intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Triển khai mô hình đầu tư đối tác công tư trong giáo dục đại học: Cơ hội và thách thức

Chia sẻ: Phó Cửu Vân | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

8
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Triển khai mô hình đầu tư đối tác công tư trong giáo dục đại học: Cơ hội và thách thức" trình bày một số cơ hội và thách thức trong việc triển khai PPP trong giáo dục đại học ở Việt Nam và đề xuất một số kiến nghị nhằm thúc đẩy mô hình PPP trong giáo dục đại học. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Triển khai mô hình đầu tư đối tác công tư trong giáo dục đại học: Cơ hội và thách thức

  1. TRIỂN KHAI MÔ HÌNH ĐẦU TƯ ĐỐI TÁC CÔNG TƯ TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC Chung Ngọc Quế Chi1 Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh Abstract Investment in the form of public-private partnership in higher education is an indispensable trend in the context of deeper international and broader integration and globalization. The article presents some opportunities and challenges in implementing PPP in higher education in Vietnam and proposes some recommendations to promote PPP model in higher education. Keywords: Investment, investment resources, partners, public - private partnerships, higher education. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Đầu tư theo hình thức đối tác công tư (Public private partnership - gọi tắt là PPP) trong giáo dục là một xu thế tất yếu, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, với sự dịch chuyển ngày càng năng động của các nguồn lực giữa các thành phần kinh tế, các quốc gia. Trong bối cảnh nền giáo dục nước ta đang trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện, việc thúc đẩy đầu tư hình thức PPP trong giáo dục đang được Chính phủ chú trọng. Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 04/06/2019 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019-2025 đã nêu: “Từng bước thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công - tư (PPP) trong giáo dục, trước mắt là các dự án phát triển cơ sở hạ tầng giáo dục”[3]. Sự cần thiết của đầu tư PPP trong giáo dục đã được thực tiễn của các quốc gia trên thế giới chứng minh. Quan hệ đối tác PPP ngày càng được coi là một cách tiếp cận sáng tạo để cung cấp dịch vụ giáo dục cho tất cả mọi người, giảm chi phí, cải thiện chất lượng, tăng cường sự tham gia và chia sẻ rủi ro. PPP trong giáo dục đại học (GDĐH) có nhiều điểm mạnh, lợi ích song cũng tiềm ẩn những thách thức và nguy cơ. Bài viết phân tích các cơ hội và thách thức của quá trình triển khai PPP trong bối cảnh GDĐH Việt Nam, đồng thời đưa ra một số khuyến nghị thúc đẩy phát triển PPP nhằm nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, GDĐH nói riêng. 2. NỘI DUNG 2.1. Khái quát mô hình PPP trong GDĐH 2.1.1. Khái niệm Public Private Partnership - viết tắt PPP, được dịch là “đối tác công - tư”. PPP trong GDĐH được hiểu là một thỏa thuận giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với tư nhân dưới hình thức hợp đồng để thực hiện, quản lí, vận hành dự án đầu tư cơ sở vật chất - thiết bị, cung cấp dịch vụ công trong các trường với những quy định cụ thể về chia sẻ trách nhiệm, phương pháp, năng lực và rủi ro giữa các bên nhằm đạt được mục tiêu chung cũng như thỏa mãn nhu cầu của mỗi bên. 1 cnqchi@gmail.com 134
