intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk

Chia sẻ: Hinh Duyệt | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

43
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về thi đua khen thưởng, kết hợp với lý thuyết và thực tiễn của quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng ở cấp huyện thuộc tỉnh Đắk Lắk, cụ thể tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA LÊ THỊ LIÊN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG TẠI THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 60 34 04 03 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG ĐẮK LẮK, NĂM 2017
  2. Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Đăng Quế Phản biện 1: TS. Trịnh Thanh Hà ……………………………………….. ……………………………………………………………….. Phản biện 2: TS. Nguyễn Thanh Nam …………………………………… ……………………………………………………………….. Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: Phòng số 03, Nhà ...... - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia - Phân viện khu vực Tây Nguyên Số: 51 - Đường Phạm Văn Đồng - Thành phố Buôn Ma Thuột - tỉnh Đắk Lắk Thời gian: vào hồi 14 giờ 30 ngày 27 tháng 5 năm 2017
  3. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài luận văn Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất”. Vì vậy, lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chủ trương lấy thi đua làm động lực để phát huy tinh thần yêu nước, qua phong trào thi đua để bồi dưỡng, nâng cao lòng yêu nước, biến lòng yêu nước thành sức mạnh vật chất và tinh thần trong lao động sản xuất, trong huấn luyện chiến đấu bảo vệ Tổ quốc; đồng thời lấy lòng yêu nước để thúc đẩy thi đua và nâng cao hiệu quả của công tác thi đua. Người viết: “Thi đua ái quốc là ích lợi cho mình, ích lợi cho gia đình mình và ích lợi cho làng, cho nước và cho dân tộc”, “Thi đua, khen thưởng là động lực phát triển và là biện pháp quan trọng để xây dựng con người mới. Thi đua yêu nước phải được tiến hành thường xuyên, liên tục hàng ngày” và công việc hàng ngày chính là nội dung thiết thực của thi đua; ở bất kỳ lĩnh vực nào, thời điểm nào cũng đều có sự đóng góp quan trọng của thi đua, khen thưởng. Vai trò quan trọng của thi đua, khen thưởng là không thể thiếu nhằm góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước cũng như nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh của tỉnh Đắk Lắk nói chung và thị xã Buôn Hồ nói riêng. Tuy nhiên, công tác thi đua, khen thưởng thời gian qua vẫn còn những hạn chế nhất định; để thi đua, khen thưởng luôn phát huy hiệu quả cao nhất trong mọi lĩnh vực, mọi thời điểm thì công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng cũng cần được nghiên cứu thường xuyên nhằm sửa đổi, bổ sung các quy định cho phù hợp với tình hình thực tế và việc xây dựng các phong trào thi đua phải gắn với nhiệm vụ cụ thể của từng lĩnh vực, từng thời kỳ. Vì vậy, tôi xin mạnh dạn lựa chọn đề tài “Quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk”. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Hiện nay, đã có nhiều đề tài khoa học nghiên cứu về thi đua, khen thưởng như: - Trần Thị Hà (2013), Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới thi đua, khen thưởng trong giai đoạn hiện nay, Đề tài độc lập cấp Nhà nước. - ThS. Nguyễn Thị Phương Lan (2016), Cơ sở khoa học xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen thưởng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ. - Đỗ Thúy Phượng (2010), Hoàn thiện pháp luật về thi đua, khen thưởng ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật. - Lê Xuân Khánh (2010), Quản lý Nhà nước về thi đua, khen thưởng giai đoạn 2011-2020, Luận văn Thạc sĩ Quản lý công. Nhìn chung, các công trình khoa học nói trên đã đề cập đến thi đua, khen thưởng ở nhiều góc độ. Tuy nhiên các công trình này hầu hết đều nghiên cứu ở cấp Trung ương hoặc cấp tỉnh chứ chưa tập trung nghiên cứu ở cấp huyện và cấp xã. Đặc biệt, chưa có bất kỳ đề tài nghiên cứu nào đề cập đến quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk. Vì vậy, đề tài này là một đề tài không trùng lặp, mang tính đặc thù riêng, chưa có đề tài khoa học nào nghiên cứu. 1
  4. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Nghiên cứu, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tại thị xã Buôn Hồ; nêu ra những vấn đề còn tồn tại, hạn chế; từ đó đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác này tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk. 3.2. Nhiệm vụ Đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau: Hệ thống cơ sở khoa học quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở cấp huyện; Đánh giá, phân tích thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tại thị xã Buôn Hồ; Đưa ra các đề xuất, kiến nghị. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk. - Về thời gian: Từ khi thành lập thị xã Buôn Hồ đến nay (2009-2016). - Về loại hình khen thưởng: Khen thưởng theo công trạng và thành tích đạt được. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Phương pháp luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về thi đua khen thưởng, kết hợp với lý thuyết và thực tiễn quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng ở cấp huyện thuộc tỉnh Đắk Lắk, cụ thể tại thị xã Buôn Hồ hiện nay. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp được tác giả sử dụng trong đề tài gồm: Phương pháp nghiên cứu tài liệu; Phương pháp quan sát, thu thập số liệu; Phương pháp thống kê; Phương pháp tổng hợp, phân tích. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Làm cơ sở để nghiên cứu sâu hơn về chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước hiện hành về thi đua, khen thưởng; là tài liệu giúp cơ quan thi đua, khen thưởng ở địa phương tham khảo để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk. 7. Kết cấu của luận văn Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng. Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk. Chương 3: Quan điểm, định hướng và giải pháp quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk. 2
  5. Chƣơng 1: CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG 1.1. Khái niệm về thi đua, khen thƣởng 1.1.1. Khái niệm thi đua Các Mác đã đưa ra quan niệm về thi đua “Thi đua nảy nở trong quá trình hợp tác lao động, trong hoạt động chung và kế hoạch của con người với sự tiếp xúc xã hội tạo nên thi đua và sự nâng cao theo lối đặc biệt, nghị lực sinh động làm tăng thêm nghị lực riêng cho từng người”. Thi đua xã hội chủ nghĩa trong quan điểm của V.I. Lênin là một hình thức hợp tác giữa người với người, góp phần phát triển năng lực của con người, phát triển tính chủ động sáng tạo của nhân dân lao động và của chế độ dân chủ trong xã hội mới. Vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về thi đua, thi đua xã hội chủ nghĩa vào hoàn cảnh nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng quan niệm về thi đua lên tầm tư tưởng, đường lối chính trị và phương pháp cách mạng. Người coi tổ chức thi đua yêu nước là cách tốt nhất để khơi dậy lòng yêu nước tiềm tàng trong mỗi người dân Việt Nam, biến nó thành sức mạnh, thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội cũng như trong bảo vệ Tổ quốc. Nhà nước ta ghi nhận tính tất yếu của công tác thi đua trong thời kỳ đổi mới đất nước bằng việc xây dựng và thông qua Luật Thi đua – Khen thưởng; trong đó chỉ rõ “Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện của các cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. 