có 1 bệnh nhân Barret và 4 trường hợp u nhú biểu<br />
mô vảy.<br />
Khi đối chiếu mức độ triệu chứng lâm sàng với<br />
hình ảnh nội soi thực quản cho thấy đối với những<br />
trường hợp có triệu chứng lâm sàng độ I có tới 50%<br />
bệnh nhân là bình thượng nhưng khi triệu chứng lâm<br />
sàng ở độ IV chỉ có 9,1% là bình thường và có tới<br />
36,4% tổn thương thực quản độ IV. Điều này cho<br />
thấy thường bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng rầm<br />
rộ thì tổn thương thực quản cũng nặng hơn.<br />
KẾT LUẬN<br />
Qua nghiên cứu 115 trường hợp trào ngược thực<br />
quản cho kết quả thu được như sau:<br />
Bệnh nhân nam giới mắc bệnh ít hơn nữ, nhóm<br />
tuổi này hay gặp từ 31 - 40 tuổi.<br />
Thời gian mắc bệnh ít nhất dưới 1 tuần và lớn<br />
hơn 12 tháng.<br />
Triệu chứng lâm sàng: 35,7% ợ nóng đơn thuần,<br />
27% ợ nóng kết hợp với triệu chứng khác, (16,5%)<br />
nuốt vướng, (13%) triệu chứng ngoài thực quản (ho,<br />
khàn...).<br />
Mô bệnh học thực quản: Viêm mạn tính (21,4%),<br />
viêm loét (42,9%), Barret 7,1%).<br />
Mô bệnh học dạ dày: Viêm mạn tính (37,5%),<br />
viêm loét (37,5%), viêm teo (6,2%).<br />
<br />
Những bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng rầm rộ<br />
thì có tổn thương thực quản nặng hơn.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Đoàn Thị Hoài, Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng,<br />
hình ảnh nội soi – mô học và đo PH thực quản liên<br />
tục 24 giờ trong hội chứng trào ngược dạ dày thực<br />
quản. Luận văn thạc sỹ y học, trường Đại học Y Hà<br />
Nội.<br />
2. Tạ Long (2005), “Dịch tễ học, chẩn đoán và xử<br />
trí bệnh trào ngược dạ dày thực quản”, Đặc san tiêu<br />
hoá Việt Nam, 3, tr 05-14.<br />
3. Dương Minh Thắng (2001), Nghiên cứu đặc<br />
điểm lâm sàng, nội soi, mô bệnh học của trào ngược<br />
dạ dày thực quản, Luận văn thạc sỹ y học, Học viện<br />
Quân y, Hà Nội.<br />
4. Nguyễn Cảnh Bình (2008), Nghiên cứu tổn<br />
thương bệnh lý tại đoạn nối thực quản dạ dày trong<br />
bệnh trào ngược dạ dày thực quản, Tạp chí Khoa<br />
học Tiêu hoá Việt Nam, 9, tr 530-535.<br />
5. Pal Demeter and Akos Pap (2004), “The<br />
relationship between Gastroesophageal Reflux<br />
disease and obstructive sleep apnea”, Journal of<br />
Gastroenterology, vol 39, pp. 815-520.<br />
6. Dentetal, Scan.J.Gastr(2008), vol 43,<br />
Supplement 244, Or8.<br />
<br />
TRIỂN KHAI HÌNH THỨC ĐÀO TẠO MỚI TRONG NGÀNH Y TẾ<br />
BÙI TRUNG DŨNG - Bệnh viện Bạch Mai<br />
TÓM TẮT<br />
Giáo dục trực tuyến (eLearning) trong y tế đã phát<br />
triển tại nhiều nước trên thế giới nhưng chỉ mới bắt<br />
đầu hình thành tại Việt Nam. Nhằm đánh giá những<br />
yếu tố liên quan đến quá trình chuẩn bị triển khai giáo<br />
dục trực tuyến trong ngành Y tế ở Việt Nam, chúng<br />
tôi đã tiến hành nghiên cứu tại Bệnh viện Bạch Mai<br />
theo phương pháp mô tả cắt ngang với nhóm cán bộ<br />
giảng viên năm 2013. Nghiên cứu tiến hành phỏng<br />
vấn đối tượng bằng bộ câu hỏi, kết quả cho thấy<br />
phần lớn đối tượng nghiên cứu có mức độ sẵn sàng<br />
áp dụng cao, nhu cầu lớn và thực tế đang thường<br />
