intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Cao Bằng

Chia sẻ: Tuhai999 Tuhai999 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

29
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn được thực hiện với mục đích xây dựng và làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về hoạt động báo chí và QLNN đối với hoạt động báo chí, vai trò và đóng góp của báo chí trong đời sống xã hội. Phân tích những kết quả đã đạt được và những tồn tại, hạn chế trong công tác QLNN đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Cao Bằng và tìm ra các nguyên nhân, đề xuất các giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Cao Bằng

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ......................./......................... .........../......... HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA MẠC TUẤN NHÃ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CAO BẰNG TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG Mã số: 8 34 04 03 HÀ NỘI - 2018
  2. Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LƯU KIẾM THANH Phản biện 1:……………………………………………. Phản biện 2:……………………………………………. Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: Phòng họp …....., Nhà...... - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Số: 77- Đường Nguyễn Chí Thanh- Quận Đống Đa - Thành phố Hà Nội Thời gian: vào hồi …… giờ …… tháng …… năm 201... Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
  3. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Báo chí là một trong những phương tiện truyền thông hữu ích, kho tư liệu mở khổng lồ, đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao dân trí. Báo chí phản ánh đầy đủ, toàn diện mọi hoạt động, các bước tiến của xã hội loài người và trở thành cầu nối giữa chính phủ, doanh nghiệp và người dân, kết nối giữa Trung ương và địa phương, trong nước và quốc tế. Sau hơn 30 năm đổi mới, cùng với kinh tế, nền báo chí cách mạng Việt Nam đã không ngừng phát triển và đạt được những thành tựu quan trọng. Báo chí đã bám sát đời sống xã hội, cung cấp những thông tin đa chiều, sâu sắc; tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước hiệu quả. Vai trò của báo chí ngày càng nâng cao trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong quá trình đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí,… góp phần vào việc bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, thực hiện dân chủ, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Để đảm bảo báo chí Việt Nam hoạt động có hiệu quả, ngày 17-10-1997, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ban hành Chỉ thị 22-CT/TW về việc tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản. Đây chính là động lực để kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa X thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí ngày 12-6-1999. Ngày 5-4-2016, tại Kỳ họp thứ 11, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật Báo chí năm 2016 và Luật có hiệu lực từ ngày 1-1-2017. Một trong những điểm mới, nổi bật được đề cập tại Luật Báo chí năm 2016 là việc khẳng định và đưa ra quy định luật pháp để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí. Điều này cho thấy, Nhà nước ta đã thể hiện sự cố gắng trong quá trình quản lý hoạt động báo chí phù hợp với điều kiện, tình hình mới. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, hoạt động báo chí bộc lộ một số bất cập, thiếu ổn định. Do xu hướng thương mại hóa, một số tờ báo có biểu hiện xa rời tôn chỉ mục đích, đối tượng phục vụ và không thực hiện đúng các quy định của nhà nước trong các vấn đề liên quan đến việc xin cấp phép xuất bản, nộp lưu chiểu ấn phẩm; thông tin được đăng tải trên một số tờ báo thiếu chính xác, chất lượng nhiều bài báo không đảm bảo; nhiều địa phương vì lý do này hoặc lý do khác đã gây cản trở hoạt động của phóng viên, cung cấp thông tin sai lệch …. Những hạn chế trên, một phần là do vấn đề quản lý báo chí chưa được thực hiện tốt và vấn đề đặt ra là phải có những giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả hoạt động này, nhất là tại các địa phương. Xuất phát từ thực tế đó, tôi đã tiến hành chọn đề tài “Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn 1
  4. tỉnh Cao Bằng” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp Cao học Quản lý Công của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Đây là một lĩnh vực đã có nhiều đề tài nghiên cứu, tiếp cận từ nhiều hướng khác nhau. Những kết quả nghiên cứu tiêu biểu có: các công trình nghiên cứu của các giáo sư, tiến sỹ, nhà báo có uy tín, kinh nghiệm thực tiễn đã được xuất bản thành sách; một số nghiên cứu về hoạt động báo chí và quản lý báo ở địa bàn một số tỉnh, thành phố và một số bài nghiên cứu đăng trên tạp chí khoa học và tham luận tại các hội thảo khoa học về báo chí. Qua nghiên cứu, tập hợp, thống kê tài liệu nhận thấy, các đề tài nghiên cứu đã giải quyết những vấn đề cơ bản là: xác định những luận điểm có tính lý luận, cơ sở quan trọng về các nội dung: đặc điểm của báo chí, nội dung và phương thức lãnh đạo, quản lý đối với các loại hình báo chí; nghiên cứu thực tiễn lãnh đạo, quản lý hoạt động báo chí ở phạm vi toàn quốc hoặc phạm vi các địa phương cấp tỉnh. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu chỉ đề cập ở mức độ khái quát chung về công tác lãnh đạo, quản lý đối với các hoạt động báo chí. Chưa có công trình nào phân tích một cách đầy đủ công tác lãnh đạo, quản lý đối với hoạt động báo chí từ góc độ quản lý xã hội. Mối quan hệ giữa các chủ thể có chức năng quản lý đối với hoạt động báo chí ở địa phương chưa được làm rõ. Đặc biệt, việc quản lý xã hội đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu sâu, đầy đủ và toàn diện với tư cách là một đề tài nghiên cứu khoa học. Bởi vậy việc lựa chọn nội dung “Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Cao Bằng” để nghiên cứu là phù hợp, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý, đảm bảo cho hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Cao Bằng hoạt động tốt hơn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn a, Mục đích Luận văn được thực hiện với mục đích xây dựng và làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về hoạt động báo chí và QLNN đối với hoạt động báo chí, vai trò và đóng góp của báo chí trong đời sống xã hội. Phân tích những kết quả đã đạt được và những tồn tại, hạn chế trong công tác QLNN đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Cao Bằng và tìm ra các nguyên nhân, đề xuất các giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế. b, Nhiệm vụ nghiên cứu - Đưa ra các luận điểm, căn cứ khoa học về mặt lý luận và thực tiễn làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về hoạt động báo chí và QLNN đối với hoạt động báo chí, vai trò và đóng góp của báo chí trong đời sống xã hội. - Phân tích các kết quả đã đạt được và những tồn tại, hạn chế trong công tác QLNN đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. 2
