intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tổng quan về quản trị nguồn nhân lực part 6

Chia sẻ: Pham Duong | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

156
lượt xem
50
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đo lường độ tin cậy là quan trọng. Thông tin độ tin cậy có thể thu thập từ một vài nguồn: (1) các nghiên cứu về độ tin cậy được thực hiện bởi tổ chức sẽ sử dụng trắc nghiệm, (2) thông in độ tin cậy được cung cấp bởi các hãng trắc nghiệm thương mại mà bán các trắc nghiệm này, (3) dữ liệu từ các công ty khác cũng sử dụng các trắc nghiệm giống nhau trong hệ thống lựa chọn của họ, hoặc (4) dữ liệu từ các cá nhân, những người sử dụng trắc nghiệm trong...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tổng quan về quản trị nguồn nhân lực part 6

  1. 14 - Quản trị nguồn nhân lực Đo lường độ tin cậy là quan trọng. Thông tin độ tin cậy có thể thu thập từ một vài nguồn: (1) các nghiên cứu về độ tin cậy được thực hiện bởi tổ chức sẽ sử dụng trắc nghiệm, (2) thông in độ tin cậy được cung cấp bởi các hãng trắc nghiệm thương mại mà bán các trắc nghiệm này, (3) dữ liệu từ các công ty khác cũng sử dụng các trắc nghiệm giống nhau trong hệ thống lựa chọn của họ, hoặc (4) dữ liệu từ các cá nhân, những người sử dụng trắc nghiệm trong các nghiên cứu của họ. Độ tin cậy được như là nền tảng cho tính hiệu lực của trắc nghiệm. Nếu trắc nghiệm không đo lường ứng viên một cách nhất quán, nó không có hiệu lực. c. Tính hiệu lực BƯỚC 1 BƯỚC 2 BƯỚC 3 • Mỗi thành viên đánh giá các • • Tiến hành thông Hình thành các tiêu chí trắc nhiệm như sau: qua phân tích hội đồng chuyên 0 = Không cần thiết cho công gia trong lĩnh công việc việc vực công việc 1 = Hữu ích cho CV 2 = Yếu tố cần thiết cho CV BƯỚC 5 BƯỚC 4 • • Đối với trắc nghiệm, tính Với mỗi tiêu chí, tính tỷ lệ hiệu lực nội dung chỉ số hiệu lực nội dung (content validity ratio - CVR) N −N 2 (Content validity index - CVR = e CVI), số trung bình của các N2 CVR của các tiêu chí có Trong đó Ne = Số các thành viên đánh giá tiêu chí ở được trong trắc nghiệm điểm 2 (cần thiết cho CV); N = Tổng số các thành viên Hình 5.7 - Quy trình hiệu lực nội dung Hiệu lực nội dung Hiệu lực nội dung xem xét liệu trắc nghiệm có đại diện cho một vài phạm vi cấu trúc hay không. Hiệu lực nội dung được thực hiện thích hợp nhất khi cấu trúc được đánh giá bao gồm các hành vi quan sát được dễ dàng. Xác định hiệu lực nội dung của trắc nghiệm chính là tiến trình phán đoán bắt đầu với phân tích công việc. Các cấu thành của trắc nghiệm được đánh giá dựa trên mức độ liên quan đến kiến thức và kỹ năng cần thiết để thực hiện những phần việc cụ thể. Hiệu lực nội dung của trắc nghiệm sau đó được thẩm định bởi các chuyên gia quen thuộc với công việc. Cách thức để phán đoán hiệu lực nội dung của trắc nghiệm được minh hoạ ở hình sau: Cách tiếp cận này sử dụng nhóm chuyên gia đánh giá các tiêu chí của trắc nghiệm để xem liệu mỗi thành tố có đại diện cho các khía cạnh cần thiết của cùng một lĩnh vực. Các đánh giá này
  2. Chiêu mộ và lựa chọn - 15 tạo ra tỷ lệ hiệu lực nội dung cho mỗi tiêu chí. Điều này cho phép chuyên gia nguồn nhân lực so sánh hiệu lực nội dung của một tiêu chí của trắc nghiệm với những tiêu chí khác và loại bỏ các tiêu chí kém. Trung bình của tỷ lệ hiệu lực nội dung của tất cả các tiêu chí tạo ra chỉ số hiệu lực nội dung cho cả trắc nghiệm. Chỉ số này có thể được sử dụng để so sánh một vài trắc nghiệm được đề nghị để xác định trắc nghiệm liên quan chặt chẽ đến lĩnh vực thành tích của công việc được giao. Hiệu lực liên quan đến tiêu chuẩn Trong việc xem xét hiệu lực liên quan đến tiêu chuẩn của trắc nghiệm, các chuyên gia nguồn nhân lực xác định liệu rằng điểm số trắc nghiệm có liên quan đến các biến số tiêu chuẩn quan trọng hay không. Biến số tiêu chuẩn đơn giản là bất kỳ khía cạnh nào của hành vi cá nhân mà chuyên gia nguồn nhân lực cố gắng dự đoán, chẳng hạn như thành tích công việc, sự vắng mặt, hoặc tốc độ thay thế. Thường thì biến số tiêu chuẩn đo lường thành tích công việc. Việc sử dụng trắc nghiệm trong lựa chọn nhân sự, chúng ta đang kết luận rằng những ứng viên đạt điểm số trong cách thức đặc biệt của trắc nghiệm sẽ là những người thực hiện tốt hơn những ai đạt được điểm trong một vài cách khác. Hiệu lực liên quan đến tiêu chuẩn trực tiếp của trắc nghiệm thể hiện tính thích hợp của các kết luận đó. Để thực hiện nghiên cứu liên quan đến tiêu chuẩn, bước đầu tiên là phải phân tích công việc. Thông tin về bản chất của công việc giúp các chuyên gia nguồn nhân lực chọn lựa một hoặc nhiều trắc nghiệm có khả năng dự báo thành tích công việc. Thông tin phân tích công việc cũng được sử dụng để xây dựng tiêu chuẩn đo lường thành tích công việc. Tiêu chuẩn đo lường có thể là thang điểm đánh giá thành tích được điền bởingười giám sát hoặc các tiêu chuẩn khách quan về số lượng và chất lượng của sản phẩm được tạo ra với các cá nhân. Nghiên cứu hiệu lực sau đó được tiến hành để xác định trắc nghiệm có liên quan đến tiêu chuẩn thành tích công việc như mong đợi hay không. Hiệu lực liên quan đến tiêu chuẩn thường được xem là cách tốt để chỉ ra rằng trắc nghiệm lựa chọn có liên quan đến công việc. Hai thủ tục chính để xác định hiệu lực liên quan đến tiêu chuẩn của trắc nghiệm là hiệu lực đồng thời và hiệu lực dự báo. Hiệu lực đồng thời. Hiệu lực đồng thời sử dụng các nhân viên hiện tại. Quy trình gồm 3 bước: 1. Lựa chọn mẫu nhân viên hiện tại 2. Cho mỗi nhân viên thực hiện trắc nghiệm lựa chọn dự định và thu thập thông tin đồng thời về các biến số tiêu chuẩn. 3. Tính toán sự tương quan giữa điểm số trắc nghiệm và điểm số tiêu chuẩn. Hai vấn đề chính của hiệu lực đồng thời là: - Mẫu đại diện nhân viên. Mẫu này sẽ quyết định là mối quan hệ giữa điểm số trắc nghiệm và điểm số thành tích công việc là đủ mạnh để hỗ trợ việc sử dụng trắc nghiệm trong việc lựa chọn ứng viên. - Giới hạn của dãy. Thường những đại diện nhân viên hiện tại có thể không gồm những cá nhân thực hiện công việc cực kỳ kém (những người đã rút lui hoặc bị sa thải). Sự vắng mặt của những người thực hiện công viêc kém dẫn đến giới hạn dãy về điểm số