  2. 2.1.2. Đặc điểm ➢ Các dự án PPP cho phép sự tham gia của khu vực tư nhân vào việc cung cấp các dịch vụ công. Tùy theo từng mức độ tham gia của tư nhân và nhà nước, PPP có các hình thức khác nhau. ➢ Dự án PPP thường là dài hạn, trong khoảng 10-30 năm. Không giống với lĩnh vực mua sắm truyền thống, cơ quan nhà nước sẽ không sở hữu các cơ sở này trong khoảng thời gian hợp đồng, nhưng có thể tiếp tục cung cấp các dịch vụ cốt lõi truyền thống gắn với công trình (ví dụ hoạt động giảng dạy) trong khi tư nhân có thể cung cấp các dịch vụ phụ trợ để hỗ trợ cơ sở hạ tầng. ➢ Trong dự án PPP nhà thầu tư nhân thu hồi khoản đầu tư thông qua thu nhập của hoạt động cung cấp dịch vụ, hoặc nhà nước có thể bồi thường cho nhà thầu tư nhân các khoản thanh toán dịch vụ, hoặc quyền hạn được trực tiếp thu lệ phí đối với người sử dụng dịch vụ, hoặc kết hợp các phương thức trên. 2.1.3. Những lợi ích của mô hình PPP ➢ Hợp tác PPP đã thu hút được các thành phần kinh tế từ khu vực tư nhân tham gia đầu tư vào hoạt động giáo dục, góp phần giảm bớt gánh nặng ngân sách đầu tư của nhà nước. ➢ Hợp tác PPP khắc phục những tồn tại mà Nhà nước chưa giải quyết được, trong khi khu vực tư nhân được kì vọng có thể mang lại những cải tiến, đồng thời giải quyết vấn đề thiếu hụt ngân sách của phía Nhà nước, được nâng cao khả năng tiếp cận các thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến và tăng cường hiệu quả sử dụng nguồn vốn ngân sách. ➢ Trong dự án PPP, tư nhân thể hiện được vai trò linh hoạt hơn so với Nhà nước trong việc huy động vốn với kênh dẫn vốn đa dạng, phong phú từ nhiều đối tác khác nhau. ➢ So với hình thức đầu tư truyền thống, hình thức PPP thu được hiệu quả sử dụng vốn ngân sách cao hơn, đồng thời mở ra kênh đầu tư hấp dẫn, nhiều doanh nghiệp có cơ hội tham gia thực hiện các dự án lớn, tiêu thụ lượng lớn nguyên nhiên liệu sản xuất trong nước, tạo ra việc làm cho người lao động và mang lại cho người dân được hưởng dịch vụ với chất lượng tốt hơn với chi phí hợp lý. Thông qua PPP, diện mạo về cơ sở vật chất, dịch vụ của nhà trường có sự chuyển biến, tạo động lực phát triển, đảm bảo năng lực cạnh tranh. ➢ Mô hình PPP giúp tăng năng suất và sử dụng các nguồn lực sẵn có một cách hiệu quả hơn, tối đa hóa giá trị đầu tư. Việc bắt tay giữa Nhà nước và Tư nhân cho phép cộng hưởng tốt nhất thế mạnh của các bên, thông qua việc phát huy sức mạnh tổng hợp trong thiết kế, thi công, kinh doanh và quản lý. Mô hình PPP khuyến khích sáng tạo hợp tác và phổ biến những cách làm tốt nhất. 2.2. Cơ hội triển khai PPP trong môi trường GDĐH Việt Nam 2.2.1. Sự phát triển phổ biến, hiệu quả của mô hình PPP của các Quốc gia trên thế giới thúc đẩy quá trình triển khai mô hình PPP trong phát triển GDĐH Việt Nam Hợp tác PPP đã được chứng minh là mô hình thành công giúp chính phủ các nước giải quyết được nhu cầu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công trong đó có lĩnh vực giáo dục: 135
  3. Anh là quốc gia đứng đầu châu Âu về các dự án PPP. Ngay từ những năm 60 của thế kỷ XX, Vương quốc Anh đã có những bước đi ban đầu trong việc hình thành cơ chế PPP cho các dự án cung cấp dịch vụ công và từ thập niên 80 đã áp dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau như giao thông, giáo dục, y tế, nhà ở xã hội, quốc phòng, công nghệ thông tin. Các dự án PPP được triển khai ở Anh đã mang lại những hiệu quả và lợi ích rõ rệt về vấn đề vốn đầu tư. Mỹ triển khai mô hình PPP từ năm 1980 và là quốc gia áp dụng thành công mô hình PPP ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Đến nay, ở Mỹ có 450 dự án đầu tư theo mô hình PPP với kinh phí triển khai lên tới hàng trăm tỷ USD. Hàn Quốc bắt đầu chương trình PPP từ năm 1994 với Luật