốn trung tâm lƣu trữ quốc gia 2.2.1. Nhiệm vụ biên dịch Nhiệm vụ biên dịch viên tại các trung tâm lưu trữ quốc gia được dựa trên nhiệm vụ chung của Biên dịch viên được quy định tại thông tư liên tịch Số: 11/2016/TTLT-BTTTT-BNV và chức năng nhiệm vụ của từng đơn vị. Các biên dịch viên có nhiệm vụ chính như sau: a) Dịch viết những thể loại thông thường như tin, bài, niên biểu, tường thuật, tiểu phẩm, sách đảm bảo được nội dung nguyên bản và chịu trách nhiệm cá nhân đối với bản dịch đó. b) Dịch phục vụ cho công tác đối ngoại theo yêu cầu của cơ quan. c) Tập hợp, sưu tầm, trích dẫn, tra cứu phục vụ cho biên dịch. d) Chuẩn bị nội dung, dịch cho các hội thảo về nghiệp vụ trong nước và nước ngoài. 2.2.2. Biên dịch viên Tính đến năm 2019, tổng số viên chức là biên dịch viên của 4 trung tâm là 63 người trên tổng số 252 người. Với số lượng biến động rất ít. Cơ cấu theo giới tính Cơ cấu theo độ tuổi 2.3. Phân tích, đánh giá năng lực biên dịch viên tại các Trung tâm lƣu trữ quốc gia giai đoạn 2015 - 2019 2.3.1. Mức độ đáp ứng tiêu chuẩn pháp luật quy định 2.3.1.1. Trình độ chuyên môn 2.3.1.2. Trình độ lý luận chính trị 2.3.1.3. Trình độ tin học, ngoại ngữ 2.3.1.4. Chứng chỉ bồi dưỡng tiêu chuẩn Biên dịch viên 2.3.2. Đánh giá năng lực theo kết quả hoạt động hàng năm của biên dịch viên 2.3.3. Đánh giá năng lực theo nhóm năng lực thực thi hoạt động biên dịch Để đánh giá thực trạng về năng lực của biên dịch viên, tác giả đưa ra 6 nhóm tiêu chí nhỏ với thang điểm đánh giá 1,2,3,4,5. (Mức độ 1: Thể hiện kém, mức độ 2: Thể hiện mức TB, mức độ 3: Thể hiện mức khá, mức độ 4: Thể hiện tốt, mức độ 5: Thể hiện rất tốt). 2.3.3.1. Năng lực sử dụng công nghệ thông tin 15
  18. 2.3.3.2. Năng lực tra cứu thông tin 2.3.3.3. Năng lực ngôn ngữ 2.3.3.4. Năng lực tiếp cận vấn đề 2.3.3.5. Năng lực lập kế hoạch công việc 2.3.3.6. Năng lực làm việc nhóm 2.3.4. Thái độ làm việc và phẩm chất đạo đức của biên dịch viên Qua kết quả khảo sát cho thấy 78% viên chức được hỏi yên tâm và hoàn toàn yên tâm trong công tác, 22% chưa yên tâm công tác và 85% yêu thích công việc hiện tại, có thái độ tốt với tình yêu nghề nghiệp và gắn bó với công việc đang làm. Thái độ nghề nghiệp được thể hiện cụ thể như: tâm huyết, yêu nghề và vì sự phát triển của ngành biên dịch. 2.4. Đánh giá chung về năng lực biên dịch viên nhà nƣớc tại các Trung tâm lƣu trữ 2.4.1. Về mặt tích cực * Đối với năng lực theo tiêu chuẩn pháp lý Trung tâm lưu trữ quốc gia đã tạo lập được một đội ngũ biên dịch viên chính quy và ổn định theo tiêu chuẩn, chức danh cần thiết đáp ứng yêu cầu thực thi của một nền công vụ mới theo yêu cầu phát triển của ngành lưu trữ. * Đối với năng lực thực thi hoạt động biên dịch Kết quả khảo sát cho thấy, biên dịch viên tại các Trung tâm lưu trữ quốc gia được đánh giá theo các nhóm năng lực trên đều ở mức trung bình. Các biên dịch viên đã có sự tự đánh giá công tâm về năng lực thực thi hoạt động biên dịch của bản thân. Có thể thấy, nhìn chung năng lực được coi là thế mạnh của biên dịch viên đó là năng lực về chuyên môn như kỹ năng ngôn ngữ, kỹ năng tra cứu. 2.4.2. Những mặt hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân 2.4.2.1. Đối với năng lực theo tiêu chuẩn pháp lý - Trình độ chuyên môn của biên dịch viên cơ bản đáp ứng theo đúng quy định của pháp luật đối với vị trí đảm nhiệm song việc nâng cao trình độ chuyên môn thực hiện còn chậm và không có sự thay đổi đáng kể. 2.4.2.2. Đối với năng lực thực thi hoạt động quản lý - Đánh giá chung: Nhìn chung, năng lực của biên dịch viên còn hạn chế, chưa năng động, nhạy bén trong giải quyết công việc. Kỹ năng mềm là hạn chế lớn của các biên dịch viên. Từ thực trạng trên đòi hỏi cần phải có những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa việc xây dựng một đội ngũ biên dịch viên có đủ năng lực và phầm 16