xuyên sử dụng các phần mềm vi tính như<br />
Powerpoint, Word, Excel...Mức độ truy cập Internet<br />
và giao tiếp qua thư điện tử là rất cao. Hàng tuần,<br />
giảng viên truy cập chủ yếu vào các diễn đàn trực<br />
tuyến chuyên ngành để xem và tải tài liệu liên quan.<br />
Mặc dù nhóm giảng viên này chưa được tiếp cận hay<br />
làm bài giảng trực tuyến, nhưng nhận thức về lợi ích<br />
của giáo dục trực tuyến là rất tốt. Các thầy cô giáo<br />
chấp nhận thay đổi phương pháp giảng dạy, sẵn<br />
sàng kết hợp với giáo dục truyền thống, liên hệ chặt<br />
chẽ hơn với học viên để tăng cường hỗ trợ từ xa qua<br />
các công cụ trực tuyến linh hoạt, qua đó giảm bớt chi<br />
phí học tập của học viên và giảm tải gánh nặng mất<br />
nhân lực tại các cơ sở cử học viên đi học.<br />
Từ khóa: Đào tạo trực tuyến, Bệnh viện Bạch<br />
<br />
Y HỌC THỰC HÀNH (907) – SỐ 3/2014<br />
<br />
Mai.<br />
SUMMARY<br />
ELearning in health has been developed in many<br />
countries around the world, but just began to form in<br />
Vietnam last few years. This research was conducted<br />
in one of the three biggest hospitals in Vietnam with<br />
purposes of assessment some main factors related<br />
the implement eLearning in Vietnam. The study<br />
design was cross-sectional survey with teachers and<br />
facilitators. The result of interviewing research<br />
subjects by questionnaire reveals that the majority<br />
had a high application availability, high demand and<br />
often practical use computer software such as<br />
PowerPoint, Word, Excel... The level of access<br />
Internet and communication via e-mail is very high.<br />
They access mainly to specialized online forums to<br />
view and download relevant documents every week.<br />
Although this group have not made online lectures<br />
yet, but their awareness of the benefits of eLearning<br />
is very good. The teachers accept to change teaching<br />
methods, willing to combine with traditional education<br />
and more closely associate with students to enhance<br />
remote support through online tools flexibly. There by<br />
reducing the learning cost and the burden of lacking<br />
of employees at the lower level health facilities.<br />
Keywords: ELearning, Bach Mai hospital.<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
<br />
55<br />
<br />
Giáo dục trực tuyến đã được hình thành và phát<br />
triển tại nhiều nước phát triển trên thế giới. Mô hình<br />
giáo dục trực tuyến (eLearning) đã được hình thành<br />
tại khoảng 90% các trường đại học, cao đẳng Mỹ với<br />
số người tham gia học tăng 33% hàng năm trong 5<br />
năm liên tiếp từ 1999 - 2004. Sự phát triển như vũ<br />
bão của công nghệ thông tin tại Việt Nam thời gian<br />
qua dẫn đến số người sử dụng Internet tăng vọt, ví<br />
dụ năm 2012 có hơn 31 triệu người sử dụng Internet,<br />
chiếm 35,49 % dân số, đứng thứ 18/20 quốc gia có<br />
số người dùng Internet lớn nhất thế giới, đứng thứ 8<br />
khu vực Châu Á và đứng vị trí thứ 3 ở khu vực Đông<br />
Nam Á (ASEAN). So với năm 2000, số lượng người<br />
dùng Internet Việt Nam đã tăng khoảng hơn 15 lần và<br />