1.1.2. Khái niệm khen thưởng Khen là sự nhận xét đánh giá tốt về một con người nào đó, một tổ chức nào đó, về cái gì, việc gì đó với ý nghĩa hài lòng. Thưởng là tặng cho bằng hiện vật hoặc tiền ... Khen thưởng là hình thức ghi nhận công lao, thành tích của Nhà nước bằng quyết định của cơ quan có thẩm quyền do luật định. Như vậy, khen thưởng là một vấn đề thuộc phạm trù khoa học xã hội. Khen thưởng và trừng phạt được hình thành phát sinh và tồn tại trong quá trình phát triển của con người là vấn đề thuộc tâm lý xã hội, sinh hoạt tinh thần của con người, do đó khen thưởng phải thể hiện quan điểm quần chúng, phải có trách nhiệm cao trong quá trình phát hiện xét khen thưởng. Khen thưởng tồn tại cùng với sự tồn tại của Nhà nước. Còn Nhà nước là còn khen thưởng. Khen thưởng vừa có ý nghĩa động viên về tinh thần và khích lệ bằng vật chất. Luật thi đua, khen thưởng đã nêu rõ “Khen thưởng là việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. 1.1.3. Mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng Thi đua và khen thưởng quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung hỗ trợ cho nhau, tác động biện chứng lẫn nhau. Đó là hai mặt của một vấn đề, là hai thành tố hữu cơ của một quá trình đem đến một hiệu quả chung. 3
  6. Thi đua là động lực thúc đẩy mọi tầng lớp nhân dân phát huy tinh thần sáng tạo, nổ lực vượt mọi khó khăn vươn lên hoàn thành các mục tiêu đề ra. Từ kết quả tổng kết thi đua mà lựa chọn tập thể và cá nhân xứng đáng để khen thưởng. Khen thưởng chính là việc đánh giá kết quả phong trào thi đua. Thi đua là cơ sở của khen thưởng, nếu tổ chức tốt phong trào thi đua thì kết quả khen thưởng cao. Ngược lại, khen thưởng đúng người, đúng việc, kịp thời sẽ có tác dụng động viên, cổ vũ cho thi đua. Khen thưởng vừa là kết quả, vừa là yếu tố thúc đẩy phong trào thi đua phát triển. Bác Hồ khái quát bản chất của mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng là “thi đua là gieo trồng, khen thưởng là thu hoạch”. Tuy nhiên, trong thực tế có những hình thức khen thưởng không phản ánh kết quả trực tiếp từ phong trào thi đua như: Khen thưởng tổng kết thành tích kháng chiến, khen thưởng người có quá trình cống hiến lâu dài trong cơ quan, tổ chức, đoàn thể ...; khen thưởng đối với những cá nhân tổ chức trong nước và ngoài nước có công lao, đóng góp cho xã hội, cho Việt Nam trong quá trình hội nhập, phát triển kinh tế, những cá nhân dũng cảm cứu người, tài sản của nhà nước, của tập thể, của công dân ... song việc khen thưởng này cũng có quan hệ nhất định đối với thi đua, cũng bị ảnh hưởng nhất định từ phong trào thi đua, từ truyền thống thi đua yêu nước của dân tộc. 1.2. Mục đích, yêu cầu và vai trò của thi đua, khen thƣởng 1.2.1. Mục đích, yêu cầu của thi đua, khen thưởng Mục đích của việc thi đua, khen thưởng là “nhằm tạo động lực động viên, lôi cuốn, khuyến khích mọi cá nhân, tập thể phát huy truyền thống yêu nước, năng động, sáng tạo vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Công tác khen thưởng phải bảo đảm chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch. Khen thưởng bảo đảm đúng tiêu chuẩn, thực chất, tránh tràn lan. 1.2.2. Vai trò của thi đua, khen thưởng Các phong trào thi đua yêu nước là mảnh đất màu mỡ để gieo trồng nên những điển hình tiên tiến trong lao động sản xuất và mọi mặt công tác. Cùng với thi đua, khen thưởng giữ một vị trí, vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Khen thưởng là sự động viên, biểu dương, ghi nhận công lao, thành tích của tập thể, cá nhân có thành tích tốt cần được nhân rộng. Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, khen thưởng còn góp phần quan trọng trong việc xây dựng cuộc sống mới, nền văn hoá mới, con người mới hoàn chỉnh và toàn diện hơn. Công tác thi đua, khen thưởng thực sự đã trở thành động lực quan trọng trong việc thúc đẩy mọi người, mọi thành phần trong xã hội thi đua lao động sản xuất, học tập, sáng tạo, sẵn sàng chiến đấu ... Nhờ có sự động viên, khen thưởng kịp thời nên ngày càng xuất hiện nhiều đơn vị, tập thể sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, các hộ gia đình nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi trên khắp các vùng miền của Tổ quốc. Với vai trò và ý nghĩa hết sức to lớn trên, các ngành, các cấp và mỗi người chúng ta, là lãnh đạo, thủ trưởng cơ quan, đơn vị hãy nhận thức đúng hơn về ý nghĩa của thi đua, khen thưởng và phấn đấu để được khen thưởng với động cơ, mục đích đúng đắn, trong sáng. Cần xoá bỏ đi những tư tưởng lệch lạc được khen là cơ sở để 4
  7. đạt mục đích khác và không thể coi khen thưởng là cơ sở để đạt mục đích ấy. Chúng ta càng không thể coi khen thưởng là một thứ quà để ban phát, ban ơn cùng nhau hưởng hoặc coi như một môn thể thao để thi đấu phân thắng bại ăn thua cay cú. 1.3. Quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng 1.3.1. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng Để có thi đua, khen thưởng thực sự và có hiệu quả phải có sự quản lý thống nhất của nhà nước bởi vì: Thi đua, khen thưởng tạo ra sự thống nhất đồng bộ trong phấn đấu vươn lên đạt mục tiêu chung của cơ quan, tổ chức, địa phương và của toàn xã hội. Kết quả thi đua cần có sự đánh giá, khách quan, có thưởng phạt kịp thời, rõ ràng để khuyến khích, động viên mọi thành phần trong xã hội tích cực tham gia vào phong trào thi đua. Từ xưa đến nay, các nhà nước ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều thực hiện vai trò thưởng phạt, đó là ban thưởng những người có công và trách phạt những người có tội. Từ việc nhận thức rõ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác thi đua, khen thưởng, sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động thi đua, khen thưởng thì mới có sự thống nhất, tạo được sức mạnh để thi đua trở thành động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Như vậy, công tác thi đua, khen thưởng đã có đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của nhà nước, do vậy nhà nước phải quản lý công tác này. 1.3.2. Nội dung quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng Điều 90 Luật thi đua, khen thưởng quy định nội dung quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng bao gồm: 1. Ban hành các văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng; 2. Xây dựng chính sách về thi đua, khen thưởng; 3. Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng; 4. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen thưởng; 5. Sơ kết, tổng kết, tặng thưởng các hình thức khen thưởng; đánh giá hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng; 6. Hợp tác quốc tế về thi đua, khen thưởng; 7. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp luật về thi đua, khen thưởng; 8. Giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng. Việc nhận thức đúng và thực hiện đầy đủ nội dung quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đổi mới quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở địa phương. 1.3.3. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở cấp huyện Ngay từ khi mới ra đời Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc tổ chức cơ quan làm công tác thi đua, khen thưởng. Ở Trung ương, Ban Thi đua, Khen thưởng Trung ương thuộc Bộ Nội vụ, giúp Chính phủ quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong phạm vi cả nước và tổ chức các hoạt động thi đua, khen thưởng; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc lĩnh vực, phạm vi quản lý của Ban theo quy định của pháp luật. Ở cấp tỉnh, Ban Thi đua – Khen thưởng tỉnh là tổ chức trực thuộc Sở Nội vụ, giúp Giám đốc Sở Nội vụ tham mưu cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng; Ban Thi đua – Khen thưởng 5