thúc đẩy tư nhân đầu tư vốn cho toàn xã hội. Đây là quốc gia thành công trong triển khai các dự án PPP, đã thu hút mạnh mẽ nguồn vốn tư nhân với 719 dự án đã triển khai tính đến hiện nay. Các dự án PPP giúp Hàn Quốc gia tăng hiệu quả đầu tư thông qua các sáng tạo của khu vực tư nhân. Khu vực Asean: Tầm quan trọng của PPP đã được khẳng định không chỉ ở các nước châu Âu mà còn ở các nước ASEAN. Chủ đề về PPP đã thu hút được sự chú ý nhất định trong ASEAN. Nhiều Quốc gia trong khu vực như Philippines, Thái Lan, Singapore đã sớm đưa ra các cải cách pháp luật liên quan nhằm phát triển nguồn vốn đầu tư dưới hình thức này. 2.2.2. Bối cảnh GDĐH trong nước thúc đẩy các trường đại học phát triển mô hình PPP Thách thức tài chính: Sự hạn hẹp về tài chính là thách thức đối với Việt Nam bởi GDĐH phải đáp ứng các yêu cầu cao về đổi mới căn bản và toàn diện trong khi đầu tư tài chính từ ngân sách còn hạn hẹp. Theo quy định pháp luật, chi ngân sách nhà nước cho giáo dục được bảo đảm tối thiểu là 20% tổng chi ngân sách, trên thực tế tỷ lệ này đạt trung bình 17-18% giai đoạn 2011-2020, năm 2021 là 17,3%, năm 2022 chỉ đạt 15,45% (tổng hợp theo Báo cáo chi ngân sách Bộ Tài chính các năm)[4]. Trong đó, tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho GDĐH là rất thấp, trung bình hàng năm là 0,25%- 0,27%, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và thế giới. Xét về mặt tài chính, các cơ sở GDĐH hiện được chia thành bốn loại: 1) Tự bảo đảm toàn bộ chi thường xuyên và chi đầu tư; 2) Tự bảo đảm toàn bộ chi thường xuyên; 3) Tự bảo đảm một phần chi thường xuyên; 4) Ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi thường xuyên. Lộ trình các cơ sở GDĐH phải chuyển dần sang tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư. Theo quy định tại Điều 64 của Luật GDĐH 2018, nguồn thu chủ yếu của cơ sở GDĐH sẽ là các khoản thu ngoài ngân sách [1]. Đây là thách thức lớn đối với các cơ sở GDĐH và càng trở nên bức bách do tác động của đại dịch Covid-19 từ việc giảm nguồn thu ngân sách nói chung, học phí nói riêng. Với thách thức nêu trên, các cơ sở GDĐH đang đứng trước vấn đề tài chính rất lớn thúc đẩy các nhà trường phải tìm kiếm các giải pháp tìm nguồn đầu tư, ổn định vấn đề tài chính. Mô hình PPP là một trong những giải pháp quan trọng. Yêu cầu tự chủ: Tự chủ đại học đang ngày càng trở thành một thuộc tính căn bản của hệ thống GDĐH. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về GDĐH và tự chủ đại học ngày càng được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý cho các cơ sở GDĐH mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát triển bền vững. Vấn đề này đòi hỏi nhà trường cần mở rộng hợp tác tư nhân giải quyết vấn đề vốn đầu tư ngoài ngân sách, vốn đầu tư tự chủ. 136
  4. Áp lực từ nhu cầu xã hội: Trong thời đại kết nối toàn cầu, nhu cầu của xã hội đã đặt ra áp lực cho những trường đại học trong việc đào tạo một lượng lớn lao động tri thức tay nghề cao; cách mạng công nghiệp 4.0 đã đặt ra yêu cầu trong việc đổi mới hình thức, phương thức đào tạo...Trước những đòi hỏi đó, các trường đại học cần phải kết nối nhiều hơn và trở nên khác biệt hơn. Các trường đại học đòi hỏi phải hợp tác, xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ toàn diện và cần kết nối với đối tác tư nhân để giải quyết vấn đề tài chính, tiếp cận công nghệ, khoa học kỹ thuật hiện đại nhanh chóng. Vấn đề cạnh tranh: Cách mạng công nghiệp 4.0 chứng kiến sự dịch chuyển chức năng nghiên cứu và đào tạo từ khu vực Đại học sang khu vực doanh nghiệp. Các doanh nghiệp