  5. - Xác định nguyên nhân của các kết quả đã đạt được và những tồn tại, hạn chế trong công tác QLNN đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Cao Bằng và đề xuất các giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế đó. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn a, Đối tượng nghiên cứu Là những vấn đề lý luận và thực tiễn về QLNN đối với hoạt động báo chí. b, Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: luận văn tiến hành nghiên cứu công tác QLNN đối với hoạt động báo chí địa phương. - Về không gian: địa bàn tỉnh Cao Bằng. - Về thời gian: 2013 – 2017. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn a, Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước Việt Nam về hoạt động báo chí trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. b, Phương pháp nghiên cứu: - Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp hệ thống hóa, phân tích, so sánh,... để thực hiện luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn a, Ý nghĩa lý luận Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn của việc QLNN đối với lĩnh vực báo chí, chỉ rõ những kết quả đạt được và những hạn chế, thiếu sót cũng như nguyên nhân của hạn chế, thiếu sót đó. Trên cơ sở đó đề xuất những phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm tăng cường quản lý của nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Cao Bằng trong tình hình hiện nay. b, Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo và là ý tưởng đề xuất đối với các cơ quan, tổ chức hoạt động liên quan đến lĩnh vực báo chí trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, phần chính của luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận của Quản lý Nhà nước về hoạt động báo chí. Chương 2: Thực trạng Quản lý Nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Chương 3: Giải pháp Quản lý Nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. 3
  6. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ 1.1. Khái quát về báo chí 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm 1.1.1.1. Khái niệm báo chí Luật Báo chí nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2016, Được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 05 tháng 4 năm 2016 trong phần giải thích từ ngữ “ báo chí” tại Điều 3 của Luật nêu cụ thể, rõ ràng như sau: “Báo chí là sản phẩm thông tin về các sự kiện, vấn đề trong đời sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất bản định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công chúng thông qua các loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử”. Có thể nói Điều 3 Luật Báo chí 2016 như một định nghĩa chính thức và đầy đủ về báo chí, đây được xem là căn cứ chủ yếu để tìm hiểu tất cả các nội dung liên quan đến QLNN đối với hoạt động báo chí. 1.1.1.2. Đặc điểm của báo chí Với khái niệm trên, phần nào đã cho chúng ta tiếp cận một cách khái quát về báo chí và những biểu hiện cụ thể của nó với những đặc điểm chính sau: Một là, báo chí mang tính lịch sử Hai là, báo chí mang tính quần chúng Ba là, báo chí mang tính chính trị Bốn là, báo chí mang tính kinh tế 1.1.2. Các loại hình báo chí trong giai đoạn hiện nay Căn cứ vào Luật Báo chí năm 2016 và trên cơ sở tổng hợp các nguồn tài liệu khác nhau, có thể khái quát các loại hình báo chí hiện nay như sau: 1.1.2.1. Báo in Báo in là tên gọi chung cho báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn... Báo in là loại hình báo chí ra đời sớm nhất trong trong lịch sử nhân loại. Báo in được thực hiện dưới nhiều hình thức: nhật báo, tuần báo, bán nguyệt san, nguyệt san, lưỡng nguyệt san... Riêng ở các nước phát triển thì có báo buổi sáng, báo buổi chiều, báo bình dân, báo quốc gia, báo địa phương, nhật báo đặc biệt... Mỗi loại báo in như vừa nêu có cách trình bày, nội dung phản ánh, đối tượng độc giả khác nhau, thời gian phát hành khác nhau. 1.1.2.2. Báo nói Báo nói hay còn gọi là chương trình phát thanh, truyền thanh. Đây là loại hình báo chí dựa trên nguyên tắc kỹ thuật truyền âm thanh để chuyển tải các chương trình tin tức đến đông đảo công chúng thính giả cũng như nhóm thính giả đặc thù. 4
  7. 1.1.2.3. Báo hình Báo hình là chương trình truyền hình, chương trình nghe - nhìn thời sự được thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau, phát thông tin đi xa bằng cả âm thanh và hình ảnh động. 1.1.2.4. Báo điện tử Báo điện tử là loại hình báo chí được thực hiện trên mạng thông tin máy tính, tuy mới xuất hiện trong hơn hai thập kỷ gần đây nhưng nó đang chiếm ưu thế trong cuộc cạnh tranh với báo hình, báo nói và báo viết. 1.1.3 Giá trị và vai trò của báo chí trong đời sống xã hội a. Báo chí định hướng tư tưởng, dư luận Trên mặt trận tư tưởng, báo chí giữ vai trò liên kết những thành viên riêng lẻ của xã hội thành một khối thống nhất dựa vào một lập trường chính trị chung, thái độ tích cực để xây dựng và cải tạo xã hội. Một khi nhận thức được tính ưu việt của chế độ xã hội, mục đích, hành động và kết quả phù hợp với lợi ích của mình, người dân sẽ tự nguyện thực hiện các nhiệm vụ của mình trên những điều kiện cụ thể. b. Báo chí góp phần tạo nên những phát triển về mặt kinh tế Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường như hiện hay, những thông tin chính xác, kịp thời của báo chí về: thông tin thị trường, hàng hóa, thông tin thị trường tài chính, thị trường lao động, vật tư, thiết bị, đặc biệt là thị trường công nghệ,… là sức mạnh tạo nên thắng lợi cạnh tranh. c. Báo chí làm phong phú đời sống văn hóa, tinh thần xã hội Báo chí là kênh truyền bá một cách sinh động nhất các giá trị văn hóa, tinh thần để nâng cao trình độ hiểu biết và đáp ứng nhu cầu hưởng thụ, giải trí của người dân. 1.2. Quản lý Nhà nước đối với báo chí 1.2.1. Khái niệm Quản lý Nhà nước và các nguyên tắc Quản lý Nhà nước đối với báo chí 1.2.1.1. Khái niệm quản lý - Theo giáo trình Hành chính công của Học viện Hành chính Quốc gia: quản lý là một hoạt động phức tạp và bao gồm nhiều chức năng. Hoạt động quản lý phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Các yếu tố đó tác động đến nội dung phương thức và công cụ để tiến hành quản lý. Trong đó các yếu tố cơ bản cần chú ý là: con người, chính trị, tổ chức, quyền lực, thông tin, văn hóa. - Dưới góc độ khoa học, khái niệm về “quản lý” có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Với ý nghĩa thông thường, phổ biến thì quản lý có thể hiểu là hoạt động tác động một cách có tổ chức và định hướng của chủ thể quản lý tới những đối tượng quản lý để điều chỉnh chúng vận động và phát triển theo những mục tiêu nhất định đã đề ra. Với cách hiểu này, quản lý bao gồm: Chủ thể quản lý (là tác nhân tạo ra các tác động quản lý); Đối tượng quản lý (tiếp nhận sự tác động 5