đang tiếp tục tăng [1]. Tuy nhiên, những nghiên cứu<br />
tại Việt Nam về giáo dục trực tuyến trong ngành y<br />
vẫn còn rất thiếu và chưa toàn diện.<br />
Trên thế giới, giáo dục trực tuyến trong y tế đã<br />
được chứng minh có thể làm giảm nhu cầu “mặt đối<br />
mặt” như phương pháp dạy học truyền thống, nhất là<br />
với giảng dạy lý thuyết mà không làm suy giảm chất<br />
lượng đào tạo [2]. Nhiều nghiên cứu còn nhận định<br />
eLearning và việc sử dụng công nghệ Internet là để<br />
tăng hiệu suất dạy học, bổ sung cho giảng dạy truyền<br />
thống [3, 4]. Một cơ sở hạ tầng phát triển để hỗ trợ<br />
eLearning trong giáo dục y tế bao gồm kho lưu trữ,<br />
hoặc các thư viện kỹ thuật số, quản lý truy cập tài liệu<br />
học tập điện tử, sự đồng thuận về tiêu chuẩn kỹ<br />
thuật, và phương pháp đánh giá ngang hàng các<br />
nguồn tài nguyên. Sự hội nhập của eLearning vào<br />
giáo dục y tế có thể xúc tác cho sự thay đổi với việc<br />
áp dụng lý thuyết học người lớn, nơi mà các nhà giáo<br />
dục sẽ không còn phục vụ chủ yếu là các nhà phân<br />
phối nội dung, mà sẽ tham gia nhiều hơn như hỗ trợ<br />
của các giám định viên học tập và năng lực [3]. Tuy<br />
nhiên, để triển khai thành công eLearning trong y tế<br />
lại cần phải chuẩn bị hoàn chỉnh nhiều yếu tố quan<br />
trọng như nội dung của khóa học phù hợp đặc thù<br />
của ngành, một môi trường học tập điện tử có cấu<br />
trúc xã hội, cũng như các công nghệ có sẵn [4]. Giáo<br />
dục trực tuyến, mặc dù không thể đáp ứng với tất cả<br />
các nội dung giảng dạy, nhưng một số kết quả báo<br />
cáo chỉ ra rằng nó là một phương tiện hiệu quả và<br />
thuận tiện về mặt kinh tế mà khó có thể đạt được với<br />
giáo dục truyền thống [5].<br />
Việc đào tạo cán bộ y tế tại Việt Nam hiện nay dù<br />
đã có nhiều cải thiện nhưng vẫn còn thiếu về số<br />
lượng và yếu về chất lượng. Số liệu năm 2009 cho<br />
thấy, số bác sỹ trên một vạn dân mới đạt 6,59, thấp<br />
hơn một số nước lân cận như Trung Quốc, Phi-líppin [6]. Công tác bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho<br />
nhân viên y tế cũng gặp một số khó khăn về nguồn<br />
kinh phí và tổ chức thực hiện. Nhiều nhân viên y tế<br />
không thích tham gia các khóa đào tạo chuyên môn<br />
do kinh phí hỗ trợ quá thấp, ảnh hưởng đến phần thu<br />
nhập thêm. Hình thức bồi dưỡng, nâng cao năng lực<br />
chưa đa dạng, chủ yếu vẫn là các lớp ngắn hạn, tập<br />
trung. Nhiều cơ sở y tế, đặc biệt là ở các khu vực khó<br />
khăn và tuyến huyện, xã, không muốn cử cán bộ đi<br />
<br />
56<br />
<br />
học các khóa đào tạo chính quy, do nhiều nhân viên<br />
y tế sau khi tốt nghiệp không trở về cơ sở y tế đã cử<br />
đi học, mà xin chuyển đến các cơ sở lớn hơn, ở<br />
tuyến cao hơn [6].<br />
Trong tình trạng còn nhiều bất cập của giáo dục<br />
trong y tế, với sự phát triển vượt bậc của khoa học<br />
công nghệ, giáo dục trực tuyến đã trở thành một lựa<br />
chọn tối ưu, rất cần phải khẩn trương chuẩn bị và<br />
triển khai để khắc phục những tồn tại đó. Vì vậy,<br />
chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu với mục đích<br />
đánh giá những yếu tố liên quan đến quá trình chuẩn<br />