  19. chất để đảm nhận tốt hơn nữa vai trò, nhiệm vụ của mình.2.4.2.3 Nguyên nhân của hạn chế - Nguyên nhân khách quan: + Quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra nhanh chóng, dẫn tới sự thay đổi chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức; thay đổi những tiêu chuẩn đối với người thực hiện công việc… Nguyên nhân này làm cho khoảng cách giữa yêu cầu của công việc và năng lực hiện có của người thực hiện công việc có xu hướng ngày càng xa nhau. - Nguyên nhân chủ quan: Về phía trung tâm: + Trung tâm chưa có cơ chế, chính sách khuyến khích đối với hoạt động đào tạo, bồi dưỡng biên dịch viên nhằm thúc đẩy người được cử đi có tinh thần học tập, nâng cao trình độ. Sự khó khăn về tài chính, cơ sở vật chất cũng chưa được các cơ quan cấp trên quan tâm một cách nghiêm túc. Mặt khác, đa số biên dịch viên đều phản ánh trở ngại của việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực do các cấp quản lý chưa có kế hoạch, cơ chế chính sách thực sự tháo gỡ được khó khăn và khuyến khích đội ngũ biên dịch viên tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng, các chương trình chưa phong phú. + Công tác triển khai kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng biên dịch viên chưa kịp thời và hạn chế, thiếu sự kiểm soát chất lượng. Về phía biên dịch viên: + Một bộ phận biên dịch viên chưa nhận thức đầy đủ về đào tạo và phát triển năng lực bản thân trong quá trình thực thi nhiệm vụ được giao. + Một bộ phận biên dịch viên còn duy trì thói quen và phong cách làm việc theo kinh nghiệm, ngại đổi mới, phong cách làm việc của một số biên dịch viên còn chậm chạp, chấp hành giờ giấc không nghiêm chỉnh trong quản lý do đó đã khiến cho bộ phận viên chức này không không nhận thức được một cách sâu sắc và đầy đủ ảnh hưởng bất lợi của việc chậm đổi mới tư duy, thiếu tính chủ động, sáng tạo. Tiểu kết Chƣơng 2: Từ việc tìm hiểu thực trạng đội ngũ biên dịch viên tại các Trung tâm Lưu trữ quốc gia, Luận văn đã làm rõ những vấn đề sau: - Về kỹ năng nghề nghiệp, chuyên môn, nghiệp vụ, các biên dịch viên đáp ứng tốt yêu cầu của công việc. Tuy nhiên, cũng còn nhiều hạn chế cần được khắc phục như: cần cải thiện kỹ năng mềm, kỹ năng lập kế hoạch xử lý công việc… Thái độ làm việc và phẩm chất đạo đức của đội ngũ viên 17
  20. chức được đánh giá tốt, đáp ứng được yêu cầu công việc. Thực trạng còn tồn tại nhiều khó khăn và hạn chế bởi những nguyên nhân như: việc phân cấp trong quá trình thực hiện chuyên môn nghiệp vụ vẫn trong quá trình đổi mới; chưa ban hành quy chế về công tác đào tạo, bồi dưỡng trên cơ sở các quy định của pháp luật về quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng; chưa có kế hoạch dài hạn về công tác đào tạo bồi dưỡng; kinh phí cấp cho công tác đào tạo, bồi dưỡng còn tương đối thấp so với yêu cầu thực tế; trang thiết bị làm việc chưa được nâng cấp, thay thế; chế độ tiền lương thu nhập từ công việc của viên chức nói chung còn khá thấp... Nhìn chung, nội dung chương 2 đã chỉ ra những năng lực được coi là thế mạnh và năng lực còn yếu để từ đó đề xuất những giải pháp nhằm rèn luyện và nâng cao những nhóm năng lực còn thiếu đó. Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC VIÊN CHỨC BIÊN DỊCH VIÊN TRUNG TÂM LƢU TRỮ QUỐC GIA, CỤC VĂN THƢ VÀ LƢU TRỮ NHÀ NƢỚC 3.1. Sự cần thiết khách quan phải nâng cao năng lực biên dịch viên Để có thể thấy được vai trò của biên dịch viên tại các trung tâm lưu trữ, trước hết phải thấy được tầm quan trọng của tài liệu lưu trữ đối với xã hội và quan điểm của Đảng, chỉ đạo của Chính phủ về tài liệu lưu trữ. 3.1.1. Giá trị của tài liệu lưu trữ Tài liệu lưu trữ có giá trị rất quan trọng đối với mọi mặt của đời sống, xã hội. Đó là nơi lưu giữ những thông tin giá trị của lịch sử, có giá trị nghiên cứu rất lớn, là cơ sở để con người hoàn thiện kho tàng kiến thức đồ sộ. 3.1.2. Tầm quan trọng của tài liệu lưu trữ tại các Trung tâm lưu trữ quốc gia Khối lượng tài liệu tại bốn Trung tâm lưu trữ quốc gia thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước được giao nhiệm vụ gìn giữ, bảo quản rất lớn và có nhiều tài liệu rất có giá trị về nội dung và ý nghĩa lịch sử, văn hóa. Những tài liệu này phản ánh đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cũng như kiến thức, kinh nghiệm và bài học của quá khứ từ đầu thế kỷ XIX đến nay, trong đó có những tài liệu quý giá là những bằng chứng khẳng định chủ quyền biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa của quốc gia. Có thể xem những tài liệu còn lưu giữ được tại các Trung tâm Lưu trữ quốc gia là những bằng chứng lịch sử quý giá chứa đựng các thông tin của quá khứ, phản ánh thành tựu sáng tạo của nhân dân qua các thời kỳ, góp phần xác lập, bảo vệ chủ quyền. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2