  3. 16 - Quản trị nguồn nhân lực thành tích được tìm thấy trong mẫu phê chuẩn. Điều đó có thể làm cho sự tương quan giữa điểm số trắc nghiệm và điểm số thành tích trong mẫu phê chuẩn sẽ thấp hơn mong muốn. Vấn đề được minh hoạ qua hình sau. Trong mẫu không giới hạn có tính cách giả thuyết (hình 5.8a), điều rõ ràng là sự tương quan giữa điểm số X(trắc nghiệm) và Y(thành tích) là hoàn toàn cao. Hình 5.8b chỉ ra mẫu giới hạn mà không có nhân viên thực hiện kém nào được đại diện. Sự tương quan giữa X và Y trong hình này là thấp hơn ở hình 5.8a. Tuy nhiên, bằng cách lựa chọn mẫu đại diện để tham gia vào việc nghiên cứu tính hiệu lực, chuyên gia nguồn nhân lực có thể giảm thiểu giới hạn dãy, mặc dầu không thể loại bỏ nó. Hoặc chuyên gia nguồn nhân lực có thể sử dụng các phương pháo thống kê được xây dựng. (a) Không giới hạn (b) Có giới hạn 100 100 80 80 Thành tích (Y) Thành tích (Y) 60 60 40 40 20 20 0 0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 5 10 15 20 25 30 35 40 45 Điểm số dự báo (X) Điểm số dự báo (X) Hình 5.8 - Tác động của giới hạn dãy
  4. Chiêu mộ và lựa chọn - 17 Hiệu lực dự báo Phân tích công việc Lựa chọn biến số trắc nghiệm dự báo Quyết định dựa trên các biến số tiêu chuẩn (thành tích công việc) Hiệu lực dự báo Hiệu lực đồng thời Lựa chọn mẫu ứng viên Thu thập dữ liệu dự báo Lựa chọn mẫu nhân viên hiện tại Thuê mà không xét đến điểm số của dự báo (trắc nghiệm) Chờ đợi nhân viên học việc Thu thập dữ liệu dự báo và dữ liệu tiêu chuẩn Thu thập dữ liệu tiêu chuẩn Dự báo tương quan và điểm số tiêu chuẩn Điểm số dự báo và điểm số tiêu chuẩn có liên quan với nhau không? K C Thực hiện nghiên cứu khác Sử dụng nhà sự đoán để với nhà dự đoán khác nhau lựa chọn nhân viên sau. Hình 5.9 - Quy trình hiệu lực đồng thời và hiệu lực dự báo Phương pháp khác để xác định hiệu lực liên quan đến tiêu chuẩn là thông qua hiệu lực dự báo, một quy trình sử dụng các điểm số của ứng viên thực tế, những người đã được trắc nghiệm (thời điểm 1) và sau đó được tuyển dụng. Các điểm số trắc nghiệm của họ không được sử dụng bởi các chuyên gia nguồn nhân lực trong việc xác định ai sẽ được tuyển dụng, vì trắc nghiệm chưa được chứng minh là có hiệu lực. Thay vào đó, các chuyên gia nguồn nhân lực đo lường
  5. 18 - Quản trị nguồn nhân lực thành tích công việc của những nhân viên mới được tuyển dụng sau một khoảng thời gian (thời điểm 2) và sau đó tính toán hệ số tương quan giữa điểm số trắc nghiệm ở thời điểm 1 và điểm số thành tích ở thời điểm 2. Các vấn đề liên quan đến hiệu lực dự báo là kích cỡ mẫu và thời gian cần thiết để thực hiện nghiên cứu dự báo chuẩn. Việc so sánh quy trình hiệu lực đồng thời và hiệu lực dự báo được trình bày ở hình sau (Hình 5.9). Trong thực tế, có thể có một số khác nhau cơ bản về quy trình hiệu lực đồng thời và hiệu lực dự báo được minh hoạ ở hình này. Chuyên gia nguồn nhân lực phải lựa chọn quy trình cụ thể thích hợp cho các công việc, nhân viên, ứng viên và trắc nghiệm dự báo nên được nghiên cứu kỹ. c. Các vấn đề đặc biệt trong hiệu lực Cùng với việc xem xét hiệu lực nội dung và hiệu lực liên quan đến tiêu chuẩn của trắc nghiệm lựa chọn, chuyên gia nguồn nhân lực cũng quan tâm đến các vấn đề khác. Hai trong số này liên quan đến tính công bằng trong lực chọn cả nhân viên đa số và thiểu số. “Công bằng trắc nghiệm” xem xét đến liệu rằng trắc nghiệm có dự báo chính xác và công bằng thành tích tương lai của nhóm đa số và thiểu số hay không. Vấn đề thứ ba là liệu rằng trắc nghiệm có hiệu lực cho một công việc trong tổ chức này cũng sẽ dự báo hiệu lực về thành tích cho công việc khác hoặc tổ chức khác. 2. Ra quyết định trong lựa chọn Thông thường, chuyên gia nguồn nhân lực thu thập một vài loại thông tin về ứng viên trước khi ra quyết định lựa chọn. Trong tiến trình, chuyên gia sử dụng quy trình lựa chọn được phê chuẩn và tin cậy để thu thập thông tin này. Nhưng chuyên gia nguồn nhân lực hãy còn khó khăn trong việc làm thế nào sử dụng những nguồn thông tìn này để ra quyết định cuối cùng tốt nhất về việc tuyển chọn hay không. Ít nhất có 4 phương pháp khác nhau để kết hợp thông tin và ra quyết định lựa chọn: các mô hình cộng thêm, đa giới hạn, đa chướng ngại và đáp ứng hồ sơ. a. Các mô hình cộng thêm Các mô hình cộng thêm là cách tiếp cận thuần thống kê cho việc ra quyết định lựa chọn. Khi sử dụng các mô hình cộng thêm, chuyên gia nguồn nhân lực đơn giản là chuyển đổi điểm số trắc nghiệm nhận được bởi ứng viên sang một vài hệ đo lường thông thường và sau đó cộng chúng lại. Ứng viên với tổng số cao nhất sẽ được tuyển dụng. Trong một vài quy trình cộng thêm, điểm số trắc nghiệm được cho trọng số để điểm số cao/hoặc thấp trong một trắc nghiệm có thể đóng góp nhiều vào tổng điểm của ứng viên hơn các trắc nghiệm khác. Hồi quy đa biến là hình thức đặc biệt của quy trình cộng thêm mà qua đó phương trình được xác định, sử dụng quy trình thống kê, đại diện phù hợp nhất mối quan hệ tuyến tính giữa biến tiêu chuẩn và biến dự báo mà đã được cho trọng số để tối đa hoá mối quan hệ của nó với tiêu chuẩn. b. Đa giới hạn Trong phương pháp đa giới hạn, các ứng viên được yêu cầu phải có một vài mức độ tối thiểu về mỗi biến dự báo. Đa giới hạn là mô hình lựa chọn không bù trừ. Thuận lợi của phương pháp đa giới hạn đó là nó đơn giản và dễ giải thích cho nhà quản trị. Tuy nhiên, nó lại khó khăn hơn trong việc vận dụng. c. Đa chướng ngại Trong cả hai quy trình các mô hình cộng thêm và đa giới hạn, ra quyết định là không liên tiếp. Mỗi ứng viên tham gia tất cả các trắc nghiệm dự báo và sau đó tổ chức ra quyết định tuyển dụng hoặc không. Tuy nhiên, thường xuyên hơn, lựa chọn là tiến trình liên tiếp, mà ở đó các ứng