  8. của chủ thể quản lý); Mục tiêu quản lý (Là cái đích cần phải đạt tới tại một thời điểm nhất định do chủ thể quản lý đề ra). 1.2.1.2. Khái niệm Quản lý Nhà nước QLNN là một dạng quản lý chứa đựng bên trong nó nhiều kỹ năng thuộc về quản lý như mọi tổ chức khác đã vận dụng [22, tr. 12] QLNN xuất hiện cùng với sự xuất hiện của nhà nước, là quản lý công việc của Nhà nước và hoạt động QLNN thông qua hoạt động của các cơ quan thực thi quyền lập pháp [22, tr. 12-13]. 1.2.1.3. Khái niệm Quản lý Nhà nước đối với báo chí “QLNN trong lĩnh vực báo chí cũng như bất kỳ một dạng quản lý xã hội nào khác, là dạng quản lý công vụ quốc gia của bộ máy Nhà nước - là công việc của bộ máy hành pháp. Nó là sự tác động có tổ chức và được điều chỉnh bằng pháp luật, trên cơ sở quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hoạt động báo chí do các cơ quan có thẩm quyền trong hệ thống hành pháp từ Trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, thỏa mãn nhu cầu tự do báo chí của công dân”. 1.2.1.4. Các nguyên tắc Quản lý Nhà nước đối với báo chí Một là, nguyên tắc tôn trọng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận của công dân Hai là, nguyên tắc đảm bảo quyền thụ hưởng thành quả hoạt động báo chí một cách bình đẳng của tất cả công dân. Ba là, kiên quyết đấu tranh chống lợi dụng việc tôn trọng tự do báo chí, tự do ngôn luận làm trái pháp luật 1.2.2 Cơ sở pháp lý của Quản lý Nhà nước đối với báo chí Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập, Hiến pháp đầu tiên 1946 ra đời đã ghi nhận quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận của công dân. Đến Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013 đều quy định về tự do báo chí, ngôn luận; không ai được xâm phạm đến quyền này của nhân dân và cũng nghiêm cấm việc lợi dụng quyền tự do báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân. Triển khai thi hành Hiến pháp 2013, ngày 05-4-2016, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Báo chí năm 2016, có hiệu lực từ ngày 1- 1-2017, thay thế Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm 1999. Luật Báo chí 2016 gồm 6 chương với 61 điều (tăng 25 điều), trong đó có 32 điều xây dựng mới, 29 điều sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Báo chí trước đó. Luật Báo chí mới tạo hành lang pháp lý quan trọng cho sự nghiệp báo chí cách mạng nước nhà không ngừng phát triển bền vững. 1.2.3. Cơ quan Quản lý Nhà nước đối với báo chí Ở Việt Nam, việc xác định cơ quan QLNN đối với báo chí mang tính lịch sử, bởi lẽ từ khi ra đời, nước ta đã 5 lần ban hành Hiến pháp. Mỗi khi Hiến pháp mới ra đời, cơ cấu tổ chức, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan Nhà nước sẽ có những thay đổi cơ bản. Chính vì vậy mà qua mỗi thời kỳ, cơ quan 6
  9. QLNN đối với báo chí cũng có sự thay đổi cả về tên gọi lẫn phạm vi thẩm quyền quản lý. Theo quy định của Luật Báo chí 2016 các cơ quan QLNN về báo chí ở Trung ương và địa phương được quy định như sau: 1. Chính phủ thống nhất QLNN về báo chí. 2. Bộ TT-TT chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện QLNN về báo chí. 3. Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ TT-TT thực hiện QLNN về báo chí. 4. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm QLNN về báo chí tại địa phương. [28, tr.11] 1.2.4. Nội dung Quản lý Nhà nước đối với báo chí Các nội dung QLNN đối với báo chí được đề cập tại Điều 6 Luật Báo chí năm 2016. 1.2.5. Phương thức Quản lý nhà nước đối với báo chí ở cấp tỉnh 1.2.5.1. Quản lý bằng chủ trương, chính sách định hướng đường lối, cơ chế phát triển sự nghiệp báo chí Nhà nước thể hiện vai trò quản lý của mình đối với hoạt động báo chí trước hết thông qua việc định hướng đường lối, cơ chế phát triển hoạt động báo chí. Với vai trò là chủ thể lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam quản lý hoạt động báo chí bằng việc đề ra nghị quyết, chỉ thị, định hướng quy hoạch, cơ chế phát triển mạng lưới báo chí; định hướng thông qua việc xác định nội dung tuyên truyền và những nhiệm vụ mà báo chí phải thực hiện. Ở cấp tỉnh, tỉnh ủy (thành ủy) ra nghị quyết, chỉ thị về phương hướng, nhiệm vụ của các hoạt động báo chí trong từng thời kỳ cho phù hợp với nhiệm vụ chính trị và tình hình thực tiễn ở địa phương. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy (thành ủy) là cơ quan tham mưu của Tỉnh ủy trực tiếp giúp Thường trực Tỉnh ủy chỉ đạo hoạt động thông tin, báo chí, tuyên truyền. Định hướng nội dung thông tin, cung cấp thông tin và giám sát, kiểm tra về tư tưởng chính trị trong nội dung thông tin của các cơ quan báo chí địa phương. Đối với chủ thể QLNN, UBND tỉnh, thể chế hóa sự lãnh đạo của Tỉnh ủy thành chỉ thị; quy hoạch, kế hoạch phát triển dài hạn, 05 năm và hàng năm, chương trình, đề án, dự án về TT-TT, báo chí. 1.2.5.2. Quản lý bằng pháp luật Phương pháp quản lý hoạt động báo chí bằng pháp luật là phương pháp quản lý của cơ quan QLNN. Quản lý hoạt động báo chí bằng pháp luật ở nước ta là quá trình Nhà nước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động báo chí; tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật; thanh tra, kiểm tra, phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật về hoạt động báo chí. Thông qua hệ thống pháp luật, Nhà nước vừa có thể kiểm soát chặt chẽ hoạt động của báo chí, vừa bảo đảm được quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. 7
