intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tổng quan về tình hình nghiên cứu lịch sự trong giao tiếp ở phương Tây

Chia sẻ: Liễu Yêu Yêu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

18
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Tổng quan về tình hình nghiên cứu lịch sự trong giao tiếp ở phương Tây" điểm qua những công trình mang tính chất cột mốc, có ảnh hưởng nhất định trong việc tạo nên một bức tranh chung về lịch sự. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tổng quan về tình hình nghiên cứu lịch sự trong giao tiếp ở phương Tây

  1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LỊCH SỰ TRONG GIAO TIẾP Ở PHƯƠNG TÂY Phan Thị Thanh Thuỷ - Nguyễn Thị Như Nguyệt TÓM TẮT Gần nửa thế kỷ qua, vấn đề lịch sự trong ngôn ngữ đã được nghiên cứu theo nhiều hướng. Bên cạnh những yếu tố cơ bản giống nhau, lịch sự vẫn được nhìn nhận và đánh giá khác nhau giữa các nền văn hóa. Theo nhiều nhà nghiên cứu, khó có thể tìm được một định nghĩa chung về lịch sự giữa các nền văn hóa. Từ khóa: Lịch sự, giao tếp, văn hóa, phương Tây 1. MỞ ĐẦU Gần nửa thế kỷ qua, vấn đề lịch sự trong ngôn ngữ đã được nghiên cứu trên nhiều hướng. Bên cạnh việc xây dựng mô hình lịch sự chung cho các ngôn ngữ, các tác giả còn nghiên cứu sự liên quan giữa lịch sự và giới; lịch sự trong tương tác các nền văn hóa; biểu hiện lịch sự trong các ngôn ngữ cụ thể v.v. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố cơ bản giống nhau, lịch sự vẫn được nhìn nhận và đánh giá khác nhau giữa các nền văn hóa. Nhiều nghiên cứu cũng đã nhận xét, lịch sự trong các nền văn hóa phương Tây chủ yếu đề cập đến việc biểu thị sự quan tâm đến những người khác thông qua cách ứng xử tinh tế và khéo léo. Theo Yabuuchi, nghiên cứu về lịch sự trải qua ba giai đoạn: giai đoạn một tập trung tìm kiếm những phổ quát trong những hành vi mang tính lịch sự giữa các nền văn hóa với những tên tuổi lớn như Lakoff (1973), Brown và Levinson (1978, 1987), Leech (1983); giai đoạn hai tập trung chủ yếu vào tính tương đối của ngôn ngữ và văn hóa và giai đoạn thứ ba là giai đoạn chuyển đổi từ các bình diện tĩnh sang các bình diện động của lịch sự. Bài viết sẽ điểm qua những công trình mang tính chất cột mốc, có ảnh hưởng nhất định trong việc tạo nên một bức tranh chung về lịch sự. 2. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ LỊCH SỰ Ở PHƯƠNG TÂY Trong bài báo năm 1979, P. Grice đã đưa ra giả thuyết rằng trong giao tiếp, các thành viên tham thoại đều ứng xử dựa trên nguyên lý hợp tác. Nguyên lý này bao gồm bốn nguyên tắc: (i) Nguyên tắc về lượng: thông tin đưa ra phải đủ và không vượt quá so với yêu cầu. (ii) Nguyên tắc về chất: thông tin đưa ra phải chân thực. (iii) Nguyên tắc về quan hệ: thông tin đưa ra phải thích hợp với thời điểm. (iv) Nguyên tắc về cách thức: thông tin đưa ra phải rõ ràng. Ngoài ra, theo Grice, còn rất nhiều các quy tắc khác như: quy tắc thẩm mỹ, quy tắc xã hội, quy tắc đạo đức v.v. 555