bị triển khai giáo dục trực tuyến trong ngành Y tế ở<br />
Việt Nam.<br />
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Địa điểm nghiên cứu: Trung tâm Đào tạo và Chỉ<br />
đạo tuyến, Bệnh viện Bạch Mai.<br />
Đối tượng:<br />
Là các giảng viên thuộc danh sách chính thức<br />
của Bệnh viện Bạch Mai năm 2013.<br />
Không phân biệt tuổi, giới.<br />
Đủ sức khỏe và tự nguyện tham gia nghiên cứu.<br />
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được<br />
thiết kế theo phương pháp mô tả cắt ngang. Tất cả các<br />
đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn trực tiếp qua<br />
bộ phiếu câu hỏi điều tra tập trung vào yếu tố liên quan<br />
đến 2 nhóm chủ đề là thực trạng trang thiết bị, kỹ<br />
năng, nhu cầu và nhận thức của giảng viên liên quan<br />
đến giáo dục trực tuyến trong y tế, từ đó đánh giá<br />
được sự chuẩn bị để triển khai trong thời gian tới. Số<br />
liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm SPSS 15.0.<br />
KẾT QUẢ<br />
Kết quả nghiên cứu cho thấy đến 81% đối tượng<br />
nghiên cứu ủng hộ và sẵn sàng triển khai giáo dục<br />
trực tuyến trong y tế.<br />
1. Thực trạng của giảng viên<br />
<br />
Biểu đồ 1: Phân loại đối tượng nghiên cứu theo trình độ<br />
<br />
Tỷ lệ lớn giảng viên có trình độ cao trong đó 42%<br />
Tiến sỹ và 27% Thạc sỹ với tỷ lệ giảng viên nam cao<br />
gấp gần 3 lần nữ (73% so với 27%). Tất cả giảng<br />
viên đều đang công tác tại bệnh viện, thậm chí kiêm<br />
nhiệm cả giảng viên của trường Đại học Y hoặc<br />
trường Cao đẳng Y. Nên khi triển khai eLearning, đây<br />
chính là nhóm cốt lõi quyết định sức hấp dẫn thu hút<br />
học viên tham gia và phát triển loại hình đào tạo mới<br />
này bên cạnh các yếu tố về kỹ thuật.<br />
Lứa tuổi giảng viên tập trung trên 45 tuổi (71%)<br />
với trên 15 năm thâm niên giảng dạy cho thấy đối<br />
tượng đã rất quen thuộc và có thể hiểu được những<br />
<br />
Y HỌC THỰC HÀNH (907) – SỐ 3/2014<br />
<br />
tồn tại của giáo dục truyền thống, từ đó có thể có<br />
động lực để thay đổi phương pháp giảng dạy.<br />
<br />
Biểu đồ 2: Mức độ truy cập Internet của giảng viên<br />
<br />
Mức độ truy cập Internet, một đặc điểm bắt buộc<br />
của giáo dục trực tuyến, ở nhóm giảng viên bệnh viện<br />
chiếm tỷ lệ rất cao (92%), gấp hơn 2,5 lần mức độ truy<br />
cập chung toàn quốc [1]. Đây là một lợi thế vô cùng<br />
lớn khi triển khai giáo dục trực tuyến tại bệnh viện.<br />
Thực trạng sử dụng công cụ giao tiếp qua Internet<br />
của giảng viên cũng rất khả quan. 100% giảng viên<br />
có hòm thư điện tử với mức độ thường xuyên sử<br />
dụng là 88%. Bên cạnh email, 40% giảng viên<br />
thường xuyên sử dụng những công cụ tương tác chủ<br />
yếu hỗ trợ cho eLearning như yahoo, skype,...<br />
Mức độ truy cập vào một diễn đàn trực tuyến<br />
chuyên ngành hàng tuần của giảng viên chỉ là 38%,<br />
nhưng có thể thấy rõ nhu cầu chủ yếu của 88% giảng<br />
viên là xem và tải tài liệu với 76% thấy dễ dàng khi<br />
tìm kiếm thông tin.<br />
<br />
quan hơn (83%), nhằm đảm bảo học viên có thể hiểu<br />
được nội dung truyền tải. Những bài giảng trực tuyến<br />