  10. Ở cấp tỉnh, việc quản lý hoạt động báo chí bằng pháp luật được thể hiện thông qua hoạt động của chủ thể QLNN về hoạt động báo chí là UBND tỉnh, mà trực tiếp là Sở TT-TT là cơ quan chủ quản. 1.2.5.3 Quản lý bằng hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát Các chủ thể quản lý xã hội, tùy theo nội dung quản lý đối với hoạt động báo chí và đặc thù về vị trí, chức năng của mình trong hệ thống chính trị có phương thức kiểm tra, giám sát riêng đối với hoạt động báo chí. Ở cấp tỉnh: Với vai trò là chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động báo chí, Tỉnh ủy, thông qua các cơ quan tham mưu của mình (Ủy ban kiểm tra, Ban Tuyên giáo, Ban Tổ chức, các đảng ủy trực thuộc, v.v…) kiểm tra, giám sát hoạt động báo chí bằng phương thức như: kiểm tra, giám sát việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện các chỉ đạo, đường lối, chủ trương của Đảng, của cấp ủy đối với hoạt động báo chí của các chủ thể quản lý khác. Đối với chủ thể QLNN, Sở TT-TT là cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về hoạt động báo chí; việc tổ chức, triển khai các quy định về QLNN đối với hoạt động báo chí trên địa bàn; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong hoạt động thông tin, báo chí, xuất bản tại địa phương theo thẩm quyền. Tổ chức thanh tra, hoặc phối hợp kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các hoạt động báo chí, việc nhập khẩu và lưu hành báo chí nước ngoài tại địa phương mình theo quy định của pháp luật. Các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp gián tiếp tham gia quản lý đối với hoạt động báo chí thông qua việc tham gia các đoàn thanh tra, kiểm tra của Tỉnh ủy (hoặc Ban Ban Tuyên giáo), UBND tỉnh (hoặc Sở TT-TT) và trực tiếp kiểm tra, giám sát các cá nhân là hội viên của tổ chức đang hoạt động trong các cơ quan báo chí. Công chúng tham gia quản lý đối với hoạt động báo chí thông qua việc thực hiện quyền công dân. 1.2.5.4 Quản lý thông qua tổ chức bộ máy, bố trí nhân lực Bằng việc xây dựng tổ chức, bộ máy và bố trí nhân lực và thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong cơ quan báo chí, tùy theo mức độ khác nhau, các chủ thể quản lý gián tiếp thể hiện vai trò quản lý của mình đối với hoạt động báo chí. 1.2.5.5 Quản lý thông qua hoạt động vận động, thuyết phục, nêu gương Tổ chức Đảng gián tiếp thực hiện vai trò quản lý của mình thông qua sự gương mẫu, nêu gương và dẫn dắt quần chúng của các đảng viên hoạt động trong các cơ quan báo chí. Tổ chức hội nghề nghiệp tham gia quản lý đối với hoạt động báo chí chủ yếu bằng việc vận động, thuyết phục hội viên chấp hành và tích cực thực hiện đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về hoạt động báo chí. 8
  11. Tiểu kết chương 1 1. Báo chí bao gồm tất cả các hình thức phổ biến thông tin: Xuất bản, radio, vô tuyến, truyền hình, internet... và ở những cấp độ khác nhau, với ý nghĩa là tất cả các phương tiện thông tin đại chúng. Ở Việt Nam có 4 loại hình báo chí chủ yếu: báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử... với những giá trị quan trọng trong đời sống xã hội khi góp phần định hướng dư luận, đóng góp cho những phát triển kinh tế và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần. 2. Ở nước ta, Nhà nước luôn thể hiện vai trò trong việc quản lý báo chí. QLNN đối với báo chí cũng như bất kỳ một dạng quản lý xã hội nào khác, là dạng quản lý công vụ quốc gia của bộ máy Nhà nước - là công việc của bộ máy hành pháp. Nó là sự tác động có tổ chức và được điều chỉnh bằng pháp luật, trên cơ sở quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hoạt động báo chí do các cơ quan có thẩm quyền trong hệ thống hành pháp từ Trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, thỏa mãn nhu cầu tự do báo chí của công dân. 3. Nhà nước quản lý đối với báo chí thể hiện trên các nội dung: Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển sự nghiệp báo chí; ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí; xây dựng chế độ, chính sách về báo chí; tổ chức thông tin cho báo chí; quản lý thông tin của báo chí; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ báo chí; tổ chức, quản lý hoạt động khoa học, công nghệ trong lĩnh vực báo chí; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động báo chí, thẻ nhà báo; quản lý hợp tác quốc tế về báo chí, quản lý hoạt động của báo chí Việt Nam liên quan đến nước ngoài và hoạt động báo chí nước ngoài tại Việt Nam; kiểm tra báo chí lưu chiêu; quản lý kho lưu chiểu báo chí trong hoạt động báo chí; thanh tra, kiểm tra, khen thưởng, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm trong hoạt động báo chí. 4. Chính phủ thống nhất QLNN đối với báo chí trên phạm vi cả nước. Bộ TT-TT là cơ quan chuyên môn chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện QLNN đối với báo chí. Ủy ban Nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện QLNN đối với báo chí trên địa bàn theo phân cấp của Chính phủ. Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CAO BẰNG 2.1. Những yếu tố tác động đến hoạt động báo chí và công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Cao Bằng 2.1.1. Điều kiện tự nhiên, hành chính, dân cư Cao Bằng có diện tích đất tự nhiên 6.703,42 km2, là cao nguyên đá vôi xen lẫn núi đất, với 3 vùng rõ rệt: Miền đông có nhiều núi đá, miền tây núi đất xen núi đá, miền tây nam phần lớn là núi đất có nhiều rừng rậm. Dân số trung bình toàn tỉnh Cao Bằng năm 2015 là 522.365 người, trong đó dân số đô thị là 9
  12. 120.846 người, dân số nông thôn là 401.519 người. Dân số tỉnh Cao Bằng tăng trung bình 0,32%/năm trong giai đoạn 2011 - 2015. Là tỉnh có trên 90% là đồng bào dân tộc thiểu số, điều kiện địa hình đồi núi phức tạp, chia cắt mạnh, dân cư phân bố phân tán, khoảng cách địa lý giữa các khu dân cư, địa bàn quản lý hành chính lớn nên việc đầu tư phát triển quản lý hoạt động thông tin, báo chí gặp phải nhiều khó khăn. 2.1.2. Tình hình kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng – an ninh Về kinh tế, trong giai đoạn 2011 – 2015, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) của tỉnh đạt bình quân 9,2%/năm, thu nhập bình quân đầu người đạt 20,8 triệu đồng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng nông lâm nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Về văn hóa – xã hội, Cao Bằng là miền đất có sự đa dạng về văn hóa, được tạo nên bởi sự đa dạng về cơ cấu thành phần dân tộc với nhiều phong tục, tập quán, lễ hội riêng