  6. Chiêu mộ và lựa chọn - 19 viên trải qua một vài giai đoạn lựa chọn (với các cá nhân bị loại bỏ ở mỗi giai đoạn) sau đó chỉ một vài người được tuyển dụng. Phương pháp đa chướng ngại có thể được mô tả như là cách tiếp cận đa giới hạn liên tiếp. d. Đáp ứng hồ sơ Đáp ứng hồ sơ giả sử rằng có một vài mức độ lý tưởng của các biến dự báo mà một ứng viên phải đáp ứng hoặc vượt trội một vài mức độ tối thiểu. Trong đáp ứng hồ sơ, các nhóm các ứng viên giỏi và kém được xác định. Các cá nhân trong các nhóm này được đo lường trên một vài biến số dự báo. Nếu các ứng viên viên giỏi đạt được điểm số khác với các ứng viên kém theo một đặc điểm, khi đó biến số là hữu ích trong việc lựa chọn ứng viên giỏi. Khi một vài biến số tạo sự khác biệt giữa ứng viên giỏi và kém đã được xác định, hồ sơ (tiểu sử) lý tưởng của các nhân viên thành công được xây dựng. Trong việc đáp ứng hồ sơ, ứng viên được tuyển dụng là những người đáp ứng nhiều nhất hồ sơ của nhân viên thành công. So sánh các quyết định được tạo thành bởi đáp ứng hồ sơ, mô hình cộng thêm, đa giới hạn được trình bày ở bảng sau. Một thủ tục thông thường để xác định mức độ đáp ứng hồ sơ là nhóm gộp (tổng lại) sự khác nhau bình phương giữa điểm số trên mỗi biến dự báo và điểm số hồ sơ cho biến số đó. 3. Lợi ích của hệ thống lựa chọn Trong việc đánh giá hệ thống lựa chọn, chuyên gia nguồn nhân lực cần phải biết liệu rằng hệ thống có ích lợi cho tổ chức hay không. Lợi ích liên quan đến giá trị chung của hệ thống lựa chọn đối với tổ chức; nó tương tự như phân tích chi phí-lợi ích. Cách nhìn truyền thống về lợi ích của hệ thống lựa chọn gồm ba nhân tố chính: hiệu quả của lựa chọn, độ lệch chuẩn của thành tích về tiền tệ, và chi phí liên quan đến lựa chọn. a. Hiệu quả của lựa chọn Bất cứ khi nào tổ chức ra quyết định lựa chọn, một số là chính xác nhưng một số khác thì không. Các mô hình sau mô tả mối quan hệ giữa X, một vài biến số dự báo và Y, thành tích tương lai của nhóm ứng viên, trong đó những người ở dưới đường (đường ngang) là những người không thành công. Đường thẳng đứng đại diện cho điểm số giới hạn về một biến số dự báo được thiết lập bởi tổ chức. Những cá nhân có điểm số ở bên phải đường sẽ được tuyển dụng; những cá nhân ở bên trái đường sẽ không được tuyển dụng. • Phần tư A: Xác nhận đúng, qua đó các cá nhân được thuê sẽ trở thành những nhân viên giỏi. • Phần tư B: Từ chối sai, qua đó các cá nhân không được tuyển dụng nhưng sẽ tạo ra những người thực hiện tốt công việc • Phần tư C: Từ chối đúng, qua đó cá nhân sẽ không thể thực hiện công việc không được tuyển dụng. • Phần tư D: Xác nhận sai, qua đó cá nhân được tuyển dụng sẽ trở thành những nhân viên kém Nếu không có hệ thống lựa chọn được sử dụng và tổ chức đơn giản tuyển dụng nhân viên dựa trên cơ sở ngẫu nhiên, tỷ lệ những nhân viên giỏi được tuyển dụng so với nhân viên kém được tuyển dụng sẽ bằng (A+B)/(A+B+C+D). Nếu điểm số của biến dự báo được sử dụng để lựa
  7. 20 - Quản trị nguồn nhân lực chọn nhân viên, tỷ lệ nhân viên thành công so với không thành công sẽ là A/(A+D). Hiệu quả của hệ thống lựa chọn vì vậy có thể được định nghĩa như: (A + B) A E= − (A + D) (A + B + C + D) (a) (b) Điểm giới hạn Điểm giới hạn 30 B 30 B A A 25 25 20 20 Thành tích (Y) Thành tích (Y) 15 15 C D C D 10 10 5 5 0 0 15 5 10 20 25 30 15 5 10 20 25 30 Biến số dự báo (X) Biến số dự báo (X) Từ chối đúng Xác nhận đúng Từ chối sai Xác nhận sai (c) Đ. giới hạn B Đ. giới hạn A 30 + + ++ ++ + + ++ + + 25 + + + ++ + + + + + ++ + + + ++ + + + Những người sẽ thực hiện công việc 20 + + ++ + + Thành tích (Y) + ++ + + + + ++ + thành công + 15 - Những người sẽ thực hiện không tốt -- - - -- - - --- - - --- - - 10 - -- - - --- - - 5 - -- -- - - - - -- 0 15 5 10 20 25 30 Biến số dự báo (X) Hình 5.10 – Các loại quyết định lựa chọn Hiệu quả của lựa chọn là phạm vi mà qua đó hệ thống gia tăng tỷ lệ lựa chọn thành công. Giả sử rằng không có quy trình lựa chọn nào được sử dụng bởi tổ chức. Và nếu tổ chức đang sử dụng một vài hệ thống hiện tại, hiệu quả của hệ thống mới có thể được định nghĩa như là: E = [A /(A + D )]n − [A /(A + D )]0 Trong đó: n = Hệ thống lựa chọn mới
  8. Chiêu mộ và lựa chọn - 21 o = Hệ thống lựa chọn cũ Trong phương trình này, mục tiêu duy nhất của tổ chức là tối đa hoá số lượng các quyết định lựa chọn đúng và tối thiểu các quyết định lựa chọn sai. Không quan tâm đối với các từ chối sai. Ba nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của hệ thống lựa chọn: tính hiệu lực, tỷ lệ lựa chọn và tỷ lệ thành công cơ sở. Tính hiệu lực. Tính hiệu lực, thể hiện mức độ quan hệ giữa biến số dự báo và biến số thành tích công việc, nó ảnh hưởng đến tính hiệu quả của hệ thống lựa chọn. Mối quan hệ càng chặt chẽ thì dự báo càng hiệu lực và độ chính xác của quyết định lựa chọn dựa trên dự báo đó càng cao. Tỷ lệ lựa chọn. Nhân tố thứ hai ảnh hưởng đến hiệu quả là tỷ lệ lựa chọn. Tỷ lệ lựa chọn (Selection ratio - SR) được định nghĩa là số lượng vị trí trống chia cho số lượng ứng viên. Thông thường khi tỷ lệ lựa chọn giảm, hiệu quả sẽ gia tăng nếu hiệu lực của trắc nghiệm là hằng số. Tuy nhiên, nếu SR là rất nhỏ (ví dụ một vị trí trống cho 1000 ứng viên), chi phí cho trắc nghiệm ứng viên có thể quá tải cho lợi ích về lựa chọn đúng một người cho công việc đã có. Tỷ lệ thành công cơ sở. Tỷ lệ thành công cơ sở (Base rate of succes - BRS), nhân tố thứ ba ảnh hưởng đến hiệu quả, là tỷ lệ những ứng viên thực hiện công việc thành công khi họ được lựa chọn một cách ngẫu nhiên, mà không sử dụng hệ thống lựa chọn. Thông thường, giá trị trung bình của BRS (0,4 đến 0,6) có tiềm năng nhất cho hiệu quả lựa chọn tăng thêm. Các bảng Taylor-Russell đã được xây dựng để mô tả sự thay đổi của hiệu quả như là hàm số của tính hiệu lực, tỷ lệ lựa chọn và tỷ lệ thành công cơ sở. Bảng sau hàm chứa tỷ lệ của những bảng này. Biểu 5.2 - Bảng Taylor-Russell Tỷ lệ thành công Cấp độ hiệu cơ sở (BRS) lực Tỷ lệ lựa chọn (SR) .30 r .05 .10 .20 .30 .40 .50 .60 .70 .80 .90 .95 .00 .30 .30 .30 .30 .30 .30 .30 .30 .30 .30 .30 .25 .50 .47 .43 .41 .39 .37 .36 .34 .33 .32 .31 .50 .72 .65 .58 .52 .48 .44 .41 .38 .35 .33 .31 .75 .93 .86 .76 .67 .59 .52 .47 .42 .37 .33 .32 .50 r .05 .10 .20 .30 .40 .50 .60 .70 .80 .90 .95 .00 .50 .50 .50 .50 .50 .50 .50 .50 .50 .50 .50 .25 0.70 .67 .64 .62 .60 .58 .56 .55 .54 .52 .51 .50 .88 .84 .78 .74 .70 .67 .63 .60 .57 .54 .52 .75 .99 .97 .92 .87 .82 .77 .72 .66 .61 .55 .53 .70 r .05 .10 .20 .30 .40 .50 .60 .70 .80 .90 .95 .00 .70 .70 .70 .70 .70 .70 .70 .70 .70 .70 .70 .25 .86 .84 .81 .80 .78 .77 .76 .75 .73 .72 .71 .50 .96 .94 .91 .89 .87 .84 .82 .80 .77 .74 .72 .75 1.00 1.00 .98 .97 .95 .92 .89 .86 .81 .76 .73