  8. chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của Sở Nội vụ; đồng thời chịu sự hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương trực thuộc Bộ Nội vụ; Ban Thi đua – Khen thưởng tỉnh là cơ quan thường trực của Hội đồng Thi đua – Khen thưởng cấp tỉnh. Ở cấp huyện, “phòng Nội vụ là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện có chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý nhà nước về thi đua - khen thưởng”. Như vậy, Ủy ban nhân dân cấp huyện bố trí cán bộ chuyên trách làm công tác thi đua, khen thưởng thuộc Phòng Nội vụ. Ở cấp xã không có cán bộ biên chế chuyên trách làm công tác thi đua, khen thưởng; do vậy Ủy ban nhân dân cấp xã bố trí công chức kiêm nhiệm làm công tác thi đua, khen thưởng. Như vậy, hệ thống cơ quan làm công tác thi đua, khen thưởng từ Trung ương đến xã, phường được hình thành và phát triển cùng với bộ máy công quyền nhà nước. Mặc dù qua từng giai đoạn phát triển của đất nước, tên gọi, tổ chức có những thay đổi, nhưng đến nay, trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước, Đảng và Nhà nước ta vẫn quan tâm đến hệ thống cơ quan, công chức và cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng từ Trung ương đến cơ sở. 1.4. Những yếu tố tác động đến quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng Trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng nói riêng đều có những yếu tố tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm các hoạt động đó. Việc xác định các yếu tố tác động này có ý nghĩa quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng. Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng gồm các yếu tố khách quan và các yếu tố chủ quan. 1.4.1. Các yếu tố khách quan Một là, hệ thống chính sách, pháp luật của Trung ương; Hai là, năng lực và ý thức của các bên tham gia hoạt động thi đua, khen thưởng. 1.4.2. Các yếu tố chủ quan Một là, cơ chế, chính sách của chính quyền địa phương; Hai là, sự quan tâm của cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương; Ba là, tổ chức bộ máy và trình độ của cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng; Bốn là, văn hóa tổ chức và ý chí của người đứng đầu cơ quan, đơn vị. 1.5. Kinh nghiệm quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng ở một số địa phƣơng cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk 1.5.1. Kinh nghiệm của thành phố Buôn Ma Thuột Thành phố Buôn Ma Thuột là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Đắk Lắk, đồng thời là thành phố trung tâm vùng Tây Nguyên, giữ vai trò đầu mối giao thông quan trọng tạo điều kiện phát triển giao lưu kinh tế - xã hội gắn liền Tây Nguyên với miền đông Nam Bộ, duyên hải Miền Trung và trong quan hệ quốc tế. Là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa và khoa học của tỉnh Đắk Lắk, là một trong những trung tâm công nghiệp của vùng Tây Nguyên. Thành phố Buôn Ma Thuột có dân số đông, bên cạnh 6
  9. đó còn có một lượng lớn học sinh, sinh viên và công nhân, lao động phổ thông từ các nơi khác đổ về tạm trú tạo nên sự đa dạng và có phần phức tạp về an ninh trật tự. Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng; thành phố Buôn Ma Thuột đã tổ chức các phong trào thi đua có trọng tâm, trọng điểm và phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố như: Các phong trào thi đua trong ngành giáo dục gắn với cuộc vận động thực hiện tốt nhiệm vụ “xã hội hóa giáo dục, xã hội học tập”; Phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và “xây dựng nếp sống văn minh đô thị”; Phong trào thi đua “Thầy thuốc như mẹ hiền” … Trong lĩnh vực thương mại, các phong trào chống hàng giả, hàng nhái, người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam, phong trào thi đua của người nộp thuế cũng đã được phát động sâu rộng trong các đợt cao điểm như dịp lễ, dịp tết ...; phong trào giới thiệu và quảng bá du lịch đã thu hút đông đảo khách du lịch các nơi tìm về. 1.5.2. Kinh nghiệm của huyện Krông Búk Trước năm 2009, khi huyện Krông Búk chưa chia tách để thành lập thị xã Buôn Hồ thì trung tâm huyện cách thành phố Buôn Ma Thuột 40 km về phía Đông Bắc; tuy nhiên, sau khi chia tách thì các cơ quan hành chính thuộc huyện Krông Búk (mới) dời về phía Bắc 20 km so với vị trí trung tâm cũ, tiến hành thực hiện xây dựng khu trung tâm hành chính mới của huyện và chưa có thị trấn; còn thị xã Buôn Hồ được kế thừa cơ sở vật chất, trang thiết bị và nhà làm việc do huyện Krông Búk (cũ) để lại để tiếp tục sử dụng. Với đặc điểm tình hình như trên, từ khi tách huyện đến nay huyện Krông Búk đã xác định phong trào thi đua yêu nước là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, huyện đã chú trọng đến các lĩnh vực: xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao đời sống nhân dân, chăm lo cho gia đình có công với cách mạng, ... Vì vậy, những năm qua huyện Krông Búk đã tích cực phát động các phong trào thi đua như: “phong trào đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn”, “phong trào thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi”, “phong trào xây dựng nông thôn mới”, “phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “phong trào bảo vệ an ninh quốc phòng”… Việc huy động đóng góp của nhân dân trong xây dựng hạ tầng giao thông nông thôn cũng được các xã trên địa bàn huyện gây dựng trở thành một phong trào mạnh mẽ. Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, huyện đã nỗ lực động viên các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia xây dựng chính quyền, góp phần hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh trên địa bàn; đồng thời, tiếp tục thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả của phong trào, xây dựng và nhân rộng những tấm gương tập thể và cá nhân điển hình tiên tiến. Các phong trào đều có sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của cấp ủy, tham gia phối hợp giữa chính quyền với các đoàn thể, đã tạo nên sự đồng thuận, thống nhất cao. Phát huy những kết quả đạt được, chính quyền địa phương sẽ tiếp tục chỉ đạo các cơ quan, đơn vị triển khai phong trào thi đua yêu nước bằng nhiều hình thức, trong đó chú trọng gắn công tác thi đua yêu nước với nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng an ninh; đồng thời nhân rộng các điển hình tiên tiến trong quần chúng nhân dân. 7