  2. Nhìn chung, theo đánh giá của một số tác giả, các quy tắc này không có tính quan yếu và mục đích cuối cùng trong hoạt động giao tiếp chính là đạt hiệu quả tối đa trong việc trao đổi thông tin. Từ những nguyên tắc của Grice, một lĩnh vực nghiên cứu dần hình thành với mục đích xây dựng một mô hình chung trong các hoạt động giao tiếp khác nhau trong xã hội: lĩnh vực nghiên cứu về lịch sự. a. Có thể xem R.T.Lakoff là người đầu tiên trình bày lịch sự dưới góc độ ngôn ngữ học một cách tương đối rõ ràng và cụ thể. Đánh giá cao nguyên lý hợp tác của P. Grice, R.T.Lakoff chặt chẽ đã mở rộng một số khái niệm gắn liền với ngữ cảnh giao tiếp, trong đó có lịch sự. Bà đã đưa ra ba loại quy tắc lịch sự: (i) Quy tắc lịch sự có tính quy thức (quy tắc không được áp đặt) (don't impose). Theo đó, trong giao tiếp, người nói (S) sẽ tránh sử dụng những lời nói có tính áp đặt; không dùng ngôn ngữ để ngăn cản những hành động theo ý muốn của người nghe (H); tránh đề cập những vấn đề thuộc về cá nhân riêng tư của H như tuổi tác, thu nhập, gia đình, thói quen; tránh dùng những từ ngữ có thể làm ảnh hưởng đến thể diện của H. (ii) Quy tắc lịch sự có tính phi quy thức (quy tắc để ngỏ sự lựa chọn) (give option). Quy tắc này thường được sử dụng trong những ngữ cảnh mà ở đó S và H không có sự quen biết hoặc thân thiết, nhưng ngang bằng nhau về địa vị xã hội, Theo đó, S thường dùng lối nói hàm ẩn, rào đón để H nhận ra ý định của mình và thuận theo quan điểm ấy. (iii) Quy tắc khuyến khích tình cảm bạn bè (quy tắc làm cho người đối thoại cảm thấy thoải mái) (make feel good be friendly). Quy tắc này thường được sử dụng trong ngữ cảnh mà S và H có quan hệ bạn bè thân thiết với nhau. Do đó, cả hai đối tượng tham thoại thường thổ lộ tất cả tình cảm, cuộc sống riêng tư của mỗi người với nhau, quan tâm nhau. Quy tắc này trái ngược với phép lịch sự có tính quy thức. Năm 1975, trong một nghiên cứu khác, nhà nghiên cứu này nhận xét rằng, lịch sự được xã hội tạo dựng lên nhằm giảm bớt sự va chạm trong tương tác của con người. Đến năm 1990, bà định nghĩa lịch sự là “một hệ thống các mối quan hệ liên nhân được thiết kế nhằm hỗ trợ tương tác bằng cách tối thiểu hóa tiềm tàng của sự xung đột và đối kháng vốn thường tồn tại trong tất cả các cuộc trao đổi của con người” (a system of interpersonal relations designed to facilatate interaction by minimizing the potential for conflict and confrontation inherent in all human intercharge). Đến năm 1999, trong báo cáo Hòa nhã và những điều phiền toái: Hay là, tìm vào thể diện của bạn (Civility and its discontents: Or getting in your face) trình bày trước phiên toàn thể của hội thảo quốc tế về lịch sự (International symposium on linguistic politeness) tổ chức tại Bangkok, R.T.Lakoff tiếp tục khảo sát và lý giải lịch sự theo những định hướng mới: tại sao lại là lịch sự trong bối cảnh này mà không là trong bối cảnh khác? (why is politeness more salient at some times than others?); người bình thường hiểu lịch sự như thế nào? (How do normal people understand politeness?); điều gì sẽ xảy ra khi các hệ thống lịch sự bị thay đổi hay chuyển đổi? (what happens when politeness systems change or shift?) v.v. Trong những nghiên cứu vào năm 2005, bà đã quan tâm đến những nguyên nhân làm thay đổi hệ thống lịch sự vốn lấy sự tôn kính làm nền tảng (deference – based politeness system) sang hệ thống lịch sự lấy tình bằng hữu làm cơ sở (camaraderie based system). Như vậy, so với những nghiên cứu trước đó, bà đã có những thay đổi khá sâu sắc trong cách nhìn nhận về lịch sự. 556