có. Trong những năm qua, Cao Bằng đã quan tâm đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống,v.v… Về an ninh quốc phòng, tình hình an ninh trên tuyến biên giới của tỉnh cơ bản được ổn định; quan hệ giữa Cao Bằng (Việt Nam) và Quảng Tây (Trung Quốc) tiếp tục phát triển. An ninh nội địa, trật tự an toàn xã hội luôn được giữ vững; công tác tuyên truyền vận động nhân dân chống truyền đạo trái pháp luật trong vùng đồng bào dân tộc ít người đạt kết quả tốt. Tuy nhiên, trên tuyến biên giới có nơi, có lúc vẫn còn xảy ra những vụ việc phức tạp; tình hình truyền đạo trái pháp luật trong vùng đồng bào dân tộc ít người vẫn còn tiềm ẩn xảy ra. 2.1.3. Năng lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị Hệ thống chính trị được tổ chức đồng bộ từ tỉnh đến cấp xã là tiền đề để công tác quản lý hoạt động báo chí, truyền thông được đảm bảo liên tục, thông suốt từ trên xuống dưới; kiểm soát, quản lý toàn diện hoạt động báo chí trên địa bàn. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực của hệ thống chính trị ở Cao Bằng còn nhiều điểm chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Việc triển khai tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách, các giải pháp về phát triển báo chí và thực thi về pháp luật truyền thông, báo chí thiếu đồng bộ. 2.1.4. Hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Đến cuối năm 2017, trên địa bàn tỉnh Cao Bằng có các cơ quan báo chí và các cơ quan có hoạt động mang tính báo chí sau: 02 cơ quan báo chí địa phương là Báo Cao Bằng và Đài Phát thanh – Truyền hình Cao Bằng; 02 văn phòng đại diện cơ quan báo chí trung ương đóng trên địa bàn gồm: Báo Nhân dân, Phân xã Thông tấn xã Việt Nam; Các cơ quan có hoạt động mang tính báo chí gồm: Hội Nhà báo Cao Bằng – Đặc san Nhà báo Cao Bằng; Hội Văn học Nghệ Thuật Cao Bằng – Tạp chí Non nước Cao Bằng. Kinh phí hoạt động của các cơ quan báo chí chủ yếu là từ nguồn ngân sách nhà nước. 10
  13. Về hoạt động thông tin, trong giai đoạn 2013 đến nay, các cơ quan báo chí tại Cao Bằng đã tuân thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng thông tin của Đảng bộ và Chính quyền tỉnh; hoàn tành tốt nhiệm vụ chính trị được giao, thông tin, phản ánh khá toàn diện, sinh động thành tựu trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại và thực tiễn công cuộc xây dựng và phát triển Cao Bằng. 2.2. Thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Cao Bằng từ năm 2013 đến năm 2017 2.2.1. Quản lý sự phát triển của hoạt động báo chí 2.2.1.1. Định hướng chiến lược phát triển Tỉnh ủy đã ban hành các văn bản có tính chất định hướng cho hoạt động chỉ đạo, quản lý trên địa bàn tỉnh, như: Quy định sự phối hợp giữa Ban TGTU với Sở TT-TT, Hội Nhà báo và các cơ quan Đảng, Nhà nước trong công tác chỉ đạo, quản lý báo chí; Quy định về chỉ đạo, định hướng chính trị, tư tưởng, nhất là đối với những vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm trong nội dung thông tin của báo chí,... 2.2.1.2. Thể chế hóa đường lối phát triển, xây dựng, ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động báo chí Những định hướng phát triển báo chí của Tỉnh ủy đã được HĐND, UBND tỉnh thể chế hóa thành các chương trình, kế hoạch phát triển hoạt động báo chí cụ thể. Theo thẩm quyền được phân cấp, UBND tỉnh đã sớm ban hành hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động báo chí, truyền thông trên địa bàn; củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, nguồn lực thực hiện chức năng quản lý hoạt động báo chí theo cấp hành chính. Bên cạnh những kết quả tích cực công tác ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí, xây dựng chế độ, chính sách về báo chí trong tổ chức thực hiện còn chung chung, chưa sát với tỉnh hình địa phương và chưa đầy đủ. Điển hình như việc xây dựng Quy định mức chi trả nhuận bút trong lĩnh vực báo chí trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, sau hơn hai năm dự thảo mới được ban hành nhưng không có nguồn kinh phí thực hiện. 2.2.1.3. Quản lý hoạt động của các cơ quan báo chí trên địa bàn tỉnh Cao Bằng Sở TT-TT tỉnh Cao Bằng, cơ quan tham mưu, giúp việc cho UBND tỉnh trong QLNN đối với hoạt động báo chí ở địa phương, đã tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý báo chí ở địa phương; hướng dẫn các cơ quan báo chí, nhà báo thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí; thực hiện tốt việc quản lý hoạt động của văn phòng đại diện và phóng viên thường trú của báo chí Trung ương và địa phương khác trên địa bàn; thực hiện nghiêm túc việc cấp phép, quản lý hoạt động của các bản tin, trang thông tin điện tử, cấp phép và quản lý các cuộc họp báo của các cơ quan, tổ chức trên địa bàn. Các cơ quan chủ quản báo chí tại địa phương đã quan tâm quản lý hoạt động của các cơ quan báo chí trực thuộc. Ngoài việc đảm bảo kinh phí cho hoạt 11
  14. động của các cơ quan báo chí, các cơ quan chủ quản thường xuyên theo dõi, giám sát hoạt động của cơ quan báo chí thông qua nhiều phương thức quản lý khác nhau. 2.2.2. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với hoạt động báo chí Từ năm 2013 – 2017, Tỉnh ủy đã tổ chức 01 cuộc kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nội dung, tôn chỉ mục đích hoạt động của Báo Cao Bằng. Đối với chủ thể có chức năng QLNN, Sở TT – TT đã triển khai các hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật theo thẩm quyền. Cụ thể là các hoạt động: kiểm tra báo chí, xuất bản phẩm lưu chiểu và quản lý báo chí, xuất bản phẩm lưu chiểu của địa phương; kiểm tra và xử lý theo thẩm quyền khi phát hiện xuất bản phẩm lưu chiểu có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Đánh giá tổng quát, hiệu quả quản lý hoạt động báo chí chưa được như mong muốn. Các chủ thể quản lý ở tỉnh chưa kiểm soát hết hoạt động của các đối tượng có hoạt động báo chí, truyền thông trên địa bàn. Việc xử lý các vụ việc vi phạm chủ yếu dừng lại ở mức nhắc nhở, mặc dù những vi phạm này đều đã được định khung mức xử lý tại Nghị định số 159/2013/NĐ-CP, ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ, Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí xuất bản. Điểm hạn chế lớn nhất là các cơ quan báo chí ở Trung ương và ngoài tỉnh chưa nghiêm túc trong việc xử lý các sai phạm theo quy định của pháp luật. Khá phổ biến tình trạng không có phản hồi, không thực hiện việc cải chính khi các cơ quan chức năng có văn bản đề nghị cải chính, xử lý vi phạm. 2.2.3. Cung cấp thông tin, quản lý báo chí Từ năm 2013, UBND tỉnh Cao Bằng có văn bản ủy quyền cho Sở TT – TT thực hiện việc yêu cầu các địa phương, đơn vị, các sở ngành cung cấp thông tin, phản hồi các vấn đề báo chí đưa tin, phản ánh trong tháng. Qua đó, cấp ủy, chính quyền một số địa phương, lãnh đạo một số sở, ban, ngành các cấp bước đầu đã chủ động cung cấp thông tin cho báo chí; quan tâm hơn đến việc xử lý và phản hồi thông tin theo quy định của Luật báo chí khi có yêu cầu của Sở TT-TT, Ban TGTU. Nội dung quản lý thông tin báo chí được chú trọng, chất lượng đánh giá các hoạt động báo chí ngày càng được nâng cao. Sở TT – TT đã phối hợp chặt chẽ trong kiểm soát nội dung thông tin trên báo chí đề cập đến tình hình tỉnh Cao Bằng. Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động cung cấp, định hướng thông tin vẫn còn một số bất cập. Chất lượng hoạt động giao ban báo chí tuy đã được nâng cao nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới, một số nội dung hạn chế chậm được khắc phục. Thời gian tổ chức giao ban báo chí tháng/quý có lúc còn chậm, không đảm bảo tính chỉ đạo, định hướng tuyên truyền cho tháng tiếp theo. Thành phần tham gia họp báo chưa đúng, hoặc thiếu đầy đủ. Trong một số thời điểm việc định hướng chưa cụ thể, thậm chí bỏ sót sự kiện. 2.2.4. Quản lý về tổ chức bộ máy, nhân sự lãnh đạo các cơ quan báo chí 12
  15. Công tác cán bộ được thực hiện khá tốt, từ việc đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bổ nhiệm, tuyển dụng được các cơ quan báo chí thực hiện theo đúng các quy định đã ban hành của Chính phủ, Ban Tổ chức Trung ương, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, UBND tỉnh và Ban Tổ chức Tỉnh uỷ. Đối với việc bổ nhiệm, miễn nhiệm lãnh đạo các cơ quan báo chí địa phương. Trong những năm qua việc miễn nhiệm, lựa chọn nhân sự bổ nhiệm vào các chức danh tổng biên tập, phó tổng biên tập Báo Cao Bằng, Tạp chí Non nước Cao Bằng; Giám đốc, Phó Giám đốc Đài PT-TH Cao Bằng được thực hiện đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện và trực tiếp hoạt động báo chí và công tác tổ chức trong cơ quan báo chí. Nhân sự được chọn bổ nhiệm đều là người có kinh nghiệm trong hoạt động báo chí, đáp ứng đủ điều kiện về trình độ chuyên môn theo quy định của Luật báo chí; phẩm chất chính trị, trình độ lý luận chính trị theo quy định của Đảng. Tuy nhiên, còn có điểm hạn chế là, trong một số trường hợp chưa thực hiện đúng quy trình bổ nhiệm theo quy định 75- QĐ/TW ngày 21/8/2007 của Ban Bí thư và Luật Báo chí. Cụ thể là chỉ thực hiện quy trình thông qua Thường trực Tỉnh ủy, UBND tỉnh, chưa thỏa thuận bằng văn bản với Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ TT-TT. 2.2.5. Quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Trong 5 năm 2013 -2017, Hội Nhà báo tỉnh chủ trì, phối hợp với các cơ quan báo chí tổ chức được 9 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho hơn 300 lượt phóng viên, biên tập viên tham dự; 4 hội thảo chuyên đề về nghiệp vụ hoạt động báo chí. Tuy nhiên, mặt hạn chế là, việc đào tạo, bồi dưỡng tuy có tăng về số lượng, nhưng chưa thật gắn với thực tiễn, còn nặng về lý thuyết, thiếu, yếu về kỹ năng tác nghiệp. Đội ngũ những người làm công tác chỉ đạo, quản lý báo chí chưa được bồi dưỡng, cập nhật kiến thức về các xu hướng phát triển mới của hoạt động báo chí và kiến thức về các loại hình báo chí mới xuất hiện, nhất là báo điện tử, truyền thông trên mạng xã hội, v.v… Ở một chừng mực nào đó, có thể nói nội dung chỉ đạo, quản lý sự phát triển của báo chí đang đi sau sự phát triển của hoạt động báo chí. 2.2.6. Quản lý tài chính trong hoạt động của các cơ quan báo chí Nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước có ý nghĩa quyết định đối với hoạt động báo chí, truyền thông của tỉnh. Cơ chế, chính sách về tài chính cho hoạt động báo chí được chú trọng. Tháng 12 năm 2017, UBND tỉnh Cao Bằng đã ban hành Quyết định số 31/2017/QĐ- UBND, Quy định mức chi trả nhuận bút trong lĩnh vực báo chí trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, thay thế cho Quyết định 770/QĐ-UBND được áp dụng trước đó có hệ số chi trả thấp hơn. Nhằm khắc phục tình trạng bao cấp nguồn chi, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan báo chí ở địa phương xây dựng phương án tự chủ theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP, ngày 25/4/2006 của Chính phủ thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Cho phép trích 20% từ hoạt động dịch vụ bổ sung cho hoạt động chung của đơn vị. Việc kiểm 13
  16. tra hoạt động tài chính của các cơ quan báo chí được tiến hành thường xuyên, đảm bảo nguồn chi từ ngân sách nhà nước phát huy đúng hiệu quả mục đích. 2.3. Những vấn đề đặt ra trong quản lý hoạt động báo chí ở tỉnh Cao Bằng hiện nay 2.3.1. Nhận thức về vai trò của báo chí và sự cần thiết quản lý, định hướng hoạt động báo chí Quá trình nghiên cứu cho thấy, một bộ phận cán bộ lãnh đạo cấp ủy, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở nhận thức đơn thuần các cơ quan báo chí, phương tiện truyền thông đại chúng chỉ là “công cụ” thông tin, tuyên truyền mà chưa nhìn nhận tác động đa chiều của báo chí trong tình hình hiện nay và xem nhẹ vai trò giám sát, phản biện, cung cấp thông tin, coi nhẹ vai trò “là tiếng nói của nhân dân” của báo chí. Chính vì vậy, nội dung, phương thức lãnh đạo, quản lý báo chí chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng, bất cập; chưa có các quyết sách cơ bản, lâu dài; có biểu hiện vừa buông lỏng, hữu khuynh, vừa áp đặt, khiên cưỡng. Trong nhiều trường hợp lãnh đạo cấp ủy, chính quyền các cấp; lãnh đạo các sở, ngành chưa thực sự “mặn mà” với báo chí. Một dẫn chứng điển hình là: trong hầu hết các cuộc giao ban báo chí không có sự tham dự của lãnh đạo UBND tỉnh, thậm chí của Văn phòng UBND tỉnh – với tư cách là cơ quan giúp việc trực tiếp của UBND tỉnh. Đây chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng thiếu quan tâm, đầu tư cho hệ thống các phương tiện phục vụ cho hoạt động báo chí và hoạt động báo chí. Quá trình phát triển và tích hợp kỹ thuật - công nghệ truyền thông đang đặt ra vấn đề thay đổi tư duy, phương pháp tư duy, quy trình sáng tạo và mô thức làm nghề; đồng thời đang là lực đẩy buộc phải thay đổi tư duy chính trị và cách thức ứng xử với báo chí - truyền thông không phải như với những thập niên trước. [16, tr. 23] 