sẽ cần nhiều thời gian và công sức để biên soạn<br />
nhưng sẽ tăng hiệu suất đào tạo gấp nhiều lần cho<br />
nhiều hơn học viên với cùng một nguồn lực (83%).<br />
ELearning không có nghĩa là bỏ rơi học viên, mà<br />
ngược lại giảng viên nhận định cần phải giữ liên hệ<br />
chặt chẽ hơn, hỗ trợ liên tục quá trình học hỏi của học<br />
viên (75%), nắm vững quá trình học tập của họ (50%).<br />
Tương đồng với nhận thức về sự chuẩn bị kỹ<br />
càng của giảng viên, học viên có thêm nhiều lợi ích<br />
như thời gian và chi phí đi lại, ăn ở được giảm đi<br />
nhiều so với cách học tập trung (65%), nhưng tính<br />
chủ động trong học tập hay liên hệ với giảng viên<br />
phải được phát huy tối đa (96%). Tương tác trong<br />
eLearning cần phải là hai chiều mới phát huy được<br />
hiệu quả.<br />
Giáo dục truyền thống có nhiều điểm khác với<br />
giáo dục trực tuyến, trong đó 70% giảng viên cho<br />
rằng phương pháp giảng dạy cũng cần có những<br />
thay đổi phù hợp theo hướng áp dụng công nghệ<br />
thông tin vào bài giảng.<br />
Chi phí dành cho đào tạo điện tử vì thế được 71%<br />
giảng viên nhận định là sẽ tỷ lệ nghịch với số lượng<br />
học viên và thời gian đào tạo. Nhận định này tương<br />
đồng với báo cáo của một nhóm nghiên cứu tại Italia<br />
năm 2012 [5].<br />
Chất lượng đào tạo sẽ chỉ được đảm bảo nếu<br />
giảng viên chuẩn bị bài giảng tốt, đúng nhu cầu của<br />
học viên, quản lý giám sát việc học tập chặt chẽ và<br />
học viên chủ động, tham gia tích cực, dành nhiều thời<br />
gian cho học tập kết hợp với cơ sở hạ tầng, trang thiết<br />
bị kỹ thuật tốt theo nhận định của 100% giảng viên.<br />
<br />
Biểu đồ 3: Những thiết bị tin học cá nhân của giảng viên<br />
<br />
Giảng viên đã được hoặc tự trang bị những<br />
phương tiện cần thiết cho giảng dạy trực tuyến như<br />
92% có máy tính xách tay, 79% có máy tính để bàn,<br />
hầu hết có mạng Internet hoặc thiết bị truy cập<br />
Internet di động (3G). Ngoài ra, số lượng thiết bị di<br />
động như tablet, điện thoại thông minh có khả năng<br />
truy cập eLearning chiếm đến trên 80% giảng viên.<br />
Mặc dù chỉ có 24% giảng viên từng tham gia<br />
eLearning nhưng với những kỹ năng, trang thiết bị<br />
hiện có, việc triển khai giáo dục trực tuyến trong bệnh<br />
viện là có cơ sở chắc chắn.<br />
2. Nhận thức của giảng viên<br />
Nhận thức của giảng viên về việc triển khai ứng<br />
dụng tin học trong giảng dạy, học tập là rất tích cực với<br />
100% giảng viên cho rằng có rất nhiều và nhiều lợi ích.<br />
Những ưu điểm được đánh giá cao nhất là bài giảng<br />
sinh động hơn (92%), truyền đạt kiến thức dễ dàng<br />
hơn (87,5%), tăng tính chủ động trong học tập của học<br />
viên (79%) và tiết kiệm chi phí cho học viên (71%).<br />
Khi giảng dạy qua eLearning, giảng viên ý thức<br />
được việc hạn chế “mặt đối mặt” với học viên, do đó<br />
họ sẵn sàng chuẩn bị bài giảng chu đáo, chuẩn mực<br />
hơn và sử dụng nhiều công cụ tạo bài giảng trực<br />
<br />
Y HỌC THỰC HÀNH (907) – SỐ 3/2014<br />
<br />
Biểu đồ 4: Hình thức giảng dạy mong muốn nhất của giảng<br />
viên<br />
<br />