  9. 22 - Quản trị nguồn nhân lực Các số liệu trong bảng biểu hiện tỷ lệ các ứng viên được lựa chọn sẽ thành công. Ba tỷ lệ thành công cơ bản khác nhau được minh hoạ cùng với bốn mức độ khác nhau của hiệu lực và tỷ lệ lựa chọn trải dài từ .05 đến .95. Các bảng có thể được sử dụng để xác định hiệu quả của hệ thống lựa chọn so sánh với không có hệ thống lựa chọn, hoặc chúng có thể được sử dụng để so sánh một hệ thống lựa chọn với hệ thống khác. Đối với mỗi tỷ lệ thành công cơ sở, hàng tương ứng với r =0.00 đại diện cho việc không sử dụng hệ thống lựa chọn, mà mỗi số trong hàng tương đương với tỷ lệ cơ sở. b. Độ lệch chuẩn của thành tích theo tiền tệ Các mô hình tiện ích yêu cầu khái niệm độ lệch chuẩn của thành tích theo tiền tệ (Standard deviation of performance in dollars - SDP) trước khi lợi ích có thể được tính toán. Biến số này khó đo lường hơn tỷ lệ lựa chọn hoặc tỷ lệ cơ sở. Nó giả sử rằng một người sử dụng lao động có thể đặt giá trị tiền tệ vào thành tích của nhân viên. Nhiều nhà nghiên cứu cố gắng đo lường thành tích theo khía cạnh tiêu chuẩn tiền tệ. Những người đề xuất chỉ tiêu tiền tệ đề nghị rằng một tổ chức nên đo lường kết quả của một nhân viên và định vị giá trị tiền tệ trên kết quả đó. Tổ chức cũng có thể tính toán chi phí nhân viên cho công ty (ví dụ lương, phúc lợi...). Giá trị tiền tệ của nhân viên sẽ tương đương với lợi ích mà nhân viên tạo ra trừ đi chi phí để sử dụng nhân viên đó. Tuy nhiên, một số công việc không thể tính toán dễ dàng chi phí trừ đi lợi ích. Khi đó người ta sử dụng thủ tục kế toán chi phí, hoặc sử dụng cách phân loại bởi các chuyên gia công việc. c. Chi phí liên quan đến lựa chọn Một trong số các chi phí dễ thấy nhất là chi phí lựa chọn. Những chi phí cho lựa chọn bao gồm chi phí để thử nghiệm các vật liệu cùng với số tiền phải trả cho thời gian các cá nhân tham gia vào việc thiết lập và vận hành tiến trình lựa chọn. Chi phí thiết lập bao gồm các chi phí liên quan đến việc phát triển, kiểm soát và phân tích các nghiên cứu được công nhận là có giá trị trước khi thực hiện hệ thống mới. Các chi phí xác nhận hợp lệ này bao gồm những chi phí cho các nhà tư vấn hoặc nhân viên nội bộ để phát triển quy trình hiệu lực, kiểm soát nghiên cứu theo tiến trình, và sau đó phân tích các dữ liệu được thu thập trong nghiên cứu. Trong trường hợp của nghiên cứu hiệu lực dự báo, tất cả các chi phí liên quan đến việc tuyển chọn ứng viên cần phải được đánh giá. Đối với các nghiên cứu hiệu lực đồng thời, giá trị về thời gian của nhân viên hiện tại dành cho tiến trình hiệu lực cần phải được đánh giá. Đối với hiệu lực nội dung, giá trị về thời gian của các chuyên gia công việc để đánh giá hiệu lực nội dung của trắc nghiệm lựa chọn cũng cần phải được tính toán. 4. Các nhân tố chiến lược trong lợi ích Ngoài các nhân tố đóng góp vào lợi ích của quy trình lựa chọn được mô tả ở trên, còn có nhiều nhân tố khác có tầm ảnh hưởng chiến lược đến giá trị của chương trình lựa chọn. Hầu hết các quan điểm của lợi ích giả sử rằng mối quan hệ tuyến tính giữa thành tích cá nhân và giá trị tài chính của thành tích đó cho tổ chức. Trạng thái của thị trường lao động cũng có thể ảnh hưởng đến lợi ích. Quy trình lựa chọn mà cho phép một công ty tuyển dụng những nhân viên có thành tích cao được xem là lợi ích. Tuy nhiên, những nhân viên này có thể yêu cầu lương cao hơn, đặc biệt với những nhân viên cho các công việc đang khan hiếm trên thị trường về cung lao động. Chi phí tăng về lương sẽ làm giảm lợi ích chung của quy trình tuyển dụng. Một quy trình lựa chọn có thể tuyển dụng nhân viên,
  10. Chiêu mộ và lựa chọn - 23 những người có hiệu suất rất cao ở giai đoạn trưởng thành (những nhân viên đã trưởng thành, hàm ý về tuổi tác và thời gian làm việc lâu) nhưng lại phục vụ cho công ty ít thời gian. Một quy trình lựa chọn khác tuyển dụng nhân viên có ít giá trị ban đầu cho tổ chức nhưng hiệu suất của họ gia tăng cùng với thời gian họ phục vụ cho tổ chức. Quy trình lựa chọn nào có lợi ích cao nhất? 5. Đánh giá ứng viên Tiến trình lựa chọn để đánh giá ứng viên theo sau hoạch định nguồn nhân lực và chiêu mộ. Mục đích của lựa chọn là xác định trong số các ứng viên, người nào sẽ được tuyển dụng. a. Tổng quan về tiến trình lựa chọn Lợi ích của lựa chọn chiến lược Các tổ chức rất khác nhau về sự phức tạp của hệ thống lựa chọn. Một vài tổ chức chỉ đơn thuần xem lướt qua và tiến hành những điều chính yếu, phỏng vấn không chính thức trong khi số khác lại đi sâu vào trắc nghiệm, phỏng vấn lặp lại, kiểm tra hồ sơ...Cách sau tốn kém hơn cho mỗi ứng viên nhưng lại có nhiều lợi ích. Lựa chọn một cách kỹ lưỡng là cần thiết để có được những nhân viên có khả năng học và nắm bắt được công việc. Các tổ chức cần có những thành viên, những người giàu kỹ năng và được động viên để thực hiện vai trò tổ chức của họ. Hoặc những thành viên như thế được xác định qua việc lựa chọn kỹ càng hoặc những nỗ lực được thực hiện để phát triển họ sau khi đã tuyển dụng bằng việc đào tạo bài bản và xã hội hoá. Vì vậy lựa chọn lướt qua có thể gia tăng mạnh chi phí đào tạo và kiểm soát, trong khi dành nhiều thời gian hơn cho tiến trình lựa chọn sẽ giảm thiểu các khoản chi phí này. Lợi ích của quy trình lựa chọn thích hợp có thể rất lớn. Lựa chọn đúng người cũng là yếu tố then chốt để thực hiện chiến lược thành công. Chiến lược tổ chức có thể ảnh hưởng nhiệm vụ công việc và thiết kế công việc mà công việc nên hướng dẫn lựa chọn. Một cách tiếp cận khác đối với lựa chọn chiến lược gợi ý rằng nguồn nhân lực đi đầu và dẫn đến chiến lược hơn là ngược lại: “Các công ty đang bắt đầu nhận thức rằng nền