lớn hiện nay có phòng thí nghiệm riêng, với đội ngũ nghiên cứu giàu kinh nghiệm thực tế. Nhiều tập đoàn công nghệ có tiềm lực công nghệ, con người và tài chính rất lớn, họ lại ở tuyến đầu trong cuộc chạy đua biến tri thức thành sản phẩm phục vụ cuộc sống vì thế họ có nhiều trải nghiệm quý giá mà giới hàn lâm đại học không có. Sự ra đời của các tổ chức này trước tiên vì mục tiêu đào tạo nội bộ phục vụ nhu cầu của doanh nghiệp, nhưng hiện nay đã mở rộng đối tượng đào tạo học viên ngoài, cấp chứng chỉ và cạnh tranh trực tiếp với đại học truyền thống và đang tham gia vét cạn nguồn tuyển sinh của các trường Đại học công lập. Vấn đề này đòi hỏi các cơ sở GDĐH phải có định hướng hợp tác các đơn vị tư nhân để đổi mới, tăng tiềm lực cạnh tranh, hợp tác để biến đối thủ cạnh tranh thành đối tác lâu dài trong các dự án như hình thức PPP. 2.2.3. Chính sách thúc đẩy PPP trong GDĐH ở Việt Nam Trên thực tế, dự án PPP ở Việt Nam đã có từ hơn hai thập kỷ nay, nhưng tập trung chủ yếu vào các công trình hạ tầng. Chủ trương mở rộng các dự án PPP sang lĩnh vực dịch vụ công, bao gồm dịch vụ giáo dục, đã được thể hiện trong Nghị quyết 19, theo đó cần “có cơ chế tài chính phù hợp để huy động mọi nguồn lực xã hội đầu tư cho lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công, nhất là cho y tế và giáo dục, kể cả hình thức hợp tác công - tư, liên doanh, liên kết”. Chủ trương này tiếp tục được cụ thể hóa trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030 với một số định hướng cụ thể như sau: 1) Sắp xếp lại hệ thống trường học; phát triển hài hòa giữa giáo dục công lập và ngoài công lập… Chuyển đổi trường đại học công lập kém hiệu quả sang mô hình hợp tác công - tư; 2) Thí điểm cơ chế cho thuê một số cơ sở giáo dục sẵn có theo nguyên tắc bảo đảm tất cả học sinh được đến trường. Riêng về phương diện thể chế, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công - tư 2020 đã chính thức quy định giáo dục và đào tạo là một lĩnh vực đầu tư theo phương thức PPP. Theo Điều 3 của Luật, cơ sở GDĐH có thể triển khai các dự án PPP, thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư tư nhân trong cung ứng dịch vụ GDĐH trên một phạm vi rộng. Từ những văn bản quy phạm pháp luật có thể thấy nhà nước đang rất quan tâm đến vấn đề triển khai mô hình PPP trong cung cấp dịch vụ công, xây dựng cơ sở hạ tầng nói chung, trong hoạt động giáo dục đặc biệt GDĐH nói riêng [2]. 2.2.4. Tinh thần hợp tác các nguồn lực xã hội trong giáo dục mang tính truyền thống, thông lệ là tiền đề triển khai mô hình PPP Xã hội hóa giáo dục là tư tưởng lớn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời đã dạy “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng”. Tư tưởng đó được cụ thể hóa bằng nhiều chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước: “Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân đóng góp sức người, sức của, xây dựng nền giáo dục quốc dân phát triển dưới sự quản lí của Nhà nước”. Xã hội hóa giáo dục theo nghĩa rộng là huy động sức 137