Biểu đồ 5: Khả năng thích ứng khi giảng dạy hoàn toàn qua<br />
Internet của giảng viên<br />
<br />
Nhận định sẽ cần phải có nhiều thay đổi khi triển<br />
khai giáo dục trực tuyến trong bệnh viện, 54% giảng<br />
viên cần thêm nhiều thời gian để làm quen với hình<br />
thức đào tạo mới, khả năng thích ứng vẫn sẽ còn một<br />
chút khó khăn ở 52% giảng viên, nên đến 81% giảng<br />
viên mong muốn nếu có triển khai giáo dục trực tuyến<br />
tại thời điểm hiện tại thì nên kết hợp với giáo dục<br />
truyền thống, chưa nên tách rời ngay lập tức vì họ<br />
<br />
57<br />
<br />
vẫn coi đó là hình thức giáo dục cơ bản. Điều này<br />
phù hợp với kết quả nghiên cứu tại Mỹ (năm 2006)<br />
và Hà Lan (năm 2005) [3, 4].<br />
KẾT LUẬN<br />
Giảng viên tại bệnh viện sẵn sàng cho việc triển<br />
khai giáo dục trực tuyến như một phương pháp giảng<br />
dạy bổ sung cho giáo dục truyền thống.<br />
Khi triển khai giáo dục trực tuyến sẽ có nhiều sự<br />
ủng hộ ngay từ đầu của cả giảng viên và học viên vì<br />
nhận thức của họ về lợi ích của hình thức đào tạo<br />
mới này là rất cao.<br />
Nhóm giảng viên có tuổi đời và thâm niên công<br />
tác nhiều sẽ có nhiều động lực để ứng dụng công<br />
nghệ thông tin trong giảng dạy khi đã hiểu rõ những<br />
khó khăn khi giảng dạy “mặt đối mặt” truyền thống.<br />
Mức độ truy cập Internet ở giảng viên ở mức rất<br />
cao, đầy đủ trang thiết bị tin học cơ bản như máy tính<br />
để bàn, máy tính xách tay, thiết bị truy cập Internet di<br />
động sẽ giúp giáo dục trực tuyến có thể tiếp cận với<br />
nhóm liên tục.<br />
Kỹ năng sử dụng hòm thư điện tử cũng như các<br />
hình thức đối thoại trực tuyến khác như yahoo, skype<br />
hay truy cập các diễn đàn trực tuyến chuyên ngành<br />
cũng như tìm kiếm thông tin trên Internet thành thạo<br />
cũng làm eLearning trở nên dễ dàng hơn với giảng<br />
viên bệnh viện.<br />
Triển khai giáo dục trực tuyến sẽ đáp ứng đúng<br />
nhu cầu của chính giảng viên hiện nay khi mục đích<br />
truy cập vào các diễn đàn chuyên ngành theo nghiên<br />
cứu này chủ yếu là tìm hiểu tài liệu chuyên ngành.<br />
Tham gia vào giáo dục trực tuyến, giảng viên<br />
nhận định sẽ cần:<br />
Chuẩn bị chu đáo hơn bài giảng, thu thập tài<br />
liệu chuẩn mực, dành nhiều thời gian và công sức<br />
cho việc biên tập và ứng dụng công nghệ thông tin<br />
trong giảng dạy.<br />
Thay đổi tư duy và cách thức giảng dạy.<br />
Liên hệ chặt chẽ và liên tục hỗ trợ học viên.<br />
Giảng viên cũng nhận định học viên tham gia học<br />
trực tuyến sẽ:<br />
Có thể giảm chi phí đi lại, thời gian và công<br />
sức học tập xa nhà.<br />
Phải dành nhiều thời gian hơn cho việc học và<br />
liên hệ giảng viên từ xa.<br />
Chủ động, tích cực trong học tập.<br />
Việc giảng dạy và học tập khi đó được giảng viên<br />
nhận định sẽ:<br />
Tăng hiệu suất đào tạo.<br />
Chi phí đào tạo sẽ tỷ lệ nghịch với số lượng và<br />
thời gian đào tạo.<br />
Có sự phù hợp nhất định với giảng viên hiện<br />
tại.<br />
Cần tăng cường kết nối, liên hệ giữa hai phía<br />
giảng viên và học viên.<br />
Chất lượng đào tạo trực tuyến chỉ đảm bảo khi<br />
kết hợp đồng bộ giữa các yếu tố giảng viên, học viên<br />
