Lý tưởng khoa học<br />
SGTT.VN - Khi xây dựng lý thuyết khoa học, nhà khoa học theo đuổi những<br />
mục đích nhất định. Nhưng, bao trùm những mục đích ấy lại là những lý<br />
tưởng lý thuyết và thực hành; chúng mang lại ý nghĩa cho hoạt động khoa<br />
học. Người ta thường kể ra sáu “lý tưởng”: tính chân lý, tính giản dị, tính<br />
mạch lạc, năng lực giải thích, năng lực tiên đoán và năng lực hành động.<br />
“Tiệm cận” và con đường ngắn nhất<br />
<br />
Lý tưởng rõ ràng nhất là tính chân lý. Kỳ cùng, mục tiêu hàng đầu của mọi<br />
nỗ lực nghiên cứu khoa học là cung cấp một sự mô tả đúng đắn về những gì<br />
thực sự diễn ra. Những khẳng định như “hôm nay trời sẽ mưa” chỉ đòi hỏi<br />
một phương pháp kiểm chứng đơn giản để biết đúng hay sai. Thế nhưng, khó<br />
khăn lớn đối với lý tưởng hàng đầu này ở chỗ không phải lúc nào cũng có<br />
thể đạt được kết quả “đúng” hoặc “sai” một cách đơn giản. Lý do thường<br />
<br />
gặp: các lý thuyết khoa học hoặc quá tổng quát nên khó kiểm chứng, nhất là<br />
đối với những đối tượng khó quan sát chính xác, hoặc đơn giản chỉ vì chúng<br />
quá phức tạp hay mơ hồ.<br />
Chính vì thế, các nhà khoa học luận thường sử dụng khái niệm “tính tiệm<br />
cận chân lý” hay tính gần đúng. Karl Popper luôn viện dẫn khái niệm này<br />
trong học thuyết kiểm sai của ông đối với sự phát triển khoa học (Sài Gòn<br />
Tiếp Thị, Khoa học phát triển như thế nào?, 22.2.2011). Theo Popper, mức<br />
độ tiệm cận của một lý thuyết là phạm vi mà lý thuyết ấy tỏ ra tương ứng với<br />
tổng thể những sự kiện, hơn là với một số sự kiện cá biệt. Một lý thuyết là<br />
“sai” hiển nhiên, theo nghĩa nó vấp phải những trường hợp bị phản chứng,<br />
nhưng vẫn có thể được xem là một sự tiệm cận chân lý khá tốt, vì nó giải<br />
thích được rất nhiều sự kiện khác. Chẳng hạn, theo Popper, cơ học Newton,<br />
tuy có nhiều chỗ không phù hợp đối với những vật thể quá nhỏ, vẫn được<br />
xem là ưu việt hơn lý thuyết của Galileo, bởi nó có thể giải thích được nhiều<br />
sự kiện hơn, ở phạm vi rộng lớn hơn và hợp nhất được cơ học mặt đất và cơ<br />
học bầu trời vốn trước đó còn bị tách rời. (Tất nhiên, ta nhớ rằng các nhà<br />
công cụ luận có thể vẫn không chịu thừa nhận chân lý và sự tiệm cận chân lý<br />
là mục đích của khoa học!)<br />
Một nguyện vọng khác của lý thuyết khoa học là tính giản dị. Mức độ của<br />
tính giản dị trong một lý thuyết là ở chỗ có nhiều khái niệm được phân biệt<br />
minh bạch, những giả định, những định luật gọn gàng và “trang nhã” để dễ<br />
rút ra những tiên đoán. Công thức nổi tiếng e = mc2 của Einstein là một ví<br />
dụ điển hình. “Nếu trước mặt bạn có nhiều con đường và bạn muốn mau đến<br />
đích, chẳng ai hỏi tại sao bạn lại chọn con đường ngắn nhất! Ta chọn lý<br />
thuyết giản dị nhất, không hẳn vì nó có vẻ đúng nhất mà vì nó là hợp lý nhất.<br />
Ta chuộng tính giản dị và hy vọng vào chân lý” (Nelson Goodman, 1972).<br />
Tính mạch lạc và khó khăn của nó<br />
Các nhà khoa học cũng mong muốn lý thuyết của mình tỏ rõ tính mạch lạc,<br />
nhất quán. Tính mạch lạc của một lý thuyết thể hiện ở mức độ tương thích<br />
với những lý thuyết khác có liên quan. Ngay trong đời sống thường ngày, ai<br />
cũng thấy “giả thuyết” rằng trời đang mưa tương thích với việc chiếc áo mưa<br />
ướt sũng hơn là với việc tôi không thích mặc áo mưa hay 2 + 2 = 4! Nếu có<br />