  3. b. Cũng nghiên cứu về lịch sự, năm 1983, G.N.Leech trên quan điểm cho rằng lịch sự là sự lảng tránh xung đột đã xây dựng nguyên tắc lịch sự (Principle of Politeness). Chức năng của nguyên tắc này là “duy trì trạng thái cân bằng trong xã hội và các mối quan hệ thân tình mà nhờ đó giúp chúng ta luôn giả định rằng đối tượng tương tác đang hợp tác với chúng ta ở mức độ cao nhất” (to maintain the soxcial equilibrium and friendly relations which enable us to assume that our interlocutors are being cooperative in the first place). Nguyên tắc này dựa trên khái niệm tổn thất (cost) và lợi ích (benefit). Nội dung khái quát quan điểm của Leech là dù trong bất kỳ điều kiện nào, mục đích của mọi ứng xử ngôn ngữ là "tối thiểu hóa những lối nói bất lịch sự và tối đa hóa những lối nói lịch sự". Đến năm 2005, trong bài viết “Lịch sự: Có hay không sự ngăn cách giữa phương Đông và phương Tây?” (“Politeness: Is there an East – West Divide?”), Leech một lần nữa khẳng định lại quan điểm của mình về lịch sự dưới cách nhìn của Dụng học. Từ đó, tác giả đưa ra 6 phương châm lịch sự: (i) phương châm khéo léo (tact maxim): dành cho các hành động áp đặt, yêu cầu giảm thiểu thiệt hại và tăng tối đa lợi ích cho đối tác; (ii) phương châm hào hiệp (generosity maxim): dành cho các hành động áp đặt, yêu cầu giảm thiểu lợi ích cho mình và tăng tối đa lợi ích cho đối tác; (iii) phương châm tán thưởng (approbation maxim): dành cho hành động diễn cảm và khẳng định, yêu cầu giảm thiểu sự chê bai, điều không vui, tăng tối đa lời khen, niềm vui cho đối tác; (iv) phương châm khiêm tốn (modesty maxim): dành cho các hành động khẳng định, yêu cầu giảm thiểu lời khen, tăng tối đa sự chê bai về khuyết điểm và điều kiện không thuận lợi cho mình; (v) phương châm tán đồng (agreement maxim): dành cho các hành động khẳng định, yêu cầu giảm thiểu sự bất đồng, tăng tối đa sự hòa đồng giữa mình và đối tác; (vi) phương châm thiện cảm (sympathy maxim): dành cho các hành động khẳng định, yêu cầu giảm thiểu sự ác cảm, tăng tối đa sự thiện cảm giữa mình và đối tác. Như vậy, theo tác giả, để được coi là lịch sự, S phải biểu thị hoặc ngầm biểu thị sự đánh giá cao những gì thuộc về người khác (chủ yếu là H), và hạ thấp giá trị những gì thuộc về bản thân (S). Sử dụng các phương châm lịch sự này, S luôn “cố hết sức” (leaning over backwards) để tránh sự bất đồng có thể xảy ra một khi hai bên đều theo đuổi mục đích riêng của mình thông qua ngôn ngữ. Ngoài ra, mức độ lịch sự còn phụ thuộc vào ba yếu tố: (i) bản chất của hành động ngôn ngữ; (ii) cách tạo lập của hành động ngôn ngữ; (iii) bản chất mối quan hệ giữa S và H. Có thể nói, các phương châm lịch sự của Leech mang tính đặc thù, có thể áp dụng riêng cho từng hành động ngôn ngữ. Chúng gắn liền với khái niệm muốn giữ gìn thể diện (face want), với lợi ích và tổn thất của các cá nhân tham gia giao tiếp. c. Dựa trên khái niệm thể diện và lãnh địa mà E. Goffman (1973) đưa ra, P. Brown và S.C.Levinson (1978) & (1987) đã xây dựng lý thuyết lịch sự. Theo tác giả, mọi giao tiếp đều tiềm ẩn nguy cơ của sự xung