2.3.2. Vấn đề định hướng nội dung, quản lý nội dung thông tin báo chí Thực tế, báo chí chính thống đang dần bỏ rơi trận địa thông tin mà Đảng và nhân dân cần, “nhường” thị phần cho mạng xã hội và các luồng thông tin không như mong đợi. Đây là vấn đề mà các nhà lãnh đạo, quản lý cần suy nghĩ. Việc quản lý nội dung đối với một số trang thông tin điện tử bị buông lỏng. Một số sở, ngành, địa phương thiết lập trang thông tin điện tử với đầy đủ ban biên tập, quy chế hoạt động, nhưng không được cập nhật thông tin. Chất lượng nội dung thông tin của các bản tin, tập san còn yếu. Còn trùng lặp với báo chí địa phương và các tạp chí chuyên ngành của Trung ương, chưa làm tròn yêu cầu, mục đích cung cấp thông tin, hướng dẫn nghiệp vụ chuyên sâu gắn với thực tiễn thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của cơ quan, tổ chức. Vấn đề đặt ra là cần có sự thay đổi trong nhận thức về cung cấp, quản lý thông tin báo chí. Các chủ thể lãnh đạo, quản lý, cơ quan công quyền phải chủ động cung cấp thông tin cho báo chí; nhận thức đầy đủ và có kỹ năng xử lý khủng hoảng truyền thông. Cơ quan báo chí, đặc biệt là cơ quan báo chí địa phương phải thực sự chiếm lĩnh, chi phối thông tin, định hướng thông tin cho công chúng. 14
  17. 2.3.3. Về quản lý các nguồn lực cho sự phát triển hoạt động báo chí Quản lý các nguồn lực cho sự phát triển báo chí trước hết là nguồn lực về con người. Xu hướng phát triển mạnh mẽ của báo chí hiện nay, đặc biệt là xu hướng phát triển truyền thông hội tụ và sự phát triển mạnh mẽ của các hình thức truyền thông xã hội, đòi hỏi phải có sự thay đổi tương thích về trình độ chuyên môn, năng lực lãnh đạo và quản lý. Đây chính là điểm yếu ở tỉnh vùng cao biên giới Cao Bằng. Thứ hai là vấn đề về nguồn lực phát triển hệ thống cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ cho hoạt động báo chí mặc dù đã được quan tâm nhưng vẫn còn rất thiếu. 2.3.4. Vấn đề kiểm soát, xử lý các sai phạm trong hoạt động báo chí Phương thức kiểm soát thông tin của Ban TGTU, Sở TT-TT theo hình thức điểm tin, tổng hợp thông tin từ các phương tiện truyền thông đã không còn phù hợp. Những thay đổi về công nghệ truyền thông mở ra các khả năng khiến việc sản xuất, phát hành sản phẩm báo chí, truyền thông ngày càng nhanh, dễ dàng, và các phương thức quản lý hiện có không bao quát hết được. Với khối lượng thông tin khổng lồ, và các loại hình truyền thông đa dạng như hiện nay, việc vài ba con người, trong một ngày, thực hiện việc kiểm soát thông tin bằng hình thức ngồi điểm từng tờ báo, đọc từng trang thông tin điện tử, hay ngồi nghe, xem các kênh truyền thanh – truyền hình là không tưởng, nếu không có công cụ hỗ trợ. Bởi vậy cần phải có một phương thức kiểm soát hoạt động báo chí mới, đảm bảo được sự bao quát về thông tin và quản lý thông tin. Thứ hai là, vấn đề kiểm soát hoạt động báo chí và xử lý các sai phạm về nội dung thông tin, về việc mượn danh hoạt động báo chí để trục lợi cá nhân của phóng viên các cơ quan báo chí trung ương và ngoài tỉnh trên địa bàn. Thứ ba là, ngăn chặn, phòng ngừa các sai phạm trong hoạt động báo chí và xử lý hiện tượng “khủng hoảng truyền thông”. 2.3.5. Về mối quan hệ giữa các chủ thể có chức năng quản lý hoạt động báo chí Đánh giá ở mức độ tổng quát, một trong những nguyên nhân cơ bản để tạo nên những kết quả khả quan trong công tác quản lý các hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Cao Bằng trong những năm qua là do có sự phối hợp trong công tác lãnh đạo, quản lý giữa các chủ thể quản lý đối với hoạt động báo chí . Đó là mối quan hệ giữa Ban TGTU, Sở TT-TT, Hội Nhà báo; là mối quan hệ giữa ba cơ quan, tổ chức nói trên với các cơ quan chủ quản báo chí. Tuy nhiên, trong quá trình phối hợp cũng nảy sinh những vấn đề cần phải giải quyết. Trước hết là sự phối hợp giữa Ban TGTU, Sở TT-TT, Hội Nhà báo trong hoạt động giao ban báo chí. Giao ban báo chí là hoạt động được duy trì thường xuyên, liên tục trong những năm qua, hiệu quả tác động của nó đối với hoạt động báo chí đã được khẳng định. Nhưng sự phối kết hợp giữa Ban TGTU và Sở TT-TT chưa thực sự chặt chẽ, chưa có hiệu quả cao. Thể hiện rõ nhất qua việc còn có nhiều ý kiến bất đồng trong việc xác định cơ quan chủ trì giao ban báo chí hàng tháng, hàng quý. Nội dung trình bày, định hướng thông tin tại cuộc giao ban còn trùng lặp. Vai trò của Hội nhà báo trong hoạt động giao ban còn mờ nhạt. 15
  18. Thứ hai là, hoạt động phối hợp cung cấp thông tin, phát hiện và xử lý các vấn đề phát sinh trong các loại hình hoạt động báo chí chưa chặt chẽ, thiếu quy định phối hợp. Thứ ba là, mối quan hệ giữa Ban TGTU, Sở TT-TT với cơ quan chủ quản báo chí trong công tác chỉ đạo, quản lý báo chí còn chưa chặt chẽ, thiếu thường xuyên; nhận thức về vai trò QLNN ở địa phương còn chưa đúng quy định của pháp luật. Thứ tư là mối quan hệ giữa các chủ thể có chức năng quản lý hoạt động báo chí ở địa phương với các cơ quan chủ quản, cơ quan quản lý các hoạt động báo chí ở trung ương và ngoài tỉnh. Tiểu kết chương 2 Nội dung chương 2 đánh giá các yếu tố tác động đến quá trình quản lý đối với hoạt động báo chí ở Cao Bằng, phân tích thực trạng hoạt động QLNN với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Cao Bằng trên sáu nội dung quản lý của các chủ thể: quản lý sự phát triển của các hoạt động báo chí; kết quả kiểm soát hoạt động báo chí; quản lý thông tin, cung cấp thông tin cho hoạt động báo chí; quản lý về tổ chức bộ máy và công tác đào tạo, bồi dưỡng; quản lý tài chính trong hoạt động của các cơ quan báo chí; hoạt động quản lý của các cơ quan chủ quản, cơ quan báo chí. Kết quả tổng hợp, phân tích cho thấy: đánh giá tổng quan, trong giai đoạn 2013 – 2017, các chủ thể quản lý đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Cao Bằng đã cơ bản thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được giao. Chất lượng, hiệu quả quản lý được từng bước đổi mới. Công tác quản lý đã đảm bảo môi trường thuận lợi cho các loại hình báo chí trên địa bàn tỉnh hoạt động và từng bước phát triển phù hợp với xu hướng chung. Tuy nhiên, quá trình quản lý cũng còn những hạn chế, thiếu xót nhất định. Trên cơ sở phân tích thực trạng, Đề tài đã xác định năm nhóm vấn đề đặt ra đối với công tác quản lý hoạt động Báo chí trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, đó là: Nhận thức về vai trò của báo chí và sự cần thiết quản lý, định hướng hoạt động báo chí; Vấn đề định hướng nội dung, quản lý nội dung thông tin; Về quản lý các nguồn lực cho sự phát triển hoạt động báo chí; Vấn đề kiểm soát, xử lý các sai phạm trong hoạt động báo chí; Về mối quan hệ giữa các chủ thể có chức năng quản lý hoạt động báo chí. Đây là những vấn đề mà thực tiễn quản lý hoạt động báo chí đặt ra, đòi hỏi phải có những giải pháp xử lý. Chương 3 GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CAO BẰNG 3.1. Sự cần thiết phải đổi mới Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Cao Bằng 3.1.1 Sự phát triển của kinh tế xã hội 3.1.2 Sự phát triển vượt bậc của báo chí trong nước và thế giới 16