  10. 1.5.3. Kinh nghiệm của huyện Lắk Huyện Lắk nằm về phía Đông Nam của tỉnh Đắk Lắk, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột 52 km. Là một huyện vùng xa, còn rất nhiều khó khăn, song những năm gần đây kinh tế - xã hội của huyện phát triển khá ổn định, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng lên rõ rệt. Trong 5 năm (2010-2015), huyện Lắk đã thực hiện tốt các phong trào thi đua trên các lĩnh vực. Huyện đã chú trọng phát triển sản xuất theo hướng thâm canh tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm, từng bước hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn thông qua các phong trào thi đua phù hợp với đặc điểm, tình hình của huyện như: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, đổi mới cơ cấu giống, mùa vụ, thâm canh tăng năng suất cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa”, “Thi đua phát triển kinh tế trang trại”, “Đoàn kết giúp nhau làm kinh tế, xóa đói, giảm nghèo và làm giàu chính đáng”. Với phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, năm 2015 toàn huyện đã hoàn thành 60/190 tiêu chí về xây dựng nông thôn mới, trong đó có 1 xã đạt 8 tiêu chí; 1 xã đạt 7 tiêu chí, 5 xã đạt 6 tiêu chí và 3 xã đạt 5 tiêu chí. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã đi vào chiều sâu, đạt kết quả thiết thực; toàn huyện có 90/120 thôn, buôn, tổ dân phố được công nhận danh hiệu văn hóa, đạt 72,5%; có 75% hộ gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa; 90% cơ quan, đơn vị đạt danh hiệu văn hóa; 100% buôn có nhà văn hóa cộng đồng. TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 Công tác thi đua, khen thưởng là một nội dung quan trọng của công tác Đảng, công tác chính trị được duy trì ở tất cả các cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị. Thông qua thi đua, khen thưởng mà phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của con người và những thành tựu, kinh nghiệm điển hình, khắc phục những khó khăn, hạn chế, thúc đẩy phong trào phát triển đi lên. Thi đua, khen thưởng là biện pháp tổ chức thực tiễn, một phương pháp tuyên truyền, giáo dục tích cực để động viên ý chí sáng tạo, ý chí quyết tâm, năng lực hoạt động thực tiễn của cán bộ, công chức và người lao động thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà cấp trên giao. “Mục tiêu của thi đua nhằm tạo động lực động viên, lôi cuốn, khuyến khích mọi cá nhân, tập thể phát huy truyền thống yêu nước, năng động, sáng tạo vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” như Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Thi đua là một cách rất tốt, rất thiết thực để làm cho mọi người tiến bộ. Thi đua giúp cho đoàn kết chặt chẽ thêm, và đoàn kết chặt chẽ để thi đua mãi”. Trong chương 1 này, tác giả đã luận giải có khoa học những vấn đề lý luận liên quan đến thi đua, khen thưởng gồm: khái niệm về thi đua, khen thưởng; mục đích, yêu cầu và vai trò của thi đua, khen thưởng; quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng; những yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng; kinh nghiệm quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở một số địa phương cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 8
  11. Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ CÔNG TÁC THI ĐUA, KHEN THƢỞNG TẠI THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK 2.1. Khái quát chung về thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, dân cư của thị xã Buôn Hồ 2.1.1.1. Về đặc điểm tự nhiên Thị xã Buôn Hồ được thành lập theo Nghị định 07/NĐ-CP, ngày 23/12/2008 của Chính Phủ trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính và dân số của huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk. Thị xã Buôn Hồ có 28.205,89 ha diện tích tự nhiên và 101.554 nhân khẩu; có 12 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 07 phường và 05 xã. Thị xã Buôn Hồ có vị trí an ninh quốc phòng đặc biệt quan trọng, cách trung tâm tỉnh lỵ 40 km về phía Đông Bắc chạy dọc theo quốc lộ 14. Có các tuyến đường từ thị xã Buôn Hồ đi các huyện Cư M’gar, Krông Pắc, Krông Năng và Ea Kar; là điều kiện thuận lợi để thị xã Buôn Hồ phát triển kinh tế, xã hội, giao lưu thương mại - dịch vụ và tăng cường các quan hệ hợp tác đầu tư phát triển giữa các địa phương. 2.1.1.2. Về dân cư Dân số của thị xã là 101.554 người, trong đó dân cư đô thị chiếm 58,47%; cuối năm 2016, tỷ lệ hộ nghèo của toàn thị xã 5,68%, tỷ lệ lao động được đào tạo 49,27%, tỷ lệ dân cư đô thị được cung cấp nước sạch 67,21%, tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh 91%, tỷ lệ hộ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa 88%, tỷ lệ khu dân cư (thôn, buôn, tổ dân phố) đạt tiêu chuẩn văn hóa 90,6%, 03 xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới và 05 phường đạt chuẩn văn minh đô thị. 2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội Sau 8 năm thành lập, đến nay bộ mặt kinh tế - xã hội của thị xã Buôn Hồ có những thay đổi rõ rệt. Tổng giá trị sản xuất năm 2016 đạt 5.620,31 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2009-2016 đạt 24,55%. Cơ cấu kinh tế: nông – lâm – thủy sản chiếm 39,91%; công nghiệp – xây dựng chiếm 14,99%; thương mại – dịch vụ chiếm 45,10%. Sự nghiệp Giáo dục – Đào tạo trên địa bàn có nhiều phát triển; toàn thị xã có 59 cơ sở giáo dục, đáp ứng nhu cầu học tập của con em trên địa bàn; 100% trường trung học cơ sở đã được cao tầng hóa và các điểm trường tiểu học đã được kiên cố hóa; 42,8% trường học trên địa bàn đã đạt chuẩn quốc gia. 100% xã, phường đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm; 100% trạm y tế xã, phường đã có bác sỹ; 12/12 xã, phường đạt chuẩn quốc gia về y tế. Văn hóa – Thông tin – Thể thao – Du lịch có bước phát triển; thị xã có quy hoạch hình thành các khu du lịch sinh thái đèo Hà Lan và du lịch văn hóa Buôn Tring; đồng thời xúc tiến kêu gọi đầu tư nhằm từng bước đưa du lịch ở địa phương trở thành một ngành kinh tế tương xứng với tiềm năng của thị xã. Tuy nhiên, kinh tế - xã hội thị xã Buôn Hồ vẫn còn nhiều hạn chế so với tiềm năng và yêu cầu phát triển mới; đòi hỏi cần nâng cao hơn nữa vai trò của thi đua, khen thưởng trong những năm tới để tạo động lực hoàn thành mục tiêu xây dựng thị xã Buôn Hồ trở thành đô thị loại III trước năm 2020. 9