đột. Chính vì vậy, những quy ước về lễ nghi, những quy tắc lịch sự được sử dụng để bảo vệ thể diện của đối tác. Hai tác giả cho rằng, thể diện được tạo nên bởi hai mặt có tính hỗ trợ và gắn kết chặt chẽ với nhau, đó là thể diện âm tính (còn gọi là thể diện tiêu cực) (negative face) - được hiểu là sự mong muốn hành động của mình không bị người khác áp đặt; và thể diện dương tính (còn gọi là thể diện tích cực) (positive face) - được hiểu là mong muốn hành động của mình được đồng tình, chia sẻ. Từ đó, các tác giả đã liệt kê các hành động đe dọa thể diện, đồng thời đưa ra các chiến lược và tiểu chiến lược lịch sự và khẳng định rằng mô hình chiến lược này có tính ứng dụng phổ quát. 557
  4. Bên cạnh sự đón nhận và ủng hộ của giới nghiên cứu, lý thuyết lịch sự của Brown và Levinson cũng gặp phải không ít những chỉ trích. Nhiều ý kiến cho rằng mô hình lịch sự của hai tác giả này chỉ chú ý đế đặc trưng cá nhân, tức là thiên về văn hóa phương Tây, hoàn toàn không phù hợp với nền văn hóa phương Đông, nơi tính cộng đồng được đánh giá cao. Vì vậy, không thể cho là nó có tính phổ quát cho mọi nền văn hóa. Tuy vẫn còn nhiều điểm chưa thỏa đáng, song, cho đến nay, có thể nói, mô hình lịch sự của P.Brown và S.C.Levinson được đánh giá là khung lý thuyết đồng bộ nhất trong lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ lịch sự. d. Fraser (1978), Fraser và Nolen (1981) lại trình bày một bình diện khác của lịch sự mà sau đó đã được Fraser (1990) nâng lên thành hợp đồng hội thoại (conversational contract). Tác giả khẳng định, khi bước vào một cuộc đối thoại cụ thể nào đó, mỗi một bên tương tác đều mang theo một bộ các quyền hạn và trách nhiệm ban đầu có khả năng quyết định, ít nhất là đối với những giai đoạn mở đầu, những gì mà hai bên chờ đợi ở nhau. Trong tiến trình của cuộc hội thoại, hay do ngữ cảnh thay đổi, luôn luôn tồn tại một khả năng thương lượng cho một hợp đồng hội thoại: cả hai phía chỉ cần điều chỉnh lại những quyền hạn và trách nhiệm sao cho phù hợp với đối tượng cùng tham gia tương tác. e. Năm 1997, Kerbrat Orecchioni đã điều chỉnh lại mô hình lịch sự của Brown và Levinson bằng cách tách biệt 3 mục sau: (i) các hành động ngôn ngữ đe dọa thể diện (FTAs) và các hành động ngôn ngữ làm tăng giá trị thể diện (FFAs); (ii) các nguyên tắc chi phối cách ứng xử mà người nói sử dụng hướng tới bản thân hay hướng tới đối tác; (iii) nguyên tắc liên quan đến lịch sự dương tính hay âm tính. Từ đó, tác giả đã giới thiệu một mô hình lịch sự với các nguyên tắc hướng tới người nói hay người nghe cùng với các phương thức biểu hiện lịch sự trong ngôn ngữ, bao gồm: phương thức bảo vệ thể diện, các phương thức thay thế và các phương thức đi kèm. Theo tác giả, các yếu tố quyết định thành công của các phương thức lịch sự rất đa dạng, đó có thể là địa điểm giao tiếp và các loại hình giao tiếp; vị trí của hành động trong cấu trúc hội thoại; loại hình quan hệ giữa người nói và người nghe v.v. Có thể nói, các nguyên tắc chung tạo nên hệ thống lịch sự mà Kerbrat Orecchioni đưa ra là những kiến thức tổng hợp được rút ra từ các mô hình lịch sự của Brown & Levinson và của Leech. f. Spencer-Oatey (2000) tiếp tục đưa ra khung làm việc với