  5. mạnh các ngành, các lực lượng xã hội, các doanh nghiệp vào việc phát triển sự nghiệp giáo dục. Hiểu theo nghĩa hẹp, đặt mối quan hệ doanh nghiệp - trường đại học cùng hợp tác đầu tư cho GDĐH và nghiên cứu khoa học dưới các hình thức đa dạng. 2.3. Những thách thức trong việc triển khai mô hình PPP trong GDĐH Việt Nam 2.3.1. Về nhận thức Trong lĩnh vực giáo dục, hình thức PPP chưa thu hút được các nhà đầu tư vì vẫn còn chứa đựng nhiều thách thức. Nếu đứng từ phương diện kinh tế, giáo dục được xem là một phương án đầu tư lí tưởng, bởi phía sau nó là sự hậu thuẫn lớn của Nhà nước thông qua môi trường thể chế thuận lợi. Tuy nhiên trên thực tế, các học giả trên thế giới cũng đã chỉ ra những thách thức trong lĩnh vực đầu tư PPP trong giáo dục. Việc mở rộng sự tham gia của tư nhân và hợp tác PPP trong giáo dục trên toàn cầu ngày càng gia tăng, chủ yếu là các công ty tư nhân, doanh nghiệp, tổ chức phi Chính phủ. Các quan điểm phản biện lo ngại về sự tham gia của tư nhân trong lĩnh vực giáo dục sẽ làm ảnh hưởng tới vai trò của Nhà nước và dẫn tới xu hướng thương mại hóa giáo dục, tư nhân hóa giáo dục hay làm gia tăng cách biệt sự bất bình đẳng trong xã hội. Có nhiều lo ngại rằng, các tổ chức vì lợi ích lợi nhuận có thể vi phạm quyền giáo dục và tạo ra những rào cản đáng kể đối với chất lượng giáo dục, công bằng cho tất cả mọi người, khi những học sinh vốn đã có nhiều lợi thế lại tiếp tục được lựa chọn học trong những môi trường chất lượng nhất; nguy cơ những học sinh nghèo sẽ bị bỏ lại phía sau xa hơn trong các trường công thiếu sự quan tâm đầu tư. 2.3.2. Về thể chế PPP Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển, với cơ chế, các yếu tố nội hàm của nền kinh tế còn chứa đựng nhiều rủi ro, thị trường vốn trong nước còn yếu kém, khó tiếp cận được thị trường vốn quốc tế…Đặc biệt chưa có định hướng, chiến lược dài hạn, thống nhất, rõ ràng. Trong khi dự án PPP có đặc thù phức tạp, với nhiều mối quan hệ ràng buộc giữa Nhà nước- tư nhân, việc triển khai thực hiện dự án có nhiều rủi ro. Vì chưa có định hướng, kế hoạch rõ ràng, nguồn lực chưa được quan tâm bố trí cho việc lập dự án, tham gia đầu tư, nhân sự vẫn chủ yếu là kiêm nhiệm, chuyên môn hạn chế. Hệ thống pháp lý về PPP chưa đầy đủ, chồng chéo giữa nhiều luật khác nhau, nội dung pháp luật với những quy định thiên về đầu tư công hoặc đầu tư tư nhân thuần túy, chưa đảm bảo hài hòa với quy trình thực hiện dự án PPP. Vai trò của nhà nước và tư nhân không được xác định rõ ràng hoặc thiếu các quy định về quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên. Các chính sách, quy định cụ thể về ưu đãi đầu tư, hợp đồng dự án, quản lý khai thác vận hành… còn nhiều hạn chế dẫn đến môi trường đầu tư chưa hấp dẫn. Các định hướng phát triển PPP chưa được cụ thể hóa, chưa có sự tham gia ý kiến từ nhà đầu tư tư nhân, cộng đồng, chưa phù hợp với khả năng huy động nguồn lực đầu tư. Năng lực thể chế của nhà nước còn thấp, Bộ, ngành, địa phương tổ chức thực hiện và hướng dẫn chính sách, quy định pháp luật chưa kịp thời, đồng bộ... Thiếu chính sách, quy định hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước để thu hút đầu tư PPP hoặc một số chính sách ưu đãi cụ thể chưa phù hợp với thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế. 2.2.3. Tổ chức thực hiện Việc chuyển từ chính sách sang tổ chức thực hiện không bao giờ dễ dàng. Một chính sách mới đòi hỏi những năng lực mới. Kinh nghiệm thế giới trong việc khắc phục tình trạng này là tổ chức tập huấn cho những người vận dụng và thực hiện chính sách, ban 138