  12. 2.2. Quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2009-2016 Quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng ở thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk trong những năm qua đã có bước chuyển biến rõ rệt, đồng bộ và nề nếp hơn. Điều này thể hiện trên các mặt chủ yếu sau đây: 2.2.1. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và xây dựng chính sách về thi đua, khen thưởng Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước từ Trung ương đến các Sở, ngành đã tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc tổ chức phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng ở địa phương. Từ đặc điểm cụ thể của địa phương, thị xã đã chủ động trong việc ban hành các văn bản chỉ đạo, tổ chức thực hiện thi đua, khen thưởng trên địa bàn như: phân công cụm, khối thi đua để thực hiện chấm điểm thi đua, bình xét khen thưởng trong từng cụm, khối trước khi trình Hội đồng thi đua, khen thưởng thị xã; xây dựng thang điểm thi đua để các cụm, khối thi đua làm căn cứ theo dõi, bình xét, đánh giá. Từ năm 2009 đến năm 2016, thị xã đã xây dựng các kế hoạch thi đua thường xuyên và nhiều kế hoạch thi đua theo chuyên đề; bên cạnh đó, thị xã cũng đã thường xuyên ban hành các văn bản chỉ đạo, tổ chức, hướng dẫn các phong trào thi đua trên các lĩnh vực. Nhìn chung, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng đến nay đã tương đối hoàn chỉnh, đã quy định rõ thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp, các ngành, nâng cao trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị đối với công tác thi đua khen thưởng trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là cơ sở pháp lý cho quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng và triển khai phát động các phong trào thi đua, thực hiện công tác khen thưởng ở các cấp, các ngành. Về xây dựng chính sách: Nhận thức được ý nghĩa, vai trò của chính sách trong thi đua, khen thưởng - một yếu tố quan trọng tạo ra động lực của thi đua, khen thưởng, thị xã Buôn Hồ đã thực hiện đầy đủ những quy định của Đảng và Nhà nước về chính sách trong công tác thi đua, khen thưởng; chủ động, tích cực trong việc áp dụng những chính sách của Trung ương, của tỉnh phù hợp với tình hình của địa phương thông qua các quy định cụ thể nên đã đáp ứng được yêu cầu của công tác thi đua, khen thưởng của thị xã như: Quyết định số 2678/QĐ-UBND ngày 21/10/2016 của Ủy ban nhân dân thị xã Buôn Hồ về việc ban hành Quy định nội dung và thang điểm thi đua khối cơ quan, đơn vị và xã, phường trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, Quyết định số 2133/QĐ-UBND ngày 01/8/2016 của Ủy ban nhân dân thị xã Buôn Hồ về việc ban hành Quy định nâng bậc lương trước thời hạn do lập thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân thị xã Buôn Hồ. Thị xã Buôn Hồ rất quan tâm đến chính sách trong thi đua, đã áp dụng chính sách khuyến khích tài năng, ưu tiên bổ nhiệm, cử đi đào tạo, nâng bậc lương trước thời hạn ... đối với những cá nhân có nhiều thành tích trong công tác nhằm kịp thời động viên, khuyến khích mạnh mẽ phong trào, tạo nên không khí thi đua sôi nổi trong toàn dân. Giai đoạn 2009-2016, Ủy ban nhân dân thị xã đã bổ nhiệm 451 trường hợp, cử đi đào tạo 3.170 trường hợp, nâng bậc lương trước thời hạn 117 trường hợp. 10
  13. 2.2.2. Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng Công tác tuyên truyền về thi đua, khen thưởng được thực hiện bằng nhiều phương thức như: Cử cán bộ, công chức tham gia các lớp bồi dưỡng tập huấn do tỉnh tổ chức; các cơ quan thông tin đại chúng tuyên truyền những nội dung cơ bản của Luật thi đua, khen thưởng và các Nghị định hướng dẫn thi hành tới toàn thể nhân dân; cơ quan làm công tác thi đua, khen thưởng đã tham mưu cho cấp ủy đảng, chính quyền ban hành các văn bản chỉ đạo thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng; ... qua đó đã góp phần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tác dụng của công tác thi đua, khen thưởng trong thời kỳ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế. Đảng bộ, chính quyền và các hội đoàn thể thị xã Buôn Hồ đã quan tâm chỉ đạo, phát động các phong trào thi đua yêu nước với nhiều nội dung đa dạng, phong phú, đạt hiệu quả thiết thực; tổ chức ký giao ước thi đua, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện, sơ kết, tổng kết, rút ra những bài học kinh nghiệm, biểu dương, khen thưởng kịp thời tập thể, cá nhân có thành tích. Các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân thị xã đã hưởng ứng và tham gia tích cực các phong trào thi đua, lập nhiều thành tích xuất sắc, góp phần xây dựng thị xã phát triển bền vững. Nhìn chung, công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng thời gian vừa qua thị xã Buôn Hồ cũng như ở các địa phương khác trong tỉnh đã làm tốt công tác tuyên truyền phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện, đã gắn hai khâu tuyên truyền và tổ chức thực hiện với nhau do vậy các văn bản quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng đã được triển khai một cách nghiêm túc và bước đầu có hiệu quả. 2.2.3. Bộ máy và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen thưởng Bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng ở cấp tỉnh có Ban Thi đua - Khen thưởng thuộc Sở Nội vụ; cấp huyện có bộ phận làm công tác thi đua, khen thưởng thuộc phòng Nội vụ; ở cấp xã đã bố trí cán bộ kiêm nhiệm làm công tác thi đua, khen thưởng. Ủy ban nhân dân thị xã Buôn Hồ hiện nay đã bố trí 01 lãnh đ ạo Ủy ban nhân dân thị xã, 01 lãnh đạo phòng Nội vụ, 01 lãnh đạo phòng Giáo dục và Đào tạo, 01 chuyên viên phòng Nội vụ, 01 chuyên viên phòng Giáo dục và Đào tạo trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, theo dõi, đôn đốc và tham mưu cho Ủy ban nhân dân thị xã về công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn. Hội đồng thi đua, khen thưởng thị xã có 15 thành viên hoạt động kiêm nhiệm. Đối với cấp xã, mỗi đơn vị bố trí 01 lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã, phường và 01 công chức kiêm nhiệm làm công tác thi đua, khen thưởng. Thị xã đã quan tâm cử cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen thưởng tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, quản lý nhà nước, tập huấn ngắn hạn để nâng cao năng lực công tác, đáp ứng yêu cầu về trình độ theo vị trí việc làm và nâng cao chất lượng công tác thi đua, khen thưởng. Kết quả bước đầu của công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng đã góp phần nâng cao được trình độ năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng tạo điều kiện cho đội ngũ này hoàn thành nhiệm vụ được giao. 11
  14. 2.2.4. Công tác sơ kết, tổng kết, tặng thưởng các hình thức khen thưởng; đánh giá hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng Công tác sơ kết, tổng kết, tặng thưởng là hoạt động rất quan trọng trong công tác thi đua, khen thưởng nhằm đánh giá được kết quả của công tác này bao gồm những mặt làm được, chưa làm được, nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm, đồng thời chỉ rõ những ưu, khuyết điểm và nguyên nhân trong lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, đơn vị đối với công tác thi đua, khen thưởng. Từ năm 2009 đến năm 2016, thị xã Buôn Hồ đã tổ chức 02 Đại hội thi đua yêu nước, các Hội nghị tổng kết công tác thi đua, khen thưởng theo năm và theo chuyên đề. Qua các Đại hội, Hội nghị thị xã đã đánh giá được kết quả và sự chuyển biến của công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn trong từng giai đoạn và qua từng năm. Trong 8 năm qua, thị xã đã tổ chức các phong trào thi đua thường niên (hàng năm) và các phong trào thi đua theo sự kiện ở từng thời kỳ, nhân các ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị trọng đại