intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh qua “Bài nói chuyện tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội”

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

24
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngày 21-10-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Tổng thống Mali Môđibô Câyta đến thăm Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Người đã nói chuyện với các thầy cô giáo, sinh viên và cán bộ, công nhân viên của trường. Bài viết nêu một số kiến giải bước đầu về triết lý giáo dục Hồ Chí Minh từ “Bài nói chuyện tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội” của Người.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh qua “Bài nói chuyện tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội”

  1. Kỷ yếu hội thảo khoa học: "CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH MỘT TẦM NHÌN CHIẾN LƯỢC VỀ GIÁO DỤC VÀ SƯ PHẠM". pp. 90-99 TRIẾT LÝ GIÁO DỤC HỒ CHÍ MINH QUA “BÀI NÓI CHUYỆN TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI” Nguyễn Bá Cường Khoa Giáo dục Chính trị - Trường Đại học Sự phạm Hà Nội Ngày 21-10-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Tổng thống Mali Môđibô Câyta đến thăm Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Người đã nói chuyện với các thầy cô giáo, sinh viên và cán bộ, công nhân viên của trường. Bài viết nêu một số kiến giải bước đầu về triết lý giáo dục Hồ Chí Minh từ “Bài nói chuyện tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội” của Người [4;329-332]. 1. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội phải là “trường mô phạm của cả nước” Trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành sự quan tâm rất lớn đối với sự nghiệp phát triển giáo dục nước nhà. Đặc biệt, đối với Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Người đã có chỉ đạo mang tầm nhìn chiến lược về vai trò đầu ngành của Nhà trường. Quá trình hình thành và phát triển của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội được bắt đầu từ một sự kiện quan trọng diễn ra vào ngày 10 tháng 10 năm 1945 (chỉ hơn một tháng sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 45 thành lập Ban Đại học Văn khoa tại Hà Nội. Trong đó, Chủ tịch Chính phủ xác định tầm nhìn chiến lược: “Xét rằng việc đào tạo giáo sư văn khoa ban trung học rất nên cần thiết; Xét rằng cần phải nâng cao nền văn học Việt Nam cho xứng danh với một nước độc lập và để theo kịp bước các nước tiên tiến trên hoàn cầu” đồng thời đặt nhiệm vụ đầu tiên là đào tạo giáo viên Văn khoa Trung học. Giáo sư Đặng Thai Mai được cử làm Giám đốc và sau này trở thành Hiệu trưởng Nhà trường. Một năm sau, ngày 08 tháng 10 năm 1946, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Sắc lệnh số 194 thành lập ngành học Sư phạm được Chính phủ ban hành nhằm “mục đích đào tạo những nam nữ giáo viên cho các bậc học cơ bản, trung học phổ thông, trung học chuyên khoa, thực nghiệm và chuyên nghiệp trong toàn quốc” [6;11]. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội vinh dự được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm 2 lần (năm 1960 và năm 1964), trong đó đặc biệt là lần thăm trường năm 1964 90
  2. Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh qua “bài nói chuyện tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội” có sự tham dự của Tổng thống Môđibô Câyta và phu nhân cùng đoàn đại biểu Nhà nước Cộng hòa Mali. Điều này chứng tỏ sự quan tâm và sự tin tưởng đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Qua sự kiện này cũng khẳng định được vị thế của Nhà trường nói riêng và của ngành sư phạm nói chung trong đường lối, chính sách (không chỉ về giáo dục mà còn về quan hệ ngoại giao, hợp tác quốc tế) của Đảng và Nhà nước ta. Quan tâm là vậy nhưng lời đầu tiên khi phát biểu, Người vẫn nghiêm khắc tự phê bình: “Vì bận nhiều việc, Bác