tảng cho chiến lược cạnh tranh của họ là chất lượng của tài sản con người.” Có nhân viên sáng tạo, linh hoạt và xuất sắc có thể là lợi thế cạnh tranh ổn định và lâu dài hơn là lợi thế về công nghệ hoặc marketing. Những nhân viên như vậy có khả năng tạo ra và thực hiện một loạt các chiến lược mới để đáp ứng nhanh chóng với thay đổi của môi trường. Điều này gợi ý rằng tổ chức nên tuyển dụng những cá nhân tốt nhất , với khái niệm “tốt nhất” nghĩa là giỏi nhất về trí thông minh và kỹ năng cá nhân, vì nhiều công việc trong các tổ chức thay đổi nhanh chóng liên quan đến nhóm làm việc, thương lượng và quản trị mối quan hệ. Quy trình sử dụng các công cụ lựa chọn được mô tả ở sơ đồ sau (Hình 5.11). Hầu hết các tổ chức sử dụng nhiều công cụ lựa chọn để thu thập thông tin về các ứng viên. Những công cụ này được sử dụng liên tiếp, trong lộ trình ra quyết định qua nhiều giai đoạn: Các ứng viên phải hoàn thành tốt ở công cụ lựa chọn ở giai đoạn đầu để tiếp tục vào vòng trong. Hình ở trên mô tả trật tự điển hình cho việc sử dụng các công cụ lựa chọn. Thông thường, bộ phận nguồn nhân lực chịu trách nhiệm cho việc đánh giá sơ bộ hồ sơ ứng viên, tiến hành phỏng vấn sơ bộ và quản lý trắc nghiệm khả năng. Sau đó một hoặc nhiều nhà quản trị hoặc giám sát viên phỏng vấn các ứng viên vào vòng trong. Cuối cùng, trong khi chờ đợi kiểm tra việc đáp ứng sự tham khảo, đề nghị được thiết lập, khám sức khoẻ được hoàn tất và tuyển dụng được thông qua lần cuối cùng.
  11. 24 - Quản trị nguồn nhân lực Hồ sơ xin việc Loại một vài ứng viên Phỏng vấn sơ bộ Loại một vài ứng viên Trắc nghiệm Loại một vài ứng viên Phỏng vấn sâu Loại một vài ứng viên Sưu tra lý lịch Loại một vài ứng viên Đề nghị bị từ chối bởi Đề nghị điều kiện một vài ứng viên Kiểm tra sức khoẻ Tuyển dụng Hình 5.11 - Trật tự điển hình cho việc sử dụng các công cụ lựa chọn b. Mẫu đơn xin việc và lý lịch * Sử dụng hiệu quả và hợp pháp mẫu đơn xin việc Xét đơn xin việc và lý lịch là giai đoạn lựa chọn đầu tiên cho hầu hết các công việc. Mẫu đơn xin việc điển hình yêu cầu các thông tin về giáo dục, lịch sử làm việc, và các kỹ năng, cũng như tên và địa chỉ của ứng viên và một vài đối tượng tham khảo. Hầu hết các thông tin cần căn cứ theo sự thật và có thể được xác nhận, chẳng hạn như bằng cấp hoặc ngày được tuyển dụng. Các tổ chức có thể sử dụng dữ liệu ở mẫu đơn xin việc áp dụng trọng số, trong đó chỉ có những yếu tố có liên quan đến sự thành công ở công việc sau này mới được cho điểm và sử dụng trong việc ra quyết định. Quy trình mẫu xin việc trọng số (WAB) được nhìn nhận là tạo ra các điểm số dự báo thành tích, thời gian phục vụ. Vì các trọng số này được thông qua và áp dụng một cách nhất quán với tất cả ứng viên. * Sử dụng dữ liệu tiểu sử, kinh nghiệm và thành tựu cho lựa chọn Tiểu sử là thuật ngữ được sử dụng ám chỉ đến bất kỳ loại thông tin nào về lịch sử cá nhân, kinh nghiệm hoặc giáo dục. Một vài tổ chức sử dụng bảng câu hỏi thông tin về tiểu sử thêm vào mẫu đơn xin việc thông thường. Các bảng câu hỏi về tiểu sử này có thể chi tiết hơn mẫu đơn xin việc và có thể được cho điểm dựa trên các phân tích thống kê rất phức tạp. Trong hầu hết các nghiên cứu so sánh hiệu lực của các loại dự báo khác nhau, dữ liệu tiểu sử là công cụ dự báo mạnh nhất về hành vi kế tiếp.
  12. Chiêu mộ và lựa chọn - 25 1 2 3 Xác định mức độ tiêu chuẩn Lựa chọn ngẫu nhiên 75 người Sử dụng mẫu trình bày, tính tỷ thấp và cao (ít nhất 125 người thuộc nhóm thấp và 75 người lệ % của nhóm tiêu chuẩn cao thuộc nhóm cao như là mẫu và thấp, những người được lựa phải đáp ứng mỗi mức độ) trình bày. Phần còn lại là mẫu từ chọn cho mỗi đáp ứng chối 8 4 Nếu tương quan trong mẫu từ Loại bỏ % nhóm tiêu chuẩn thấp chối có ý nghĩa, thiết lập giới từ % nhóm tiêu chuẩn cao. Làm hạn và bắt đầu sử dụng điểm số tròn để tất cả trọng số là số WAB để lựa chọn nhân viên nguyên nằm giữa -10 và +10 mới 6 Tương quan của WAB với thành viên nhóm tiêu chuẩn (1= 7 5 thành viên nhóm cao, 0= thành Áp dụng trọng số cho mẫu từ Tính điểm WAB cho mỗi thành viên nhóm thấp) để xem độ chối và sự liên quan của điểm viên của mẫu trình bày bằng chính xác của trọng số dự báo việc tổng các trọng số cho mỗi WAB với thành viên nhóm thành viên nhóm đáp ứng Hình 5.12 - Các bước trong việc thiết lập mẫu đơn xin việc trọng số c. Trắc nghiệm Trắc nghiệm là cách thức thu thập mẫu tiêu chuẩn hoá của hành vi. Trắc nghiệm được chuẩn hoá về nội dung, điểm số và cách thức kiểm soát. Nghĩa là, trắc nghiệm được tiến hành bất cứ lúc nào, các câu hỏi trong đó là điển hình hoặc tương đương ngay cả trong những trường hợp khi tiến hành trắc nghiệm với nhiều hình thức. Nguyên tắc cho điểm là nhất quán và là hằng số. Sự kiểm soát cũng như vậy. Tất cả những người thực hiện trắc nghiệm có cùng chung hướng dẫn, với cùng thời gian để thực hiện, và tiến hành trắc nghiệm ở cùng điều kiện về ánh sáng, tiếng ồn và nhiệt độ. Bởi vì trắc nghiệm là chuẩn hoá, chúng cung cấp thông tin về ứng viên và được dùng để so sánh với tất cả các ứng viên khác. * Trắc nghiệm và cơ hội làm việc công bằng Nếu trắc nghiệm sử dụng có thể vi phạm và gây khó khăn cho các nhóm thiểu số hoặc các nhóm được bảo vệ (bởi luật pháp). Thì trắc nghiệm không được sử dụng nhằm tránh các phiền phức về luật pháp và chi phí cho việc xác minh tính hiệu lực. * Trắc nghiệm khả năng giấy-và-bút Trắc nghiệm giấy bút về khả năng nhận thức lựa chọn thích hợp được nhìn nhận là có tính hiệu lực cao và lợi ích đối với tiến trình lựa chọn. Các trắc nghiệm như thế này thường được xây dựng bởi các nhà tâm lý học và sau đó tổ chức sẽ mua về từ các công ty xuất bản. Các bài trắc nghiệm hiện có được sử dụng để trắc nghiệm cho nhiều khả năng chẳng hạn như trí thông minh thông thường, khả năng số học, khả năng từ vựng, khả năng về văn phòng (văn thư, thư ký), khả năng lý luận và lý thuyết, và năng khiếu nhanh nhẹn (máy móc). Một vài tổ chức lớn hoặc các ngành công nghiệp thuê các nhà tâm lý xây dựng và thông qua các trắc nghiệm thích hợp với nhu cầu cụ thể của họ.