tên gọi “sự khéo léo cư xử trong quan hệ”(rapport management) để phân tích các hành vi trong tương tác xã hội. Theo quan điểm này, mỗi cá thể được xem như một thành viên riêng lẻ của xã hội. Tác giả đưa ra khái niệm “lẽ phải liên hội”(association rights) đề cập đến sự tương tác xã hội là một hành vi thích hợp và sự khôn khéo trong ứng xử để có được mối quan hệ tốt đẹp. Điều này được cả hai bên tương tác cùng xây dựng căn cứ vào những đặc trưng văn hóa xã hội và những giả định của những người tham gia hội thoại. g. Scollon (2001) đề xuất một mô hình tương tác xã hội nhằm giải thích cho “sự thương lượng của các mối quan hệ về thể diện trong giao tiếp liên văn hóa” (the negotiation of face relationships in intercultural communication). Tác giả đề cao quyền hạn và sự cần thiết của một người phải được coi là một thành viên bình thường, luôn tự biết đóng góp và giúp đỡ người khác trong cùng một xã hội. Khái niệm “sự cuốn hút” (involvement) được đưa ra và được thực hiện bởi các chiến lược như : quan tâm đến người khác, khẳng định mình là thành viên của 558
  5. nhóm, gọi tên riêng những người tham gia giao tiếp hoặc chứng tỏ rằng người nói có quan hệ gần gũi với người nghe. Bên cạnh đó, thuật ngữ “sự độc lập” (independence) được sử dụng để chỉ sự riêng rẽ của các bên tham gia tương tác. Sự độc lập này được biểu thị bằng các chiến lược tối thiểu hóa những giả định, sử dụng cách gọi tên một cách trang trọng hay tạo cơ hội lựa chọn đối vói người nghe. h. Watts (2003) có thể được xem là một trong những người đi tiên phong trong việc tìm ra một hướng nghiên cứu mới về lịch sự. Ông đã giới thiệu khái niệm “hành vi khôn khéo” (politic beheviour), với nghĩa là một hành vi bằng lời hoặc không bằng lời được hai bên tham gia tham thoại xây dựng và phù hợp với ngữ cảnh tương tác xã hội. Khái niệm này đã ảnh hưởng khá mạnh đến việc đưa ra một định nghĩa về lịch sự. Từ đó, Watt (2003, 2005) và Locher (2005) đã đề xuất một quan niệm rộng hơn về hành động bảo vệ thể diện (facework), đó là sự thương lượng của các mối quan hệ trong quá trình tương tác, bao gồm các bình diện tương tác xã hội đa dạng như trực tiếp (directness), gián tiếp (indirectness), hành vi phù hợp (appropriate behaviour), hành vi không phù hợp (inappropriate behaviour). Cùng với Ide và Ehlich, Watts cho rằng cần thiết phải phân biệt rõ hai kiểu lịch sự : lịch sự với nghĩa thông thường (còn gọi là lịch sự 1) và lịch sự mang tính lý thuyết (còn gọi là lịch sự 2). Eelen (1999, 2001) giải thích, lịch sự 1, nhìn từ góc độ trực cảm, là một hỗn hợp của lịch sự như một khái niệm không chuyên môn mà S nhận biết được một cách có ý thức. Lịch sự trong hành động được coi là ngầm ẩn và do vậy, đôi khi không nhất thiết phải nhận biết nó một cách có ý thức. Lịch sự 2 được coi là một thuật ngữ trong một khung lý thuyết về hành vi xã hội và sử dụng ngôn ngữ. Chính vì vậy, trong một vài trường hợp, lịch sự 2 được dán nhãn khác nhau, như “rapport management” (sự khéo xử trong quan hệ) (Spencer – Oatey), “politic behaviour” (hành vi khôn khéo) (Watts), “language diplomacy” (ngôn ngữ ngoại giao) (Obana và Tomada). Watts cũng đã tóm tắt một số nguyên lý cơ bản khi tiếp cận vấn đề lịch