ít đến thăm nhà trường. Bác tự phê bình trước các cô giáo, thầy giáo, các cháu học sinh, các đồng chí cán bộ, công nhân viên” [4;329]. Theo chúng tôi, việc “Bác tự phê bình” vừa nói lên phong cách Hồ Chí Minh vừa thể hiện trách nhiệm cần thiết phải quan tâm hơn nữa tới Nhà trường, không phải chỉ ở việc đến thăm mà còn phải lo giúp đỡ, tạo mọi điều kiện để trường phát triển. Cũng trong bài nói chuyện, sau khi lấy những ví dụ cụ thể về các thầy giáo, cô giáo là thanh niên “xung phong đi miền núi, để đưa cái hiểu biết văn hóa lên cho đồng bào miền rẻo cao”, Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi nhận vai trò cống hiến của Nhà trường: “Những kết quả tốt đó đều là công lao của nhà trường, của các cô giáo, thầy giáo. Vì vậy Bác có thể nói Bác đối với nhà trường, đối với nền giáo dục của ta, tuy chưa phải là trăm phần trăm mãn nguyện, nhưng càng ngày Bác càng bằng lòng hơn: năm nay bằng lòng hơn năm ngoái và sang năm chắc sẽ bằng lòng hơn năm nay” [4;330]. Sự quan tâm và tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở những lời động viên khích lệ và giao nhiệm vụ cho đảng viên và đoàn viên của Nhà trường cần phải xung phong gương mẫu trong việc học tập cũng như trong mọi việc. Đặc biệt Người nêu rõ sứ mệnh cao cả của toàn thể cán bộ, giáo viên, học sinh, sinh viên của trường cần phải thực hiện là “làm thế nào để nhà trường này chẳng những là trường sư phạm mà còn là trường mô phạm của cả nước” [4;332]. Từ “mô phạm” được hiểu là khuôn phép, mẫu mực, chuẩn mực để người khác tôn trọng và dựa vào đó mà noi theo. Theo đó, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “trường mô phạm” là nói đến con người (chủ thể) trong Nhà trường - đó chính là cán bộ, giáo viên, công nhân viên, học sinh, sinh viên. Điều đó có nghĩa là Người đòi hỏi ở những chủ thể của Nhà trường phải (và phải phấn đấu để đạt được) là khuôn mẫu, chuẩn mực về cả đạo đức, tác phong, trình độ chuyên môn, tinh thần sáng tạo, tiên phong gương mẫu về mọi mặt. Đây là cái đích phấn đấu của tất cả mọi người trong Nhà trường. Bởi thế, đối với Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, lời phát biểu đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn được coi là di sản tinh thần to lớn, là “kim chỉ nam” cho mọi hoạt động của Nhà trường cũng như của toàn thể cán bộ, giáo viên và học sinh, sinh viên. Còn đối với ngành sư phạm nói chung, theo chúng tôi, câu nói nổi tiếng đó cần phải được coi là tuyên ngôn về ngành sư phạm. Thực hiện những lời chỉ dẫn và nhiệm vụ cao quý mà Chủ tịch Hồ Chí Minh 91
  3. Nguyễn Bá Cường giao cho Nhà trường, cùng với sự tạo điều kiện và lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong nhiều năm qua, bằng sự nỗ lực không ngừng, sự đoàn kết thống nhất của các thế hệ cán bộ, học sinh, sinh viên, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã phấn đấu khẳng định vị trí là trường đại học sư phạm đầu ngành, trọng điểm, máy cái của ngành giáo dục, là trung tâm nghiên cứu khoa học, đào tạo giáo viên chất lượng cao và lớn nhất cả nước. Sự quan tâm đặc biệt và tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời về vai trò của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đến nay còn nguyên giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn mang tính thời đại. Bởi vì, với năng lực, sức mạnh thực tế về đội ngũ cán bộ, về kinh nghiệm và uy tín về chất lượng đào tạo cao, về mạng lưới quan hệ hợp tác quốc tế hiệu quả,. . . của Nhà trường hiện nay, cùng với những chủ trương, chính sách đúng đắn, chắc chắn Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Bộ Giáo dục - Đào tạo sẽ càng quan tâm tạo điều kiện thuận lợi nhiều hơn nữa, đặc biệt tạo nhiều cơ chế đặc thù để mở ra những cơ hội phát triển thực sự cho Nhà trường, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ mạng lưới các trường sư phạm và hệ thống giáo dục quốc dân hội nhập quốc tế. 2. Phong trào thi đua phải xuất phát từ thực tiễn và phải thực sự hiệu quả Dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào thi đua “Hai tốt” - “Dạy tốt, học tốt” chính thức được Bộ Giáo dục phát động vào tháng 10 năm 1961. Đúng 3 năm sau, khi tới thăm Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, điều đầu tiên nói về ưu điểm của Trường, Người đã khẳng định về thành tích của Nhà trường trong việc thực hiện phong trào thi đua này: “Một là tất cả mọi người, các cô giáo, thầy giáo, các cán bộ, công nhân viên cũng như các cháu học sinh đều có tinh thần khắc phục khó khăn làm tròn nhiệm vụ. Đó là một điều tốt. . . Một ưu điểm nữa là phong trào thi đua “Hai tốt" ở đây làm khá. Bác nói rằng khá, chứ chưa phải trăm phần trăm tốt đâu nhé!” [4;329]. Giáo dục có quan hệ mật thiết với điều kiện kinh tế - xã hội. Trong hoàn cảnh đất nước gặp khó khăn thì giáo dục trước hết cũng gặp khó khăn. Đối với người dân Việt Nam bình thường, có thể “cái khó bó cái khôn” nhưng đối với những người trong ngành giáo dục, bao gồm các thầy, cô giáo, cán bộ, công nhân viên và người học thì nhất định không thể thụ động trước hoàn cảnh mà luôn vượt lên khắc phục mọi hoàn cảnh khó khăn để làm tròn nhiệm vụ cao cả - sự nghiệp trồng người. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như trong thực tiễn hoạt động cách mạng, Người không bao giờ có biểu hiện khuất phục trước hoàn cảnh. Con người vừa là sản phẩm lịch sử - xã hội nhưng vừa là chủ thể của lịch sử - xã hội và với nghĩa là chủ thể, con người bằng ý chí quyết tâm, bằng nghị lực và tài năng sáng tạo biết cách khắc phục hoàn cảnh và tạo ra hoàn cảnh tốt đẹp hơn trong hoạt động thực tiễn của mình. 92
  4. Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh qua “bài nói chuyện tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội” Phong trào thi đua “Hai tốt” (dù được triển khai cách đây gần nửa thế kỷ) cho đến nay vẫn đang được toàn ngành giáo dục tiếp tục hưởng ứng và thực hiện song song với nhiều phong trào thi đua khác. Sức sống của “Hai tốt” tự nó đã khẳng định tính hiệu quả của phong trào. Và cái tên “Hai tốt” đơn giản chỉ là “dạy tốt, học tốt” nhưng bao chứa tất cả ý chí quyết tâm, lòng nhiệt huyết, tận tụy, sự nỗ lực cố gắng, phấn đấu bền bỉ, sự hy sinh, năng lực sáng tạo, chủ động, và cả niềm tin, sự kỳ vọng,. . . của hai chủ thể chính của giáo dục, đó là nhà giáo và học trò. “Hai tốt” không phải là một phong trào mang tính hình thức nảy sinh từ tư duy các nhà quản lý mà là kết quả của quá trình tổng kết thực tiễn giáo dục của toàn ngành và trực tiếp được bắt đầu nhân rộng, phổ biến từ một mô hình thi đua đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn ở một trường học tại địa phương - Trường THCS Bắc Lý (huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Với Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định ưu điểm là “làm khá” trong thực hiện phong trào thi đua “Hai tốt". Câu nói: “Bác nói rằng khá, chứ chưa phải trăm phần trăm tốt đâu nhé!” chắn chắn tạo nên sức lan tỏa ấm áp, cảm động và gần gũi giữa vị Chủ tịch nước với tất cả mọi người tham dự, đồng thời tạo tinh thần quyết tâm cao hơn để toàn trường thực hiện hiệu quả phong trào này, đáp ứng yêu cầu cao và toàn diện của Người. Thực tiễn phát triển của Nhà trường đã chứng minh nỗ lực của thầy và trò trong việc thực hiện và sáng tạo những hoạt động thi đua mới (sau đó trở thành các phong trào lớn của Thủ đô và cả nước) gắn liền với phong trào thi đua “Hai tốt”. Cụ thể: Phong trào xây dựng phong cách học tập mới (1963), Phong trào Ba sẵn sàng (4/1964), Sáng kiến “Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo” (1966-1967), Phong trào Sinh viên nghiên cứu khoa học,. . . [1]. Phong trào thi đua “Hai tốt” được Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao về hiệu quả và thành tích to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục. Người cũng thường xuyên có những chỉ đạo sát thực để ngành giáo dục tiếp tục phát triển phong trào. Đặc biệt trong bức thư cuối cùng gửi cho ngành giáo dục cả nước (Báo Nhân dân đăng ngày 16/10/1968), Người nhấn mạnh quyết tâm và kỳ vọng vào hiệu quả toàn diện của phong trào: “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt. Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tuởng tốt, phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hoá và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra và trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh cao của khoa học và kỹ thuật” [5;403]. Nhìn chung, từ kết quả của phong trào thi đua “dạy tốt, học tốt” dưới sự chỉ đạo phát động, theo dõi và khuyến khích của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng tôi nhận thấy rằng, các phong trào thi đua chỉ có sức lan tỏa và phát huy hiệu quả thiết thực khi nó được bắt đầu từ mô hình của thực tiễn, đối tượng thực hiện rõ ràng, mục tiêu có tính xuyên suốt, dễ hiểu, phương thức tổ chức thực hiện cụ thể, sáng tạo, sinh 93
  5. Nguyễn Bá Cường động và việc kiểm tra đánh giá, tổng kết đơn giản vì hiệu quả thực hiện là dễ thấy qua người thực (Thầy - Trò), việc thực (Dạy - Học),. . . Hầu hết các phong trào và hoạt động thi đua sau này được phát động trong ngành giáo dục thực chất là cụ thể hóa hoặc dưới hình thức khác cho phù hợp với điều kiện thực tiễn nhưng về bản chất vẫn nhằm mục đích cơ bản nhất là “dạy tốt, học tốt”. 3. Trường sư phạm phải là thành trì vững chắc nhất bảo vệ, giáo dục và phát huy nền tảng đạo đức xã hội Cũng trong bài nói chuyện, ngay phần đầu về “mấy ưu điểm của trường”, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng. Đạo đức cách mạng là triệt để trung thành với cách mạng, một lòng một dạ phục vụ nhân dân” [4;329]. Ở đây, Người đã chỉ ra mục tiêu cơ bản mà giáo dục trong Nhà trường phải thực hiện. Mục tiêu của giáo dục phải đạt được là đào tạo con người phát triển toàn diện cả về tài và đức, hay nói theo cách thông thường là đảm bảo “đức - trí - thể - mỹ” (hoặc hiện nay được nêu là thể lực, trí lực và tâm lực). Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu trong dạy và học “phải biết chú trọng cả tài lẫn đức” cũng có nghĩa đặt ra nhiệm vụ và mục tiêu giáo dục toàn diện con người. Tuy nhiên, việc Người đưa ra định nghĩa về “đức” và nhận định vai trò của đạo đức cách mạng thì không có nghĩa là hạ thấp vai trò của “tài”. Chúng tôi cho rằng, trong mỗi thời điểm lịch sử nhất định, việc quan tâm giáo dục toàn diện con người là nhiệm vụ cơ bản của ngành giáo dục nhưng nhấn mạnh một mặt nào đó cũng là do xuất phát từ nhiệm vụ kinh tế - xã hội của đất nước. Đối với thời điểm đó, việc nhấn mạnh đạo đức cách mạng trong dạy và học là yêu cầu cấp thiết. Hồ Chí Minh dùng khái niệm “đạo đức cách mạng” để giải thích về “đức” và coi đó “là cái gốc, rất là quan trọng” nhằm phân biệt với đạo đức truyền thống được hình thành trong xã hội cũ. Theo Người, nhiệm vụ của giáo dục là xây dựng con người mới với đạo đức mới - đạo đức cách mạng với nội dung cốt lõi là “triệt để trung thành với cách mạng, một lòng một dạ phục vụ nhân dân”. Như thế, nhiệm vụ giáo dục gắn liền với sự nghiệp cách mạng, đào tạo con người để phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Đặc biệt, yêu cầu về đạo đức cách mạng được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên khi phát biểu tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội - nơi đào tạo nên những giáo viên phục vụ cho sự nghiệp phát triển giáo dục nước nhà - cũng thể hiện tư tưởng cốt lõi trong đào tạo ngành sư phạm phải đặc biệt chú trọng đến đạo đức bởi nghề dạy học từ lâu đã được xác định là nghề cao quý trong các nghề cao quý, là nghề lấy nhân cách để tác thành nhân cách. Người khẳng định: “Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng”. Điều này không chỉ đặt ra trong quan điểm giáo dục mà còn đòi hỏi trong thực tiễn giáo dục, cán bộ giáo viên và học sinh trong nhà trường phải thấu triệt 94