  13. 26 - Quản trị nguồn nhân lực Trắc nghiệm có thể dùng đo lường các khả năng rất cụ thể và liện quan đến công việc, cũng có thể dùng để đo lường các nhân tố phức tạp hơn như khả năng nhận thức chung hay trí thông minh (IQ). Lựa chọn trắc nghiệm. Qui trình lựa chọn trắc nghiệm thông qua kinh nghiệm bắt đầu với phân tích công việc, tiếp theo lựa chọn công cụ dự báo, thiết lập tiêu chuẩn, thu thập và phân tích dữ liệu. Lựa chọn các công cụ dự báo là rất quan trọng. Bởi vì có quá nhiều trắc nghiệm được xuất bản, công ty phải thu thập thông tin và cân nhắc nó một cách kỹ lưỡng trước khi lựa chọn một vài trắc nghiệm cho các nỗ lực về hiệu lực của trắc nghiệm. Những đặc điểm cần xem xét ở các trắc nghiệm xuất bản bao gồm những điều sau: • Đánh giá khả năng cụ thể. Trắc nghiệm có đánh giá đặc điểm hoặc khả năng thích hợp cho công việc được đề cập. • Độ tin cậy. Trắc nghiệm phải có sự nhất quán nội bộ cao và đáng tin qua thời gian. Các trắc nghiệm được sử dụng để ra các quyết định quan trọng về các cá nhân, như trong tiến trình lựa chọn, phải có độ tin cậy cao (ít nhất là 80% hoặc cao hơn). • Quy trình xây dựng trắc nghiệm thích hợp. Xây dựng trắc nghiệm yêu cầu công phu, kỹ lưỡng và khoa học, đó không chỉ đơn thuần là các câu hỏi. Nhà quản trị nguồn nhân lực nên kiểm tra để đảm bảo rằng quy trình xây dựng trắc nghiệm quy củ được theo sát. Các quy trình này bao gồm việc phân tích cấu thành và nhân tố, cố gắng tạo ra các trắc nghiệm thành công cho các kích cỡ mẫu lớn, phát triển các bằng chứng cho hiệu lực cấu trúc của trắc nghiệm, và biên soạn dữ liệu có tính cách quy chuẩn của mẫu trắc nghiệm lớn. • Dễ quản lý, kiểm soát. Các chuyên gia nguồn nhân lực phải xem xét liệu rằng trắc nghiệm có thể được giao cho một nhóm người ở cùng một thời điểm hoặc liệu rằng nó cần được kiểm soát, quản trị một cách riêng lẻ; bao nhiêu thời gian và sự tinh thông cần có để quản trị, cho điểm và làm sáng tỏ trắc nghiệm; và vật liệu dùng cho trắc nghiệm tốn kém bao nhiêu. • Sự thành công quá khứ. Các chuyên gia nguồn nhân lực nên tìm hiểu các nghiên cứu có có hiệu lực quá khứ ở các công việc tương tự hay không, và dữ liệu của trắc nghiệm trong tiến trình có tạo cơ hội làm việc công bằng. Trắc nghiệm vi tính hoá. Chúng ta xem như trắc nghiệm khả năng ở trên như trắc nghiệm giấy và bút để phân biệt chúng với trắc nghiệm thành tích (mẫu công việc và trắc nghiệm đào tạo), mà sẽ được thảo luận ở phần tiếp theo. Tuy nhiên, ngày nay một vài trắc nghiệm chuẩn hoá được quản lý và cho điểm bằng vi tính. Điều này có thể gia tăng tốc độ của trắc nghiệm và cho điểm và giảm thiểu nhu cầu về các nhà quản trị trắc nghiệm đã được đào tạo. * Mẫu công việc và trắc nghiệm đào tạo Mẫu công việc và trắc nghiệm đào tạo yêu cầu ứng viên thực hiện một phần công việc để chứng tỏ rằng họ có những kỹ năng để thực hiện công việc hoặc có khả năng học việc. Những trắc nghiệm này được phát triển một cách trực tiếp từ phân tích công việc hoàn chỉnh và được kiểm tra hai lần bởi một thành viên trong nhóm các chuyên gia công việc, họ phải theo sát kết quả và có hiệu chỉnh tức thời cũng như là xem xét về hiệu lực nội dung. Mẫu công việc và trắc nghiệm đào tạo là những hình thức trắc nghiệm phổ biến nhất hiện nay được áp dụng cho mục đích tuyển nhân viên.