  19. 3.1.3 Những yếu kém trong hoạt động Quản lý nhà nước đối với hệ thống báo chí tỉnh Cao Bằng 3.2 Yêu cầu của đổi mới đối với Quản lý nhà nước về báo chí địa phương Thứ nhất, QLNN về báo chí phải bảo đảm được quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được thông tin của người dân theo quy định tại Hiến pháp cũng như Luật Báo chí. Xã hội càng phát triển, quyền con người càng được nâng cao thì cơ quan quản lý càng phải chú trọng nội dung quan trọng này. Thứ hai, dù đổi mới như thế nào thì cũng luôn phải quản triệt nguyên tắc QLNN về báo chí đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, quản lý của Nhà nước và trong khuôn khổ của pháp luật. Có như vậy mới bảo đảm báo chí Việt Nam nói chung hay báo chí địa phương nói riêng hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, không xa rời quần chúng nhân dân. Thứ ba, Đổi mới QLNN về báo chí phải đi đôi với quản lý chặt chẽ và hiệu quả, đặc biệt là trong tình hình mới hiện nay, xã hội có những biến động đáng kể, đặt ra những yêu cầu mới cho hoạt động báo chí. Tuy nhiên, trước những tác động của cơ chế thị trường, hoạt động báo chí luôn đối mặt với nguy cơ tự phát. Do vậy, lãnh đạo, quản lý báo chí phải đặc biệt quan tâm đến những đặc điểm của tình hình mới phòng ngừa hạn chế và tiêu cực. Bên cạnh đó, cũng cần tạo một môi trường tương đối cởi mở và thông thoáng để báo chí phát triển, bởi hoạt động báo chí là hoạt động sáng tạo văn hóa tinh thần. Thứ tư, Đổi mới QLNN về báo chí sao cho bắt kịp trình độ phát triển của khoa học, kỹ thuật và truyền thông, bản thân sự quản lý phải chứa đựng hàm lượng khoa học công nghệ cao, đội ngũ cán bộ quản lý phải hiểu được để từ đó trong quá trình quản lý đưa ra những định hướng chiến lược, văn bản quản lý trong khuôn khổ pháp luật và đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật và công nghệ truyền thông. Thứ năm, Đổi mới QLNN về báo chí vừa phải phù hợp với sự vận hành của cơ chế thị trường, đáp ứng được các điều kiện yêu cầu của thị hiếu người đọc, có như vậy mới mong báo chí mở rộng được thị trường của mình, nhưng không vì thế mà buông lỏng để báo chí phát triển một cách tự do, chạy theo xu hướng thương mại hóa, để đồng tiền làm lũng đoạn, chi phối. 3.3. Phương hướng Quản lý nhà nước về hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Cao Bằng trong thời gian tới Một là, kiên quyết, kiên trì thực hiện nguyên tắc hoạt động báo chí phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật Việt Nam. Hai là, đổi mới tư duy, phương thức quản lý tương ứng xu thế phát triển báo chí; quản lý đi đôi với phát triển sự nghiệp báo chí. Ba là, tăng cường quản lý thông tin, chủ động cung cấp thông tin cho báo chí. 17
  20. Bốn là, tăng cường các nguồn lực đầu tư cho các cơ quan báo chí; phát triển các loại hình báo chí phù hợp với xu thế phát triển của truyền thông thế giới, phục vụ đắc lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân. 3.4. Giải pháp Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Cao Bằng 3.4.1. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức về báo chí và quản lý hoạt động báo chí Trước hết, các chủ thể quản lý cần nhận thức sâu sắc những nét mới của đời sống truyền thông hiện đại, nhất là quá trình toàn cầu hóa truyền thông và sự “bùng nổ” của các phương tiện truyền thông trên Internet; trên cơ sở đó, đổi mới tư duy về báo chí theo hướng khẳng định tính đa dạng, đa chiều của thông tin và sự cần thiết phải thích ứng với môi trường thông tin mở hiện nay. Ở tầm vĩ mô, cần xác định chính xác đối tượng chỉ đạo, quản lý của các chủ thể QLNN đối với hoạt động truyền thông là “các hoạt động báo chí”. Thứ hai là, (1) thông tin báo chí phục vụ công tác tuyên truyền, phổ biến, xây dựng đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; (2) thông tin báo chí phản ảnh tình hình triển khai thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; (3) thông tin báo chí phục vụ công tác kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội, phản ảnh nhũng yếu kém trong QLNN, những hiện tượng tiêu cực trong xã hội, giúp các cơ quan lãnh đạo, quản lý điều chỉnh chủ trương, chính sách và có biện pháp giải quyết kịp thời; (4) thông tin báo chí cảnh báo, dự báo những vấn đề có thể xảy ra để cơ quan QLNN chủ động có biện pháp đối phó, xử lý phù hợp; (5) thông tin báo chí phục vụ công tác đấu tranh với các hành vi quan liêu, tham nhũng, lãng phí, lợi dụng chức vụ quyền hạn, coi thường pháp luật của các cơ quan, cá nhân lãnh đạo, quản lý; (6) thông tin báo chí phản ánh tình hình thế giới, thực trạng hội nhập quốc tế của Việt Nam, giúp các cơ quan quản lý, doanh nghiệp có giải pháp thích hợp. Cần thấy rõ vai trò của báo chí để sử dụng trong quá trình lãnh đạo, quản lý, khắc phục tình trạng xem báo chí, nhất là Báo Đảng và Đài PT-TH địa phương đơn thuần chỉ là “công cụ tuyên truyền”, áp đặt thông tin, hoặc ngăn cản việc đưa thông tin về những hạn chế, tồn tại trong quá trình lãnh đạo, quản lý. Thứ ba là, cần nhận thức quản lý báo chí là quản lý phát triển trong quá trình ban hành các quyết định quản lý đối với hoạt động báo chí. Lãnh đạo, quản lý đi đôi với phát triển hệ thống báo chí. Cần “rũ bỏ” tư duy quản lý báo chí là kiểu quản lý “cai trị” hoạt động báo chí trong những khuôn khổ đã định hình; là quản lý trong trạng thái tĩnh. Phát triển là một quá trình chứ không phải là một chương trình, và là một quá trình không giới hạn. Và việc quản lý phát triển phải hướng đến mục tiêu tạo điều kiện, môi trường cho đối tượng quản lý thay đổi hoạt động của mình theo hướng tốt tiến bộ, phục vụ cho sự phát triển xã hội; các quyết định, nội dung quản lý phải có tính năng động cao, thích ứng với xu 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2