  6. Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh qua “bài nói chuyện tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội” và hiện thực hóa yêu cầu này. Để nói rõ hơn về việc thực hiện đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những yêu cầu cụ thể về phương diện lý tưởng sống, về chuẩn mực của nhà giáo, về tình đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ nhau trong học tập và công tác,. . . Yêu cầu trước hết mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra đối với quan hệ xã hội trong Nhà trường là “phải đoàn kết”: “Đoàn kết thật sự, giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa trò và trò, giữa cán bộ và công nhân. Toàn thể nhà trường phải đoàn kết thành một khối, đoàn kết phải thật sự trăm phần trăm chứ không phải chỉ là đoàn kết miệng” [4;331]. Người cũng yêu cầu trong mối quan hệ giữa trò với trò phải đảm bảo tinh thần bình đẳng, phải “thật sự coi nhau như anh em, chị em ruột thịt trong một nhà”, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, không được có ý ganh ghét, bắt bẻ, đố kỵ, hống hách,. . . Người nêu cao lý tưởng sống phụng sự Tổ quốc và nhân dân khi đưa ra những dẫn chứng cụ thể, thuyết phục về những gương thầy cô giáo xung phong đi miền núi. Người khẳng định “đó là quyết tâm phải làm tròn nhiệm vụ” mà Đảng và Nhà trường giao. Với nghị lực và tình yêu nghề nghiệp cùng lý tưởng sống cao đẹp, những thầy cô giáo ấy đã hòa mình vào thực tế sinh động đầy khó khăn, gian khổ để vừa “đưa cái hiểu biết văn hóa lên cho đồng bào miền rẻo cao”, vừa có điều kiện học hỏi hiểu biết thêm [4;330]. Đó là những anh hùng lao động, yêu nước, yêu người, yêu nghề. Những việc làm đó thực sự “góp phần vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa”. Người yêu cầu các cô giáo, thầy giáo cần “phải có chí khí cao thượng, phải "tiên ưu hậu lạc" nghĩa là khó khăn thì phải chịu trước thiên hạ, sung sướng thì hưởng sau thiên hạ. Đây là đạo đức cách mạng” [4;332]. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Trong việc học tập cũng như trong mọi việc, đảng viên và đoàn viên “cần phải xung phong gương mẫu”, “thi đua phát triển ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm” để trở nên mẫu mực, chuẩn mực (mô phạm). Đồng thời Người cũng nêu cao tinh thần yêu nghề và tôn vinh nhà giáo. Người viết: “Thầy cũng như trò, cán bộ cũng như nhân viên, phải thật thà yêu nghề mình. Có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản? Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh. Đây là một điều rất vẻ vang. Nếu không có thầy giáo dạy dỗ cho con em nhân dân, thì làm sao mà xây dựng chủ nghĩa xã hội được? Vì vậy nghề thầy giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang; ai có ý kiến không đúng về nghề thầy giáo, thì phải sửa chữa” [4;331-332]. Thực tiễn đời sống xã hội hiện nay đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến đạo đức trong ngành giáo dục. Nhiều trường hợp vi phạm đạo đức nhà giáo và hiện tượng bạo lực học đường xảy ra khiến cho dư luận bất bình, nhân dân phẫn nộ. Để khắc 95