  14. Chiêu mộ và lựa chọn - 27 Trắc nghiệm mẫu công việc. Trắc nghiệm mẫu công việc được sử dụng khi ứng viên được kỳ vọng là có một hoặc nhiều hơn các kỹ năng công việc then chốt- kỹ năng mà tổ chức không có khuynh hướng dạy cho những nhân viên mới. Sau khi thực hiện phân tích công việc bài bản để xác định mức độ và nhu cầu về các loại kỹ năng này, chuyên gia HR có thể xây dựng trắc nghiệm mẫu công việc chuẩn hoá. Người phụ trách trắc nghiệm đưa cho các ứng viên mẫu giống nhau, thiết bị, hướng dẫn và thời gian để hoàn tất trắc nghiệm. Tiêu chuẩn điểm số được xây dựng trước và áp dụng cho tất cả ứng viên một cách nhất quán. Trắc nghiệm mẫu công việc có thể thiết kế bằng các trò chơi đóng vai, cũng có thể là trắc nghiệm giấy-và-bút về kiến thức công việc. Có hai điểm quan trọng cần nhớ về trắc nghiệm mẫu công việc. Trước hết, trắc nghiệm mẫu công việc không cần đại diện cho toàn bộ công việc. Một vài kỹ năng có thể được đánh giá tốt hơn bằng phỏng vấn hoặc trắc nghiệm khả năng, và khía cạnh chính của công việc có thể được dạy một cách dễ dàng cho các nhân viên mới thì không nên đưa vào trong trắc nghiệm. Thứ hai, những kỹ năng được trắc nghiệm nên là những kỹ năng quan trọng, dù cho nó có tốn nhiều thời gian để tiến hành. Trắc nghiệm đào tạo. Trắc nghiệm đào tạo được sử dụng cho các công việc đặc thù, mà các kỹ năng đó của ứng viên không đòi hỏi phải biết về các kỹ năng khi áp dụng cho công việc. Phần đầu tiên của tiến trình này bao gồm giai đoạn hướng dẫn chuẩn hoá mà qua đó nhà đào tạo giới thiệu phần việc, giải thích và minh hoạ cho các bước, và để cho ứng viên thực hiện phần việc hoặc công việc một hoặc hai lần trong khi huấn luyện. Phần thứ hai là trắc nghiệm, khi đó ứng viên thực hiện công việc một vài lần mà không có dự theo dõi và huấn luyện. Người đào tạo quan sát và sử dụng bản kiểm tra để ghi lại các sai lệch (lỗi). Cuối cùng, người hướng dẫn đánh giá đào tạo chung của ứng viên (thông qua kết quả đào tạo). Mặt mạnh của mẫu công việc và trắc nghiệm đào tạo. Mẫu công việc và trắc nghiệm đào tạo có nhiều ưu điểm. Trước tiên, khi các nghiên cứu hiệu lực kinh nghiệm đã được thực hiện, năng lực dự báo của trắc nghiệm mẫu công việc được nhìn nhận là cao. Trắc nghiệm đào tạo được xem là hiệu lực vừa phải với thành công công việc, mặc dầu cường độ mối tương quan thi thoảng bị giảm qua thời gian. Thứ hai, mẫu công việc và trắc nghiệm đào tạo có thể được xây dựng và sử dụng ngay cả cho kích cỡ mẫu rất nhỏ, không giống như trắc nghiệm đòi hỏi hiệu lực kinh nghiệm. Thứ ba, các trắc nghiệm này có khuynh hướng có ít tác động ngược hơn trắc nghiệm khả năng nhận thức. Thứ tư, chúng tỏ ra hoàn hảo về hiệu lực; vì vậy các ứng viên thực hiện kém có thể dễ dàng hiểu được tại sao họ bị loại và sẽ không phàn nàn về sự đối xử không công bằng. Cuối cùng, vì mẫu công việc và trắc nghiệm đào tạo biểu hiện các khía cạnh quan trọng của công việc, chúng có thể được xem như là xem xét công việc thực tế. Các ứng viên không thích thú với mẫu công việc có thể lựa chọn việc bác bỏ đề nghị, vì vậy tiết kiệm cho tổ chức chi phí thuê mướn, đào tạo và khi đó giảm thiểu tốc độ thay thế nhân viên sớm. * Trắc nghiệm cá tính Không giống như các trắc nghiệm đã được thảo luận ở phần trước, trắc nghiệm cá tính không có câu trả lời đúng. Mục đích của trắc nghiệm này là phải gợi ra các câu trả lời tự mô tả. Tiêu chuẩn của tính cách phải được xây dựng cẩn thận như đánh giá khả năng nhận thức. Bảng liệt kê cá tính là tập hợp các câu hỏi điểm số khách quan hoặc bản kê sẵn mà qua đó người thực hiện trắc nghiệm sẽ trả lời có nếu nó phản ánh bản thân và trả lời không nếu không mô tả bản thân. Có nhiều bảng kê về tính cách được xây dựng công phu. Hầu hết chúng cho điểm
  15. 28 - Quản trị nguồn nhân lực về đặc điểm, chẳng hạn như ưu thế, sự khoan dung, sự hướng ngoại, sự gây hấn, lòng tự trọng, sự độc đoán, độc lập. Thậm chí các bản kê này được cho điểm một cách khách quan, việc chuyển dịch hợp lý những điều này có thể cần đào tạo đặc biệt. Trên thực tế hiệu lực dự báo về thực chất thấp hơn đối với các loại trắc nghiệm khác. Hiệu lực thấp này được quy cho là (1)ứng viên có thể dự đoán những đặc điểm cần có cho công việc đang đầu đơn và "giả mạo" điều đó, (2)ở cách thức trắc nghiệm cố tìm mối liên hệ giữa nhiều tiêu thức tính cách và thành tích công việc mà không nghĩ đến nhu cầu thực sự của công việc, và (3)sự thật là có rất ít công việc cần một và chỉ một loại tính cách mà thành công. Trắc nghiệm tính liêm khiết, chính trực. Nhiều công ty ngày nay quan tâm đến rà soát các ứng viên, những người có khả năng đánh cắp tài sản của công ty. Quan điểm này chỉ đúng một phần, vì các nghiên cứu chỉ ra rằng các nhân tố sau khi tuyển dụng chẳng hạn như công bằng lương, thoả mãn công việc, cơ hội để đánh cắp cũng đóng vai trò trong việc xác định việc trộm cắp thực tế. Hai phương pháp đã được sử dụng để xác định các nhân viên không trung thực tiềm tàng: kiểm tra bằng máy dò tìm và trắc nghiệm giấy và bút. d. Phỏng vấn Hầu như tất cả các tổ chức sử dụng phỏng vấn như là công cụ lựa chọn cho hầu hết các công việc. Thông thường nhất, các ứng viên được phỏng vấn bởi ít nhất hai người trước khi nhận được nghề nghị việc làm.Thông thường, một chuyên gia HR và một cá nhân là người sẽ giám sát trực tiếp ứng viên sau này tiến hành phỏng vấn. Đối với các công việc quản trị và các công việc chuyên nghiệp, thường phải để cho ứng viên có một cuộc phỏng vấn thứ ba với nhà quản trị cấp cao hơn, chẳng hạn như trưởng bộ phận. Xu hướng mới trong phỏng vấn là thực hiện phỏng vấn sơ bộ với các ứng viên từ xa thông qua cuộc thảo luận qua băng video (videoconferencing). Bởi vì phỏng vấn là quá phổ biến, một người có thể kỳ vọng rằng nó là công cụ lựa chọn rất hữu hiệu. Nhưng phỏng vấn không luôn đúng trong mọi trường hợp. • Độ tin cậy của phỏng vấn Trong bối cảnh của phỏng vấn, độ tin cậy là sự nhất trí, hoặc đồng ý, giữa hai phỏng vấn viên về đánh giá của họ đối với cùng một ứng viên. Điều này gọi là độ tin cậy giữa những người phỏng vấn. Nghiên cứu chỉ ra rằng chúng thường là thấp. Các phỏng vấn viên có thể hoàn toàn nhất trí về đánh giá toàn diện một ứng viên (một người là xuất sắc, một người là triển vọng mù mờ) và về các vấn đề thực sự (ứng viên đã làm hoặc không làm công việc tương tự trước đó), nhưng phỏng vấn viên dường như không thể đồng ý về các đặc điểm định hướng đến tương lai hoặc chủ quan(liệu rằng ứng viên có năng động sáng tạo hoặc có khả năng làm việc mà không có sự giám sát gắt gao hay không?) • Hiệu lực của phỏng vấn Phỏng vấn cũng có khuynh hướng nắm bắt được một số các khía cạnh khác nhau của ứng viên hơn là trắc nghiệm khả năng nhận thức. Phỏng vấn được thực hiện chính xác và thích đáng có thể giúp cho việc dự báo thành tích công việc. Vẫn còn nhiều phỏng vấn không hiệu quả. Thường là do các phỏng vấn viên thường phạm các lỗi phán đoán và giác quan và làm tác động đến hiệu lực đánh giá của họ.