ở địa phương; tạo khí thế thi đua sôi nổi, rộng khắp. Nổi bật trong phong trào thi đua là: Phong trào thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, phong trào thi đua dạy tốt học tốt, phong trào thi đua xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; phong trào thi đua cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới; phong trào thi đua quyết thắng trong lực lượng vũ trang, phong trào thi đua xây dựng Đảng, chính quyền và đoàn thể vững mạnh được duy trì đều đặn hàng năm đã thu hút hàng vạn nông dân, công nhân, cán bộ, công chức, trí thức và lao động tham gia. Nhìn chung, công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn thị xã Buôn Hồ giai đoạn 2009-2016 đã đạt được những hiệu quả nhất định: Có sự chuyển biến tích cực trong lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền và sự kết hợp của các tổ chức chính trị xã hội; hình thức, biện pháp thi đua phong phú, đa dạng hiệu quả hơn. Từ năm 2009 đến năm 2016, thị xã Buôn Hồ đã xét tặng và đề nghị cấp trên tặng các danh hiệu thi đua và các hình thức khen thưởng cho 2.120 tập thể, 16.765 cá nhân điển hình tiên tiến trong các phong trào thi đua nhằm tạo động lực để các tập thể, cá nhân tiếp tục phấn đấu nhân rộng điển hình tiên tiến trên mọi lĩnh vực. Với sự nỗ lực lao động sáng tạo không ngừng của cán bộ, quân và dân các dân tộc trên địa bàn thị xã từ khi thành lập đến nay, thị xã Buôn Hồ đã trở thành đô thị trung tâm có vai trò là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật khu vực phía Bắc của tỉnh Đắk Lắk. Ghi nhận những thành tích đạt được, năm 2012 quân dân, cán bộ thị xã Buôn Hồ vinh dự được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng Huân chương Lao động hạng Nhì, vì đã có nhiều thành tích xuất sắc trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng. 2.2.5. Hợp tác quốc tế về thi đua, khen thưởng Vấn đề hợp tác quốc tế về thi đua, khen thưởng nhằm kêu gọi sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân người nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài đối với thị xã Buôn Hồ trong thời gian qua rất hạn chế. Từ khi thành lập đến nay, thị xã Buôn Hồ chưa ghi nhận sự đóng góp nào của các tổ chức, cá nhân người nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng – an ninh của thị xã. 12
  15. 2.2.6. Công tác thanh tra, kiểm tra; giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng Đối với nội dung này, thị xã Buôn Hồ đặt ra phương châm ngăn ngừa là chính; thông qua theo dõi sát sao việc tổ chức các phong trào thi đua, việc tiếp nhận hồ sơ đề nghị khen thưởng để đánh giá đúng hiệu quả các phong trào, tránh trường hợp khen không đúng tiêu chuẩn, không đúng đối tượng, khai man thành tích ... Từ việc ngăn ngừa các sai phạm trong công tác thi đua, khen thưởng nên từ năm 2009 đến nay, thị xã không có đơn thư, khiếu nại, tố cáo liên quan đến công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng; tạo được niềm tin của quần chúng nhân dân và cán bộ, chiến sĩ vào đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo được khí thế trong việc tổ chức phong trào thi đua và đảm bảo sự công bằng, khách quan trong thi đua, khen thưởng. 2.3. Đánh giá chung công tác quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk 2.3.1. Kết quả đạt được Qua 8 năm tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ, công tác quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng trên địa bàn thị xã đã đạt được một số kết quả nhất định: Cấp ủy Đảng và chính quyền luôn quan tâm, thường xuyên chỉ đạo về công tác thi đua khen thưởng, từ đó phát huy hiệu quả của công tác thi đua khen thưởng, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương. Các phong trào thi đua được tổ chức rộng khắp, lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, tạo nên động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh - quốc phòng của thị xã; nhiều phong trào mang tính rộng rãi, quy mô toàn thị xã; việc xét khen thưởng được thực hiện dân chủ, công khai, đúng quy định đã đảm bảo tính nêu gương và ảnh hưởng tốt đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nội dung, hình thức và việc tổ chức hoạt động thi đua ở các cơ quan, đơn vị có nhiều chuyển biến tiến bộ, nhất là việc theo dõi, kiểm tra, đánh giá, chấm điểm, tổng kết rút kinh nghiệm ở từng cơ quan, đơn vị. Từng bước xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu, đủ số lượng, đảm bảo chất lượng, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ ở các lĩnh vực. Phong trào thi đua đã góp phần thực hiện tốt Luật Phòng chống tham nhũng và Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đạt được kết quả trên trước hết bắt nguồn từ việc thực hiện nghiêm túc chủ trương đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước về thi đua, khen thưởng; sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh và sự nổ lực phấn đấu của cơ quan, ban, ngành thị xã Buôn Hồ. Đó còn là biểu hiện của tinh thần thi đua yêu nước, truyền thống đoàn kết, khắc phục khó khăn, tinh thần lao động cần cù, thông minh, sáng tạo của nhân dân, cán bộ, chiến sỹ trên địa bàn thị xã; trong đó có những nhân tố mới, những điển hình tiên tiến làm nòng cốt trong phong trào thi đua. 2.3.2. Tồn tại hạn chế Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong thời gian qua tại thị xã Buôn Hồ vẫn còn những tồn tại hạn chế đó là: 13
  16. - Cùng lúc song hành thực hiện 03 Luật, 03 Nghị định và Thông tư hướng dẫn về thi đua, khen thưởng nên khi thực hiện còn nhiều lúng túng, cơ sở gặp khó khăn trong nghiên cứu và triển khai thực hiện công tác thi đua, khen thưởng. - Có lúc, có nơi nhận thức về ý nghĩa, vai trò, vị trí, tầm quan trọng của thi đua, khen thưởng trong một số lãnh đạo cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể và một bộ phận cán bộ chủ chốt ở cơ sở còn hạn chế, chung chung; chưa quán triệt sâu sắc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới công tác thi đua, khen thưởng. - Chỉ đạo, tổ chức phong trào thi đua yêu nước ở một số đơn vị, xã, phường, nhất là các cơ quan, đơn vị, các đơn vị của tỉnh đóng chân trên địa bàn thị xã chưa đi vào thực chất, chưa thường xuyên, còn nặng về sơ kết, tổng kết, hiệu quả chưa cao, triển khai phong trào thi đua còn mang tính hình thức, chưa hướng thi đua vào tập trung giải quyết những nhiệm vụ trọng tâm và đột xuất. - Hệ thống tổ chức bộ máy cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng ở các xã, phường còn kiêm nhiệm, không có cán bộ chuyên trách làm công tác thi đua vì vậy chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, chưa thực hiện tốt chức năng tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các xã, phường trong công tác thi đua, khen thưởng. - Trong bình xét và suy tôn các danh hiệu thi đua còn nể nang, không ít cơ quan, tổ chức có tư tưởng cào bằng, bình bầu các tập thể, cá nhân xuất sắc theo chế độ luân phiên, do đó không tạo động lực phấn đấu cho người lao động; việc xét duyệt sáng kiến giải pháp công tác để đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở chưa đảm bảo. Tỷ lệ đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở tuy đã đảm bảo 15% theo quy định của tỉnh nhưng chủ yếu tập trung ở đối tượng là lãnh đạo, quản lý dẫn đến tỷ lệ khen thưởng cũng tập trung ở đối tượng lãnh đạo, quản lý; nhân viên, người lao động trực tiếp ít có cơ hội tham gia bình xét nên chủ yếu dừng lại ở danh hiệu Lao động tiên tiến và Giấy khen của thủ trưởng đơn vị, địa phương, nếu xét danh hiệu cao hơn thì khi xét tặng nhân viên, những người lao động trực tiếp thường không đủ tiêu chuẩn đề ra, vì khen thưởng tuần tự từ thấp đến cao hoặc cộng dồn thành tích. Mới tập trung khen thưởng khu vực nhà nước, chưa chú trọng khen thưởng cho người trực tiếp lao động sản xuất, công nhân, nông dân; còn biểu hiện bệnh thành tích, khen thưởng còn chưa đồng đều giữa khu vực nhà nước và tư nhân, giữa các đơn vị, nhất là các xã, phường. 