  6. hành các văn bản hướng dẫn cần thiết. Chẳng hạn Liên minh Châu Âu về hợp tác đại học - doanh nghiệp có tài liệu “Hướng dẫn xây dựng quan hệ hợp tác đại học - doanh nghiệp thành công” do tổ chức UIDP (University-Industry Demonstration Partnership) phát hành; về PPP trong GDĐH đã có khá nhiều tài liệu hướng dẫn của của các cơ quan chính phủ, các tổ chức quốc tế (Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á …), của các công ty tư vấn như “Hướng dẫn PPP trong GDĐH” của công ty Brailsford & Dunlavey. Đáng quan tâm là Ngân hàng Thế giới đã mở một trang web riêng về PPP với những thông tin cụ thể cả về khung pháp lý lẫn công cụ cần thiết trong toàn bộ tiến trình xây dựng và triển khai dự án PPP đối với các lĩnh vực khác nhau. Nhìn từ góc độ này thì cái mà chúng ta đang thiếu là những văn bản hướng dẫn về PPP nói chung, PPP trong GDĐH nói riêng. Đây chính là một rào cản quan trọng khiến cho các cơ sở GDĐH không thấy hết tiềm năng của PPP trong GDĐH cũng như không trang bị được năng lực và niềm tin cần thiết trong xây dựng và triển khai các dự án PPP. Bên cạnh đó, thực tế hiện nay chưa có mô hình mẫu, đơn giản, đảm bảo về pháp lý, hiệu quả về kinh tế xã hội có thể triển khai, nhân rộng trong các cơ sở giáo dục đặc biệt là GDĐH. 2.4. Một số khuyến nghị thúc đẩy phát triển các dự án PPP nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục 2.4.1. Tận dụng những cơ hội vốn có Để thúc đẩy phát triển các dự án PPP trong GDĐH trước hết các chủ thể trong mô hình cần tận dụng các cơ hội vốn có: Những kinh nghiệm rút kết từ các mô hình PPP ở các Quốc gia có nền giáo dục tiên tiến; Sự quan tâm và các chính sách phát triển các dự PPP của Nhà nước; Truyền thống, tiền lệ hợp tác trong định hướng xã hội hóa giáo dục nâng cao thành mô hình tiên tiến với cách thức tổ chức tiến bộ hơn, thực tế hơn như các dự án PPP. 2.4.2. Nâng cao nhận thức về lợi ích, quy trình, hiệu quả cũng như rủi ro của các dự án PPP Xác định vai trò và tầm quan trọng của PPP trong phát triển kinh tế xã hội của cả nước và từng địa phương. Cần nhận thức đầy đủ hơn về ích lợi cũng như xu thế tất yếu phát triển dự án PPP. Minh chứng PPP không làm bất bình đẳng trong giáo dục mà còn tạo cơ hội cho giáo dục đến với tất cả mọi người. Cần phải công nhận đây là mô hình hợp tác dài hạn, trong đó cả khu vực công và tư cùng chia sẻ không chỉ lợi ích mà còn cả rủi ro. Trong bất kỳ một mối quan hệ hợp tác nào, nếu rủi ro và lợi ích không được chia sẻ đồng đều thì khả năng thất bại sẽ rất cao. PPP phải là mô hình hợp tác để các bên liên quan đều có lợi. Xây dựng các tài liệu tham khảo, các trang thông tin liên quan PPP để thay đổi nhận thức, cung cấp các hiểu biết cần thiết để các bên cùng nhìn nhận sự tất yếu, thay đổi nhận thức về PPP để hướng đến các bên cùng quan tâm, tham gia PPP. 2.4.3. Hoàn thiện khung pháp lý cho hình thức đầu tư theo PPP Vận dụng kinh nghiệm của các nước sửa đổi, bổ sung các chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật cho mô hình PPP theo hướng tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình thực hiện, đồng bộ hóa các chính sách, pháp luật có liên quan, tạo khung pháp lý đủ mạnh và ổn định làm cơ sở triển khai hiệu quả mô hình này. Xây dựng và ban hành một đề án huy động nguồn lực xã hội theo phương thức PPP trong GDĐH. Các chính sách hướng đến hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư; sự chia sẻ rủi ro và thành công trong tất cả dự án giữa Nhà nước và doanh nghiệp; tính minh bạch trong đấu thầu; huy động các nguồn lực đất 139
  7. đai, nhân lực không để thất thoát, lãng phí; chính sách ưu đãi của TP đối với doanh nghiệp...Trước khi ban hành chính sách, lấy ý kiến của cộng đồng nhất là đối với những người hưởng lợi từ dự án. Thực hiện tuyên truyền phổ biến chính sách. Thường xuyên tổng kết, đánh giá để điều chỉnh chính sách cho phù hợp với thực tiễn. 2.4.4. Đổi mới cách thức tổ chức, triển khai mô hình PPP Xây dựng mô hình quản lý PPP từ trung ương tới địa phương theo từng lĩnh vực theo hướng chuyên nghiệp qua việc thành lập đơn vị chịu trách nhiệm