  16. Chiêu mộ và lựa chọn - 29 Lỗi tương tự. Phỏng vấn viên thường nhanh chóng có thiện cảm và ưu ái với những ứng viên giống như học (về sở thích, sự quan tâm, và nền tảng cá nhân). Họ sẽ thờ ơ trong việc bố trí những người không giống họ. Khi sự giống nhau và khác nhau không liên quan đến công việc thì sự đánh giá của phỏng vấn viên ít nhiều cũng tạo ra sự khác nhau và sự không công bằng trong đánh giá các ứng viên. Lỗi tương phản. Khi một vài ứng viên được phỏng vấn kế tiếp nhau, người đánh giá có xu hướng so sánh mỗi ứng viên với các ứng viên trước đó hơn là so sánh với tiêu chuẩn tuyệt đối. Vì vậy ứng viên trunh bình có thể được đánh giá cao hơn mức trung bình nếu anh ta hoặc cô ta được phỏng vấn sau một hoặc hai ứng viên kém và thấp hơn mức trung bình nếu anh ấy hoặc cô ấy theo sau ứng viên xuất sắc. Quá nhấn mạnh vào thông tin bất lợi. Phỏng vấn viên có khuynh hướng nhìn nhận công việc của họ như là người tìm kiếm các thông tin tiêu cực hoặc các thông tin không đủ thuyết phục về các ứng viên. Vì vậy họ có thể phản ứng thái quá về một điểm nhỏ của thông tin này; cũng vậy, họ có khả năng thay đổi ý kiến ban đầu của họ về ứng viên từ tích cực sang tiêu cực hơn là từ tiêu cực sang tích cực. Thành kiến về giới tính, chủng tộc và diện mạo. Phỏng vấn viên có thể tỏ ra tin cậy nhiều hoặc ít về ứng viên trên cơ sở của chủng tộc, giới tính hoặc độ tuổi, thành kiến về diện mạo. Lỗi ấn tượng đầu tiên. Một vài phỏng vấn viên có xu hướng hình thành ấn tượng ban đầu về ứng viên một cách nhanh chóng dựa trên việc xem xét hồ sơ xin việc hoặc thời gian đầu của phỏng vấn. Ấn tượng này dựa chủ yếu trên một ít thông tin về ứng viên. Người ta cảnh báo rằng phỏng vấn viên bị ảnh hưởng bởi ấn tượng đầu tiên sẽ quyết định về ứng viên trong vòng 3 - 5 phút đầu tiên. Tuy nhiên việc đánh giá sơ bộ này có thể thay đổi khi thu thập được thông tin thêm. Nhưng phỏng vấn viên có thể lựa chọn các câu hỏi kế tiếp dựa trên ấn tượng ban đầu, trong nỗ lực xác nhận ấn tượng tốt hoặc xấu. Lỗi vầng hào quang (Lỗi Halo). Lỗi vòng hào quang xảy ra khi phỏng vấn viên bị ấn tượng bởi một đặc điểm nào đó của ứng viên và ảnh hưởng đến việc đánh giá của họ về các đặc điểm khác của ứng viên. Ví dụ nếu ứng viên tạo ấn tượng cho phỏng vấn viên như là nhiệt tình, phỏng vấn viên có thể đánh giá ứng viên cao trên các đặc điểm khác, chẳng hạn như kiến thức công việc, lòng trung thành và tính đáng tin cậy. Điều này đặc biệt xảy ra khi phỏng vấn viên được hỏi để đánh giá nhiều đặc điểm hoặc đánh giá các đặc điểm mà khó quan sát trong phỏng vấn ngắn. Các nhân tố không lời. Phỏng vấn viên có thể bị tác động bởi các nhân tố không lời trong phỏng vấn. Các ứng viên ăn mặc áo quần thích hợp, giao tiếp bằng ánh mắt, mỉm cười, thể hiện sự hăng hái, nói lưu loát và điều chỉnh giọng nhằm tạo ấn tượng tốt đối với phỏng vấn viên. Đối với những công việc liên quan đến kỹ năng kỹ thuật và ít tiếp xúc với người khác, việc này có hiệu lực kém và tỏ ra không thích hợp. Mặt khác, điều này có thể gây ra sai biệt lớn trong việc dự báo sự thành công trong công việc của các ứng viên này. Lỗi nghe và nhớ. Phỏng vấn viên có thể không nghe hết những điều ứng viên nói bởi vì không lắng nghe hoặc bị tác động bởi những câu hỏi tiếp. Ngay lập tức ngay sau khi phỏng vấn, phỏng vấn viên không ghi chú lại có thể quên đến 75 % những thông tin được cung cấp bởi ứng viên. Sự khác nhau giữa những phỏng vấn viên do. Sự khác nhau xảy ra vì các lý do:
  17. 30 - Quản trị nguồn nhân lực • Lựa chọn tiêu chuẩn và trọng số khác nhau. Họ tìm kiếm phẩm chất khác nhau của ứng viên và bất đồng về những phẩm chất nào là quan trọng nhất. • Định nghĩa khác nhau về ứng viên lý tưởng sẽ như thế nào • Sự khác biệt về chiến lược lựa chọn. Một vài phỏng vấn viên phân tích và xem xét nhiều tiêu chuẩn riêng biệt dể đạt đến quyết định cuối cùng; một số khác thiên về trực giác và chủ yếu dựa trên ấn tượng chung. • Sự khác biệt về khả năng quan hệ với ứng viên. Những phỏng vấn viên xây dựng quan hệ, giao tiếp tốt với ứng viên có khả năng thu thập được nhiều thông tin hơn trong suốt thời gian phỏng vấn. Những sự khác biệt này làm cho độ tin cậy giữa những người đánh giá thấp và giảm thiểu hiệu lực của phỏng vấn được sử dụng như là công cụ lựa chọn. Tuy nhiên, các nhà quản trị thích sử dụng phỏng vấn bởi vì họ cảm thấy linh hoạt có thể kiểm soát các quyết định lựa chọn khi so sánh với các phương pháp định lượng chẳng hạn như trắc nghiệm khả năng và bản câu hỏi tiểu sử. • Loại phỏng vấn Phỏng vấn có thể được phân loại bởi mức độ cấu trúc hoặc phạm vi mà qua đó phỏng vấn viên lập kế hoạch trước cho các câu hỏi và hỏi các câu hỏi giống nhau cho tất cả ứng viên cho công việc. Ba loại phỏng vấn, dựa trên mức độ cấu trúc, có thể được xác định: phỏng vấn không cấu trúc, bán cấu trúc và cấu trúc. Phỏng vấn không cấu trúc. Trong phỏng vấn không cấu trúc, các câu hỏi không được dự định trước, và phỏng vấn các cá nhân khác nhau có thể ở nhiều lĩnh vực khác nhau về quá khứ làm việc, thái độ hoặc kế hoạch tương lai. Phỏng vấn không cấu trúc có độ tin cậy giữa những người phỏng vấn thấp và như vậy hiệu lực chung là thấp nhất. Bởi vì câu hỏi không được lên kế hoạch, các lĩnh vực quan trọng liên quan đến công việc có thể không được khai thác, và các câu hỏi không hợp pháp có thể được hỏi. Phỏng vấn viên cũng có dành nhiều thời gian vào một câu hỏi ưa thích nào đó. Phỏng vấn bán cấu trúc. Phỏng vấn bán cấu trúc bao gồm việc lên kế hoạch một phần các câu hỏi cho phỏng vấn viên nhưng vẫn cho phép sự linh hoạt để cho phỏng vấn viên hỏi ứng viên. Phỏng vấn bán cấu trúc có hiệu lực cao hơn phỏng vấn không cấu trúc nhưng thấp hơn phỏng vấn cấu trúc. Trong một cuốn sách hay về các kỹ thuật phỏng vấn bán cấu trúc, Thomas Moffatt đề nghị rằng phỏng vấn viên dự định mục tiêu của họ theo khía cạnh những điều mà họ hy vọng biết được về ứng viên và sau đó sử dụng cách tiếp cận “hình nón” để có được những thông tin này. Hình sau là một phần ví dụ về hình nón theo công việc vừa qua của ứng viên. Câu hỏi giới thiệu “Nói với tôi về công việc vừa rồi chung về chủ đề của anh” Câu hỏi cụ thể “Anh học gì từ công việc đó?” vừa phải “Nhiệm vụ chính của anh là gì?” “ Thành tích lớn nhất của anh là gì?” “Anh có thể nói rõ hơn về điều đó?” Thăm dò “Nói thêm tại sao anh lại thực hiện theo cách đó?”
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2