  7. Nguyễn Bá Cường phục tình trạng này, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều biện pháp quản lý hành chính, trong đó phải kể đến việc triển khai thực hiện Luật Giáo dục (1998, sửa đổi năm 2005) và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, như: Quy định về công tác giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên trong các đại học, học viện, trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp (2007); Quy định về đạo đức nhà giáo (2008),. . . Tuy nhiên, gần đây, tình trạng vi phạm đạo đức nhà giáo và bạo lực học đường ngày càng gia tăng và trở nên nghiêm trọng. Vấn đề giáo dục đạo đức hơn bao giờ hết trở thành mối quan tâm trước hết của toàn xã hội. Chúng tôi cho rằng, với những chỉ dẫn sâu sắc và với tầm tư duy chiến lược của Hồ Chí Minh như đã trình bày trên đây, tuy chỉ giới hạn trong một bài nói chuyện nhưng lại là bài nói tại chính ngôi trường đại học đầu tiên của ngành sư phạm, thì đã đến lúc, Đảng và Nhà nước, Bộ Giáo dục - Đào tạo phải đề cao hơn nữa về vai trò và sứ mệnh của các trường sư phạm không chỉ đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục nói chung mà nhất thiết phải coi nơi đây, đặc biệt là các trường Đại học Sư phạm là thành trì vững chắc nhất bảo vệ, giữ gìn, giáo dục và phát huy nền tảng đạo đức xã hội. Trước đây, đã có thời kỳ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội được coi như “một loại trường Đảng”, có sứ mệnh như là “pháo đài bảo vệ chủ nghĩa xã hội” và thực tế thông qua những thành quả đào tạo đã phát huy tốt vai trò đó trong toàn ngành giáo dục và toàn xã hội [1;31]. Dù chưa được khẳng định chính thức nhưng thực tế hơn gần 65 năm của ngành sư phạm Việt Nam cũng đã chứng tỏ bản thân các trường sư phạm nói chung và Trường Đại học Sư phạm Hà Nội nói riêng đã thực sự là “thành trì của nền đạo đức xã hội”. Vấn đề bức thiết đặt ra là yêu cầu của thực tiễn xã hội đòi hỏi Đảng, Nhà nước và Bộ Giáo dục - Đào tạo cần có sự quan tâm đầu tư hơn nữa để nâng cao vị thế, vai trò đặc biệt của các trường sư phạm trong hệ thống giáo dục quốc dân. Thay đổi nhận thức là một bước cơ bản để thay đổi hành động. Đạo đức nhà giáo đại diện cho nền tảng của đạo đức xã hội. Không thể hô hào khẩu hiệu giữ gìn đạo đức xã hội mà phải hành động và lúc này phải hành động ngay. Quan tâm tới sự phát triển toàn diện trong giáo dục, đặc biệt chú trọng giáo dục đạo đức với những chính sách ưu tiên cụ thể, kịp thời cho chủ thể giáo dục (thầy - trò) sẽ là cơ sở thực sự tin cậy để xây dựng nền tảng đạo đức xã hội, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đảm bảo cho đất nước phát triển bền vững và hội nhập quốc tế thành công. 4. Triết lý “trồng cây” - “trồng người” và tổ chức giáo dục trong nhà trường Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động Tết trồng cây vào mùa xuân năm 1960 với ý nghĩa “làm cho đất nước càng ngày càng xuân”. Lợi ích của trồng cây thì ai cũng hiểu nhưng triết lý sâu xa trong việc trồng cây chính là sự nghiệp trồng người. Có thể Người đã tiếp nhận từ triết lý văn hóa phương Đông với câu nói nổi tiếng của 96
  8. Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh qua “bài nói chuyện tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội” Quản Trọng (nhà tư tưởng Trung Quốc thời Xuân thu): “Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc. Thập niên chi kế mạc như thụ mộc. Chung thân chi kế mạc như thụ nhân” (tạm hiểu theo nghĩa: Kế sách trong một năm, không gì lợi bằng trồng cấy lương thực; kế sách trong vòng mười năm, không gì lợi bằng trồng cây; kế sách trọn đời, không gì lợi bằng trồng người). Hồ Chí Minh đưa ra lời khẳng định mang tầm tư duy triết học: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” [2;222]. Trong bài nói chuyện, sau khi nhắc nhở về kết quả làm vệ sinh và trồng cây còn hạn chế, Người đặt yêu cầu: “Các cô, các chú và các cháu phải làm cho vườn của trường thành một vườn hoa, vườn cây tươi đẹp” [4;331]. Nếu hiểu việc trồng cây liên hệ tới sự nghiệp trồng người thì ở đây Hồ Chí Minh đã chỉ cho chúng ta những chỉ dẫn cụ thể và sinh động. Nếu “tham trồng cây nhiều, nhưng không chăm bón cho tốt” thì sao mà đạt kết quả tốt được. Điều đó cũng như trong công tác đào tạo, không phải cứ tham về số lượng, mà không đảm bảo về điều kiện đào tạo cho tốt, như về đội ngũ, về cơ sở vật chất, thiết bị,. . . thì không thể đảm bảo chất lượng được và đương nhiên không đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Chính vì thế, nhất định phải đảm bảo tốt về điều kiện đào tạo để “trồng cây nào thì phải chăm bón cho tốt cây đó. Như thế, hơn là tham trồng nhiều mà kết quả ít” [4;331]. Thực tế hiện nay có nhiều trường học ở các cấp học, nhất là bậc đại học, việc tuyển sinh ồ ạt trong điều kiện trường lớp không đảm bảo đã khiến cho chất lượng đào tạo nguồn nhân lực bị giảm sút, không đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng. Từ triết lý trồng cây - trồng người của Hồ Chí Minh nhận thấy rằng: Đối với việc trồng cây có thể cây không sống được do “không được chăm bón tốt” nhưng đối với việc trồng người (sự nghiệp giáo dục - điều kiện để tạo nên con người) thì không thể cho phép người ta tạo ra phế phẩm, dù chỉ ở trong suy nghĩ. Đặc biệt, chỉ trong một đoạn ngắn nhắc nhở việc trồng cây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên 4 từ “phải”: “phải chăm bón cho tốt cây”, “phải làm cho vường trường thành một vườn hoa, vườn cây tươi đẹp”, “phải làm”, “làm thì phải có tổ chức”. Triết lý sâu sắc của Người thể hiện ở chỗ, kể từ việc trồng cây đến việc trồng người, nhất định con người phải là chủ thể, phải chủ động thực hiện và khi thực hiện thì phải đảm bảo điều kiện, phải có trách nhiệm, phải đạt hiệu quả và có tác động thúc đẩy môi trường - xã hội phát triển. Điều này không chỉ khẳng định chân lý: Con người là chủ thể của lịch sử, của xã hội mà còn thể hiện rõ quan điểm của Hồ Chí Minh: “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng” [5;403]. Chính vì lẽ đó, triết lý trồng cây - trồng người ở Hồ Chí Minh luôn mang tính định hướng chiến lược cho sự nghiệp giáo dục nói chung và ngành sư phạm nói riêng. Ở đây chúng tôi cũng xin được nhắc đến câu nói về “trồng người” của nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười (trong lần GS.TS Nguyễn Viết Thịnh - Hiệu trưởng Trường 97
  9. Nguyễn Bá Cường Đại học Sư phạm Hà Nội đến chúc mừng nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Đảng, ngày 02/02/2010): “Tôi mong các đồng chí tiếp tục “trồng Thầy” cho tốt để mà “trồng Người” cho tốt, dạy làm Người tốt thì mới và dạy làm Nghề tốt được. Dạy làm Người là quyết định. Thầy giáo, Cô giáo lại quyết định việc dạy làm Người” . Trong bài nói chuyện, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nêu lên những quan điểm cơ bản về công tác tổ chức giáo dục trong nhà trường. Người chỉ rõ: “Làm thì phải có tổ chức. . . Có tổ chức thì nhất định làm được tốt”. Vậy tổ chức giáo dục như thế nào? Trước hết, về phương pháp học tập, Người yêu cầu về phía người học “không nên học gạo, không nên học vẹt” mà “Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau” [4;331]. Đối với mối quan hệ giữa thầy và trò trong quá trình lên lớp thì phương pháp chính là cầu nối, là sự liên hệ mật thiết giữa tri thức khoa học và năng lực thực hành, thực tế. Yêu cầu người học phải học thực sự, phải suy nghĩ, phải liên hệ với thực tế để rồi phải chính mình thực hành được. Đây là cả một chuỗi các hoạt động về phương pháp giảng dạy, vì thế đòi hỏi năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm và cả tinh thần trách nhiệm của người thầy đối với học trò phải thường xuyên được nâng cao. Tuy nhiên, để phương pháp dạy và học thực sự hiệu quả, Hồ Chí Minh yêu cầu phải đảm bảo kỷ cương nền nếp. Ở đây, Người nhắc nhở cả cán bộ, giáo viên và học sinh, sinh viên: “Cần phải giữ gìn kỷ luật cho tốt, phải sạch sẽ, gọn gàng. Kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do, chống lề mề, luộm thuộm” [4;331]. Trong môi trường giáo dục - nơi mà tạo nên phong cách con người mới, chủ nhân của đất nước, nhiệm vụ của cả người học và người dạy nhất thiết phải chấp hành tốt về tổ chức kỷ luật cũng như đảm bảo vệ sinh, nâng cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trước tập thể, kiên quyết loại