và trang thiết bị kỹ thuật.<br />
Trên thực tế, khả năng thích ứng của giảng viên<br />
với giáo dục trực tuyến sẽ có một chút khó khăn, cần<br />
<br />
58<br />
<br />
thời gian cũng như có phương pháp tiếp cận phù hợp<br />
để làm quen và triển khai thành công.<br />
KIẾN NGHỊ<br />
Xác định giảng viên tại các cơ sở y tế là nhóm<br />
nhân tố quan trọng của giáo dục trực tuyến, việc đầu<br />
tiên và quan trọng nhất là tiếp tục tăng cường nhận<br />
thức cho họ, nên để họ là những người đầu tiên trải<br />
nghiệm thực sự trong môi trường eLearning. Từ đó<br />
mới có thể biến suy nghĩ của họ thành hành động<br />
tích cực thực sự đóng góp vào việc bắt đầu triển khai<br />
hình thức đào tạo mới trong bệnh viện.<br />
Phát triển mạng lưới đội ngũ giảng viên nguồn có<br />
đầy đủ kiến thức, kỹ năng và mong muốn khuyếch<br />
trương giảng dạy trực tuyến vì lợi ích lâu dài của học<br />
viên.<br />
Xác định các khu vực trọng tâm, nhóm đối tượng<br />
ưu tiên cần khuyến khích phát triển hình thức đào tạo<br />
mới để phát huy được tối đa ưu điểm của giáo dục<br />
trực tuyến như cán bộ y tế tại các vùng sâu, vùng xa,<br />
vùng còn khó khăn về nhân lực y tế.<br />
Lựa chọn đầu tư giáo dục trực tuyến vào một số<br />
bệnh viện trọng điểm, chuyên ngành có sức hút đào<br />
tạo lớn tại từng vùng làm thành mô hình điểm, từ đó<br />
nhân rộng mô hình, tránh đầu tư dàn trải, lãng phí khi<br />
chưa có kinh nghiệm thực tế.<br />
Đưa những nội dung giáo dục trực tuyến tiếp cận<br />
từ từ vào giảng dạy từ ít đến nhiều, từ đơn giản đến<br />
phức tạp, từ lý thuyết đến thực hành để giảng viên,<br />
học viên hình thành được thói quen tiếp cận ngay với<br />
loại hình đào tạo mới này, sau đó eLearning mới có<br />
thể phát huy được tối đa những ưu điểm trong thực<br />
tiễn công việc, khắc phục những hạn chế của giáo<br />
dục truyền thống trong thời đại tin học ngày nay.<br />
Đẩy mạnh đầu tư phát triển nhân lực và hệ thống<br />
phần mềm quản lý đào tạo trực tuyến, thay đổi cách<br />
thức đánh giá kết quả học tập để phù hợp với loại<br />
hình mới, đảm bảo chất lượng đào tạo mang tính<br />
thực tiễn.<br />
Tóm lại, để có thể triển khai được thành công giáo<br />
dục trực tuyến tại các cơ sở y tế Việt Nam mặc dù đã<br />
có nhiều yếu tố thuận lợi, ủng hộ phát triển, nhưng<br />
cần phải có lộ trình lâu dài, từng bước tiếp cận và<br />
phối hợp, phát huy được ưu điểm của giáo dục y tế<br />
truyền thống.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Vietnam Internet Network Center, Vienam internet<br />
resource report in Vietnam internet development figures<br />
report. 2012: Hanoi. p. 3.<br />
2. Nkenke, E., et al., Acceptance of technologyenhanced learning for a theoretical radiological science<br />
course: a randomized controlled trial. BMC Med Educ,<br />
2012. 12: p. 18.<br />
3. Ruiz, J.G., M.J. Mintzer, and R.M. Leipzig, The<br />
impact of ELearning in medical education. Acad Med,<br />
2006. 81(3): p. 207-12.<br />
4. Spanjers, R., A.F. Rutkowski, and R. Martens,<br />
Implementation and acceptance of eLearning in a<br />
hospital environment. International Journal of Healthcare<br />