sự, gọi là “discursive approach”, tạm hiểu là “cách tiếp cận dựa trên sự phân tích các dữ liệu tương tác cụ thể”. Theo đó, ông cho rằng các nhà nghiên cứu không nên nghiên cứu lịch sự dựa trên nền tảng lý thuyết mang tính miêu tả hay theo sự phán đoán tiên nghiệm mà cần thiết phải quan tâm hơn đến việc các bên tham thoại nhận thức lịch sự như thế nào. Như vậy, cùng với các nhà khoa học khác, Watts đã khẳng định rằng cần thiết phải đi sâu vào khía cạnh ngữ dụng của thuật ngữ lịch sự. Cụ thể là, lịch sự phải được hiểu theo cách mà những người bình thường sử dụng, đánh giá và nhận thức nó trong cuộc sống và trong các tương tác xã hội. i. Nghiên cứu về lịch sự còn có George Yule (1986) với tác phẩm Pragmatics, trong đó thảo luận về vấn đề lịch sự và tương tác. Tác giả xem xét lịch sự như một khái niệm cố định trong khái niệm “hành vi xã hội lịch sự” (polite social behavior) hay nghi thức xã giao (etiquette) bên trong một nền văn hóa. Theo ông, lịch sự trong một cuộc tương tác được xem như là một phương tiện dùng để chứng tỏ sự nhận thức được thể diện của người khác. Nhìn chung, những nội dung lý thuyết mà tác giả đưa ra không có gì mới hơn so với những lý thuyết mà Brown & Levinson đã nghiên cứu. j. Li Hua Zheng với mô hình chiến thuật giao tiếp được đưa ra trong quá trình phân tích các tình huống giao tiếp khác nhau trong cộng đồng người Hoa tại Paris. Mô hình này, lấy khái niệm thể diện làm trung tâm, bao gồm các hoạt động xã hội cơ bản do người phát ngôn thực 559
  6. hiện và có thể sắp xếp theo 4 góc độ: giành lấy thể diện, cho thể diện, bảo vệ thể diện của chính mình, bảo vệ thể diện của đối tác. k. Sẽ là thiếu sót nếu không nhắc đến Maria Sifianou (1999) với tác phẩm “Politeness phenomena in England and Greeece” Tác giả đã mở rộng đối tượng nghiên cứu, xem xét tất cả các vấn đề liên quan đến phép lịch sự như: ngôn ngữ, văn hóa, sự nhận thức, cách ứng xử v.v. Xét về hướng tiếp cận liên ngành, có thể coi đây là công trình chuyên nghiên cứu đối chiếu về phép lịch sự quy mô nhất cho đến nay. KẾT LUẬN Có thể nói, những nghiên cứu của các tác giả phương Tây trong những thập niên gần đây đã định hình nên một khung lý thuyết chung về lịch sự, được vận dụng rộng rãi và mang tính hiệu quả cao. Tuy nhiên, như nhiều học giả nhận xét, hệ thống lý thuyết này còn mang tính khái quát. Vì vậy, việc vận dụng chúng làm cơ sở để nghiên cứu một ngôn ngữ trong một nền văn hóa cụ thể, đòi hỏi phải có những nguyên tắc, những phương tiện bổ sung cho phù hợp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lakoff R.T (1977), Politeness, prgamatics, and performatives, Poceedings of the Texas conference on performatives, presuppposition and implicatures, Washington, D.C, pp 79 - 106. 2. Lakoff R.T (1989), The limits of politeness: therapeutic and court room discourse, Multilingua, 8: pp 101 - 129. 3. Lakoff R.T. (1990), Talking power, New York: Basic Books. 4. Locher Miriam & Richard Watts (2005), Politeness theory and relational work, Journal of Politeness Research. 5. Yabuuchi A. (2006), Hierachy politeness: what Brown and Levinson refused to see, Intercultural Pragmatics. 560
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0