2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế Những tồn tại hạn chế nêu trên bắt nguồn từ một số nguyên nhân chủ yếu sau: - Nguyên nhân khách quan: Luật thi đua, khen thưởng và các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn bộc lộ những khiếm khuyết và bất cập trong quá trình thực hiện và thường xuyên thay đổi, dẫn đến cơ sở không kịp cập nhật; bên cạnh đó việc song hành thực hiện 03 Luật, 03 Nghị định và Thông tư hướng dẫn nên gặp khó khăn trong nghiên cứu và triển khai thực hiện công tác thi đua, khen thưởng ở cơ sở. - Nguyên nhân chủ quan: + Trước hết, ở một số cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở chưa nhận thức sâu sắc về ý nghĩa, vai trò, vị trí và tầm quan trọng và tác dụng của công tác thi đua, khen thưởng trong tình hình mới, nên chưa quan tâm, đề cao trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác thi đua, khen thưởng. Một số nơi lãnh đạo 14
  17. Đảng, chính quyền còn coi nhẹ công tác thi đua, khen thưởng, người đứng đầu duy ý chí; chưa lấy công tác thi đua, khen thưởng làm đòn bẩy để thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị của đơn vị, địa phương mình. Có nơi cấp ủy Đảng, chính quyền chưa phát huy tốt vai trò quy tụ đoàn kết trong tổ chức, dẫn đến nội bộ mất đoàn kết, so đo máy móc dễ dẫn đến biểu hiện ganh đua, không tích cực. + Công tác thông tin tuyên truyền gương người tốt, việc tốt, các nhân tố mới và điển hình tiên tiến còn ít. Chưa phát huy hết vai trò của cơ quan thông tấn, báo chí tuyên truyền, các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về thi đua, khen thưởng. + Nhân sự làm công tác thi đua, khen thưởng chưa ngang tầm với nhiệm vụ được giao, phần lớn cán bộ phụ trách thi đua, khen thưởng ở cơ sở đều kiêm nhiệm, thường xuyên thay đổi vị trí công tác do vậy thiếu tính kế thừa, năng lực và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều. + Chất lượng công tác khen thưởng còn hạn chế; không ít cơ quan, tổ chức có tư tưởng cào bằng, bình bầu các tập thể, cá nhân xuất sắc trong tháng, quý, năm thực hiện theo chế độ luân phiên, do đó không tạo động lực phấn đấu cho người lao động; có lúc có nơi việc bình xét khen thưởng thiếu dân chủ, còn phụ thuộc vào ý chí của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, còn có hiện tượng xét từ trên xuống dưới cho đến hết chỉ tiêu tức là xét cho người giữ chức vụ cao trước sau đó còn chỉ tiêu mới xét đến nhân viên và người lao động trực tiếp dẫn đến có những trường hợp chưa thật sự tiêu biểu nên sức lan tỏa không cao. 2.3.4. Những bài học kinh nghiệm quản lý Nhà nước về thi đua, khen thưởng cho thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk Một là, công tác thi đua, khen thưởng phải được sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền và sự phối hợp chặt chẽ của mặt trận, hội, đoàn thể; phải nâng cao vai trò, trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu đơn vị, địa phương trong tổ chức thực hiện phong trào thi đua yêu nước. Hai là, nội dung, mục tiêu phong trào thi đua phải được cụ thể hóa, phù hợp với thực tế; coi trọng việc tổ chức đăng ký thi đua, sơ kết, tổng kết, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; tăng cường hoạt động của các khối thi đua, cụm thi đua. Tiếp tục công tác phát hiện, bồi dưỡng, nhân rộng những điển hình tiên tiến. Ba là, bình xét khen thưởng phải kịp thời, công khai, dân chủ, chặt chẽ; quan tâm khen thưởng đến đơn vị cơ sở, cá nhân trực tiếp sản xuất. Phải xây dựng Quy chế thi đua, khen thưởng, nghiên cứu để lượng hóa thành tích bằng thang điểm, hệ số điểm nhằm tổ chức thực hiện được thuận lợi, hạn chế tính chủ quan khi xét thi đua. Bốn là, xác định công tác thi đua, khen thưởng phải gắn liền với công tác xây dựng Đảng, xây dựng đơn vị, địa phương vững mạnh toàn diện; lấy việc hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị, địa phương là mục tiêu, là động lực quan trọng để tổ chức thực hiện phong trào thi đua yêu nước. Năm là, thường xuyên củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng; quan tâm bảo đảm các điều kiện hoạt động; bồi dưỡng, tập huấn nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức. 15
  18. TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng luôn là nhiệm vụ được các cấp ủy đảng, chính quyền và các ngành quan tâm nhằm đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác này. Trong những năm qua công tác thi đua, khen thưởng và phong trào thi đua yêu nước của tỉnh Đắk Lắk nói chung và thị xã Buôn Hồ nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực, nội dung hình thức tổ chức các phong trào thi đua phong phú, đa dạng, từng bước được đổi mới, gắn với thực hiện “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, phù hợp với yêu cầu tình hình thực tiễn của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Công tác khen thưởng được thực hiện đúng nguyên tắc, kịp thời, công bằng, dân chủ, công khai. Qua các phong trào thi đua, nhiều tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc được các cấp, các ngành và Trung ương khen thưởng đã có tác dụng giáo dục, động viên, phát huy tính tích cực nêu gương học tập, trong mọi hoạt động; góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể ngày càng vững mạnh. Bên cạnh những ưu điểm và những kết quả đạt được nêu trên, hiện nay công tác thi đua, khen thưởng và phong trào thi đua yêu nước trên địa bàn thị xã Buôn Hồ vẫn còn những hạn chế đó là: Luật thi đua khen thưởng và Nghị định hướng dẫn thi hành chưa kịp thời ban hành mới, còn tồn tại 03 Luật và 03 Nghị định đồng thời song hành. Một số cơ quan, đơn vị chưa nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của thi đua, khen thưởng, chưa phát huy tính tích cực của công tác thi đua, khen thưởng, lấy thi đua làm động lực, tạo ra nhân tố mới trong phong trào; một số phong trào nội dung, chỉ tiêu, tiêu chí đánh giá chưa cụ thể, còn mang tính hình thức. Công tác tuyên truyền, xây dựng điển hình tiên tiến chưa thực sự được chú trọng, việc nêu gương các tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến chưa được thực hiện kịp thời; tỷ lệ khen thưởng cho cán bộ lãnh đạo quản lý còn nhiều, cho người lao động trực tiếp còn thấp. Những hạn chế nêu trên xuất phát bởi nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan: từ hệ thống văn bản pháp luật; nhận thức của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể và nhân dân, đến việc tổ chức triển khai phong trào, sơ kết, tổng kết phong trào, bình xét suy tôn điển hình tiên tiến và năng lực của cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen thưởng đôi lúc chưa được quan tâm tích cực và thỏa đáng. Với thực trạng và nguyên nhân hạn chế nêu trên của quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tại thị xã Buôn Hồ, sự cần thiết phải có các giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tại thị xã Buôn Hồ nhằm góp phần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong phong trào thi đua yêu nước và phát huy được tính tích cực của công tác thi đua, khen thưởng, làm động lực trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thị xã Buôn Hồ lần thứ XV, nhiệm kỳ 2015-2020. 16