bỏ thói quen lạc hậu làm ảnh hưởng đến sự tiến bộ chung. Tuy nhiên, ở nhiều trường học, các trung tâm giáo dục và các cơ quan giáo dục khác, tình trạng vi phạm tổ chức, kỷ cương vẫn cứ diễn ra. Có thể nhận thấy xu thế giới trẻ ngày càng biểu hiện rõ nét chủ nghĩa cá nhân ích kỷ hẹp hòi, chủ nghĩa tự do cá nhân coi thường tập thể, lối sống hưởng lạc, đua đòi,... Ở một số thầy giáo, cô giáo, cán bộ giáo dục chưa thực sự làm gương tốt cho học trò, thói quen đến muộn, về sớm, bỏ tiết, bỏ giờ không phải là hiếm gặp ở nhiều trường. Điều này có tác động không nhỏ vào việc củng cố nền nếp học tập cũng như giữ gìn kỷ cương trường lớp. Bởi vậy, trước hết, thầy giáo, cô giáo, cán bộ giáo dục phải là người đi tiên phong trong việc thực hiện nghiêm chỉnh tổ chức kỷ luật, triệt để loại bỏ những thói quen xấu; đồng thời đòi hỏi người học phải chủ động, tích cực nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của bản thân trước tập thể. Điều cơ bản Nhà trường phải thực sự là một môi trường giáo dục tốt, lành mạnh, chuẩn mực về mọi mặt (theo nghĩa tích cực nhất của quan điểm xã hội: “Trường ra Trường, Lớp 98
  10. Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh qua “bài nói chuyện tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội” ra Lớp, Thầy ra Thầy, Trò ra Trò”) thì mới mong những chủ thể của mình thực sự biến chuyển theo yêu cầu phát triển xã hội. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy khẳng định hoàn cảnh xã hội, điều kiện sống và môi trường giáo dục có tác động to lớn đối với sự hoàn thiện bản chất con người nhưng bao giờ Người cũng nhấn mạnh năng lực chủ động, sáng tạo của con người. Bởi thế, “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” [3;310]. Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là một hệ thống quan điểm thể hiện tầm nhìn chiến lược sâu sắc về vai trò của giáo dục đối với sự phát triển của con người và toàn xã hội. Trong đó có những tư tưởng đi trước thế giới, trở thành chân lý được nhân loại tiến bộ thừa nhận và tiếp tục thực hiện tư tưởng của Người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục chứa đựng kho tàng triết lý sâu sắc, đó là kết quả của sự thẩm thấu và phát triển những tinh hoa, cốt lõi của nền văn hóa dân tộc cùng với những tri thức tiến bộ của văn minh nhân loại. Kho tàng triết lý ấy cần được tiếp tục khai thác nhằm xây dựng cơ sở lý luận có tính chất nền tảng, kim chỉ nam của triết lý giáo dục Việt Nam hiện đại, góp phần vào nội dung của chủ thuyết phát triển Việt Nam đang được đầu tư nghiên cứu. Chúng tôi nhận thức sâu sắc rằng: Tìm hiểu triết lý giáo dục Hồ Chí Minh phải đặt trong tổng thể của toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người. Nhưng với nỗ lực ban đầu có tính chất sơ khởi, trong phạm vi khảo sát “Bài nói chuyện tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội”, tác giả nêu lên một số triết lý giáo dục Hồ Chí Minh như đã trình bày trên đây và mong muốn nhận được sự góp ý hữu ích của quý vị. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Ban Chấp hành Đảng bộ Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2006. Lịch sử Đảng bộ Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Nxb Đại học Sư phạm. [2] Hồ Chí Minh, 2000. Toàn tập, tập 9. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [3] Hồ Chí Minh, 2002. Toàn tập, tập 10. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [4] Hồ Chí Minh, 2002. Toàn tập, tập 11. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [5] Hồ Chí Minh, 2002. Toàn tập, tập 12. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [6] Hội khuyến học Việt Nam, 2001. 55 năm ngành Sư phạm Việt Nam (1946- 2006) - Tư liệu, hồi ký và hình ảnh. Hà Nội. tr.11 [7] Dương Thiệu Tống, 2003. Suy nghĩ về giáo dục truyền thống và hiện đại. Nxb Trẻ. 99
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2