Technology and Management, 2005. 6(4): p. 431-453.<br />
5. Mazzoleni, M.C., et al., Is it worth investing in<br />
<br />
Y HỌC THỰC HÀNH (907) – SỐ 3/2014<br />
<br />
online continuous education for healthcare staff? Stud<br />
Health Technol Inform, 2012. 180: p. 939-43.<br />
6. Vietnam Ministry of Health, Strengthening<br />
management capacity and reforming health financing to<br />
implement the five-year health sector plan 2011–2015, in<br />
Joint Annual Health Review 2011, Ministry of Health:<br />
Hanoi. p. 32-39.<br />
7. Goh, J. and M. Clapham, Attitude to eLearning<br />
among newly qualified doctors. Clin Teach, 2014. 11(1):<br />
p. 20-3.<br />
<br />
8. Kontio, R., et al., eLearning course may shorten<br />
the duration of mechanical restraint among psychiatric<br />
inpatients: A cluster-randomized trial. Nord J Psychiatry,<br />
2013.<br />
9. Einarson, E., et al., Interactive eLearning - a safe<br />
place to practice. Stud Health Technol Inform, 2009.<br />
146: p. 841.<br />
<br />
NGHI£N CøU §ÆC §IÓM L¢M SµNG, CËN L¢M SµNG<br />
CñA XUÊT HUYÕT TI£U HãA DO GI·N Vì TÜNH M¹CH THùC QU¶N<br />
ë BÖNH NH¢N X¥ GAN Cã NGHIÖN R¦îU Vµ KH¤NG NGHIÖN R¦îU<br />
NguyÔn Duy Cêng*; TrÇn ThÞ H¬ng**<br />
* Trường Đại học Y Dược Thái Bình<br />
** Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình<br />
TÓM TẮT<br />
Để tìm hiểu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của<br />
xuất huyết tiêu hóa (XHTH) do giãn vỡ tĩnh mạch<br />
thực quản (TMTQ) ở bệnh nhân (BN) xơ gan có<br />
nghiện rượu và không nghiện rượu, nghiên cứu đã<br />
tiến hành trên 264 BN, kết quả như sau:<br />
- Tuổi trung bình của nhóm nghiện rượu là 49,04 ±<br />
8,42, XHTH do giãn vỡ TMTQ gặp 100% ở nam, độ<br />
tuổi trung bình của nhóm không nghiện rượu là 55,35<br />
± 1,22, XHTH do giãn vỡ TMTQ gặp 25,3% ở nữ.<br />
- Có mối liên quan giữa thời gian nghiện rượu với<br />
thời gian tái phát XHTH trong vòng 1 năm đầu (OR =<br />
5,2, 95% CI: 1,04 - 29,14, p < 0,05)<br />
- Có mối liên quan giữa mức độ xơ gan theo phân<br />
độ Child – Pugh với thời gian tái phát XHTH trong<br />
năm đầu (OR = 2,75, 95% CI: 1,42 - 5,3) và tần suất<br />
tái phát XHTH (OR = 3,81, 95% CI: 1,03 - 15,33)<br />
- Có mối liên quan giữa độ giãn TMTQ với thời<br />
gian tái phát XHTH trong năm đầu (OR = 2,2, 95%<br />
CI: 1,03 - 4,75, p < 0,01).<br />
Từ khóa: Xuất huyết tiêu hóa, xơ gan<br />
SUMMARY<br />
STUDY<br />
ON<br />
CLINICAL,<br />
SUBCLINICAL<br />
OF<br />
GASTROINTESTINAL BLEEDING DUE TO RUPTURE OF<br />
ESOPHAGEAL VEINS STRETCH IN CIRRHOSIS<br />
PATIENS WITH ALCOHOLISM AND NON-ALCOHOLISM<br />
<br />
SUMMARY<br />
- The average age of the alcoholics group was<br />
49.04 ± 8.42, not alcoholics group was 55.35 ± 1.22.<br />
- Gastrointestinal bleeding due to relaxing break<br />
esophageal veins in patients with alcoholic cirrhosis<br />
occurred 100% in men and in non-alcohol group<br />
occurred in women 25.3%.<br />
- There is an association between alcoholism time<br />
to time recurrent gastrointestinal bleeding started<br />
within 1 year (OR=5.2,95% CI: 1.04 to 29.14, p