  19. Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG TẠI THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK 3.1. Quan điểm, định hƣớng, mục tiêu quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng giai đoạn 2016-2020 Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ IX nhấn mạnh trong thời gian tới, phong trào thi đua yêu nước cần tiếp tục quán triệt sâu sắc tư tưởng thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng, đưa công tác thi đua gắn với công việc hằng ngày. Các cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị cần tăng cường chỉ đạo, tổ chức phong trào thi đua bảo đảm thiết thực, hướng công tác thi đua vào nhiệm vụ trọng tâm, đột phá, lấy kết quả công tác thi đua là một tiêu chí để đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý. Mỗi cán bộ, đảng viên phát huy tốt vai trò tiền phong gương mẫu, thực sự là hạt nhân trong các phong trào thi đua. Tổ chức các phong trào thi đua cần có mục tiêu thiết thực, cụ thể, gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, đơn vị. Quán triệt tinh thần Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ IX, quan điểm Đại hội Đại biểu Đảng bộ thị xã Buôn Hồ lần thứ XV, nhiệm kỳ 2015-2020, thực hiện lời phát động thi đua của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã Buôn Hồ tại Đại hội Thi đua yêu nước thị xã Buôn Hồ lần thứ II, trong những năm tới, công tác thi đua, khen thưởng và quản lý nhà nước về công tác này tại thị xã Buôn Hồ cần tiếp tục đổi mới về nội dung và hình thức, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng theo tinh thần Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 32-CT/TU ngày 09/10/2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đắk Lắk nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh theo Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ thị xã Buôn Hồ lần thứ XV đã đề ra. Mục tiêu và phương hướng tổng quát của Đảng bộ thị xã Buôn Hồ trong nhiệm kỳ 2015-2020 là: “Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ; tăng cường hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của các cấp chính quyền; phát huy sức mạnh đoàn kết các dân tộc; tập trung phát triển kinh tế - xã hội; đẩy mạnh phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, thương mại – dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp; đảm bảo quốc phòng – an ninh; phấn đấu xây dựng thị xã Buôn Hồ trở thành đô thị loại III vào năm 2020”. Để đạt được mục tiêu và phương hướng tổng quát nêu trên, cần tích cực thực hiện mục tiêu xuyên suốt của phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng là phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị vào việc thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phong trào thi đua phải trở thành động lực to lớn, góp phần phát triển kinh tế nhanh, bền vững, sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ gìn hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. 17
  20. 3.2. Một số giải pháp quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới Để thực hiện được mục tiêu trên, thì nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng là nhiệm vụ quan trọng; một số giải pháp chủ yếu là: 3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác thi đua, khen thưởng Trước hết, phải tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức Đảng, coi đây là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả phong trào thi đua. Đây là giải pháp đầu tiên và rất quan trọng cho việc đổi mới quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng; giải pháp này bắt nguồn từ cơ chế của hệ thống chính trị ở nước ta là Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Có sự lãnh đạo của Đảng sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung, đổi mới trên các lĩnh vực nói riêng, trong đó có lĩnh vực thi đua, khen thưởng mới đạt kết quả và thành công được. Để đổi mới công tác thi đua, khen thưởng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức thực hiện phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng tại thị xã Buôn Hồ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế thì một trong những giải pháp chủ yếu và rất quan trọng đó là tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác thi đua, khen thưởng bằng cách: - Tiếp tục quán triệt tinh thần Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng, Chỉ thị số 32-CT/TU ngày 09/10/2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đắk Lắk về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng và đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước của tỉnh. - Nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng trong chỉ đạo tổ chức các phong trào thi đua, bảo đảm thiết thực, hiệu quả. - Các cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về chất lượng, hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng; tăng cường kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện, ngăn ngừa tiêu cực trong công tác thi đua, khen thưởng, tránh tình trạng khen thưởng tràn lan, không thực chất. - Mỗi chi bộ, đảng viên cần phát huy tốt vai trò tiên phong, gương mẫu và là hạt nhân trong các phong trào thi đua ở cơ sở, gắn với việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, làm cho phong trào thi đua trở thành phong trào hành động cách mạng sâu rộng trong toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân. 3.2.2. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa về nhận thức đối với vai trò, vị trí và tầm quan trọng của công tác thi đua, khen thưởng và quản lý nhà nước đối với công tác này Nhận thức có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của con người. Có nhận thức đúng đắn mới có hành động đúng và từ đó mới có kết quả và đạt được thành công. Trong công tác thi đua, khen thưởng cũng vậy, một khi nhận thức đúng đắn được vị trí, vai trò, bản chất của nó và quyết tâm hành động trong thực tế sẽ có được phong trào thi đua, khen thưởng có chất lượng và hiệu quả. Kinh nghiệm cho thấy, ở đâu cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể có nhận thức đúng, sâu sắc về vị trí, vai trò của công tác thi đua, khen thưởng thì ở đó sẽ thật sự 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2