hướng dẫn, hỗ trợ các cơ sở GDĐH triển khai thực hiện đề án theo lộ trình đã định trong đó có các chuyên gia đã từng tham gia thực tế dự án PPP của các bên tại bộ, ngành, địa phương; giám sát và đánh giá việc thực hiện để từng bước đưa giải pháp PPP vào đời sống GDĐH, góp phần hiệu quả tháo gỡ các thách thức về tài chính trong phát triển. Nghiên cứu và nhân rộng một mô hình mẫu trong đó đảm bảo về pháp lý, đảm bảo về hiệu quả kinh tế xã hội và có thể nhân rộng trong các cơ sở giáo dục đặc biệt là GDĐH (giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhà trường – doanh nghiệp – chính quyền địa phương) 3. KẾT LUẬN Không thể phủ nhận nhu cầu kêu gọi đầu tư từ lĩnh vực tư nhân cho giáo dục đại học là hết sức lớn giúp nâng cao chất lượng giáo dục, đồng thời tăng trưởng kinh tế thông qua hoạt động đầu tư. Sự hợp tác hai bên giữa hai đối tác công và tư cùng có lợi trong xu thế kinh tế tri thức hiện nay là điều hết sức cần thiết; qua đó, khối tư nhân sẽ đạt được giá trị kinh tế thặng dư và xã hội nói chung sẽ được hưởng lợi từ một nền giáo dục chất lượng cao. Trong bối cảnh hiện nay, khi triển khai mô hình PPP, các cơ sở GDĐH Việt Nam đứng trước một bài toán khó. Trong khi các thách thức về tài chính đã trở nên gay gắt và sẽ càng gay gắt do tác động của đại dịch Covid-19 và nguy cơ suy thoái kinh tế toàn cầu thì giải pháp PPP, dù được khuyến khích về chủ trương và đã được thể chế hóa thành luật, vẫn rất khó tổ chức thực hiện trong GDĐH. Bên cạnh sự thiếu vắng của một môi trường chính sách đủ hấp dẫn để nhà trường và doanh nghiệp đến với nhau còn là sự tồn tại của một cơ chế quản lý rất phức tạp với nhiều rào cản cả về nhận thức, thể chế và tổ chức thực hiện. Việc gỡ bỏ các rào cản này để có một hành lang pháp lý đủ rõ, cụ thể và thông thoáng cho PPP trong GDĐH là hết sức cần thiết, cấp bách. Cần có những giải pháp đồng bộ từ trung ương đến địa phương, từ các nguồn lực xã hội để thúc đẩy phát triển PPP nhằm nâng cao chất lượng GDĐH Việt Nam. ________________ Tài liệu tham khảo [1] Quốc hội (2018), Luật số: 34/2018/QH14 ngày 19/11/2018: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học số 08/2012/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 32/2013/QH13, Luật số 74/2014/QH13 và Luật số 97/2015/QH13. [2] Quốc hội (2020), Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật số 64/2020/QH14 ngày 18/06/2020. [3] Chính phủ (2019), Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 04/6/2019 về tăng cường huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019-2025. [4] Bộ Tài chính (2022), Báo cáo công khai quyết toán ngân sách nhà nước các năm 2011-2020, 2021-2022. Nguồn: https://thuvienphapluat.vn/phap-luat/thoi-su-phap-luat/bao-cao-cong- khai-quyet-toan-ngan-sach-nha-nuoc. 140
  8. [5] Nguyễn Văn Giang (2012), Phân tích các mô hình hợp tác nhà nước - tư nhân tiêu biểu trong giáo dục của một số nước trên thế giới, Tạp chí Khoa học Giáo dục, tháng 10, tr. 7-10. [6] Nguyên Phương (2022), Thu hút đầu tư tư nhân vào giáo dục đại học công: Dù có Luật nhưng còn quá nhiều rào cản. Nguồn: https://giaoduc.net.vn, ngày 14/12/2022. [7] Nguyễn Hoài Thu, Vũ Thị Phương Thảo (2020), Sự cần thiết của đầu tư theo hình thức đối tác công - tư trong lĩnh vực giáo dục ở nước ta hiện nay, Tạp chí Giáo dục, số 483 kì 01 tháng 8, tr. 13-17. [8] Phạm Đỗ Nhật Tiến (2023), Triển khai quan hệ đối tác công - tư trong giáo dục đại học: Nhận dạng một số rào cản. Nguồn: https://giaoduc.net.vn, ngày 24/01/2023. 141
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2