hai giả thuyết giải thích cùng một hiện tượng, có năng lực tiên đoán gần như<br />
nhau, thì nhà khoa học luôn ưa chuộng giả thuyết nào có mức độ nhất quán<br />
nhiều hơn (với các lý thuyết khác đã được biết trước đó).<br />
Tuy nhiên, dù giữ vai trò khá quyết định trong việc xác định giá trị của lý<br />
<br />
thuyết, tính mạch lạc cũng gặp không ít khó khăn khi ta muốn đưa ra đánh<br />
giá về nó. Thứ nhất, tiêu chuẩn về tính mạch lạc có khi không song hành với<br />
tiêu chuẩn về tính chân lý: một lý thuyết có thể hết sức mạch lạc, nhất quán<br />
nhưng vẫn có thể là sai, bởi nó không tương ứng với thực tại. Sau nữa, bản<br />
thân tiêu chuẩn này cũng có tính lẩn quẩn. Nếu tính mạch lạc của một lý<br />
thuyết thể hiện ở mức độ tương thích với những lý thuyết khác, và nếu tính<br />
mạch lạc của chính những lý thuyết khác này cũng được đánh giá dựa vào<br />
tính mạch lạc của chúng với lý thuyết ban đầu, có khi người ta không biết<br />
phải sử dụng lý thuyết nào làm lý thuyết xuất phát! Thêm vào đó, bản thân<br />
khái niệm “tính mạch lạc” cũng khá mơ hồ. Phải chăng đó chỉ là tính mạch<br />
lạc logic? Hay chính nhờ sự mạch lạc với các lý thuyết khác mà một giả<br />
thuyết tỏ ra khả tín?<br />
Sức cám dỗ của kinh nghiệm thực hành<br />
Thí nghiệm làm giàu kiến thức. Sùng tín dẫn đến sai lầm.<br />
Châm ngôn Árập<br />
Yêu cầu cốt lõi đối với một lý thuyết khoa học là ở năng lực giải thích và<br />
tiên đoán của nó. Ta muốn biết tại sao sự việc nào đó lại xảy ra, nghĩa là,<br />
đồng thời muốn biết tại sao những sự việc khác lại không xảy ra. Chính vì<br />
thế, dường như có một sự đối xứng giữa năng lực giải thích và năng lực tiên<br />
đoán khoa học. Trong sự giải thích khoa học, ta biết lý do tại sao điều gì đó<br />
phải xảy ra. Còn trong sự tiên đoán khoa học, ta được cho biết điều gì đó sẽ<br />
xảy ra. Nói theo thuật ngữ nổi tiếng của Hempel và Oppenheimer (thường<br />
được viết tắt là “sơ đồ H-O”) về mô hình diễn dịch – giả thuyết, trong sự giải<br />
thích khoa học, ta đã biết “cái cần được giải thích” và cố gắng đi tìm cho nó<br />
“cái dùng để giải thích”. Ngược lại, trong sự tiên đoán, ta đã biết “cái dùng<br />
để giải thích” và muốn biết cái gì sẽ xảy ra (tức “cái cần được giải thích”).<br />
Tóm lại, khoa học được đánh giá bằng năng lực áp dụng thực hành của nó,<br />
nghĩa là, những hành động nào ta có thể làm được trên cơ sở của những sự<br />
giải thích và tiên đoán. Tuy nhiên, năng lực thực hành bao giờ cũng là một<br />
sự cám dỗ nguy hiểm. Ta nhớ đến nhận định đáng giá sau đây của Michael<br />
Polanyi (1891 – 1976), nhà khoa học có nhiều đóng góp đa dạng trên nhiều<br />
lĩnh vực: vật lý, hoá học, kinh tế, triết học: “Hầu hết những sai lầm mang<br />
tính hệ thống thường lừa dối con người suốt hàng mấy ngàn năm đều dựa<br />
vào kinh nghiệm thực tiễn. Trước khi nền y học hiện đại ra đời, chiêm tinh,<br />
bói toán, ma thuật, phù thuỷ, chữa bệnh theo kiểu bí thuật đều được xác lập<br />
vững chắc qua nhiều thế kỷ trước mắt công chúng nhờ vào những thành<br />
công tưởng như rất hiển nhiên của chúng trong thực tế. Do đó, phương pháp<br />
<br />
khoa học hiện đại thực ra chẳng làm việc gì khác hơn là tiến hành giải thích<br />
và tiên đoán dựa trên những điều kiện được kiểm tra thận trọng hơn và<br />
những tiêu chuẩn nghiêm ngặt hơn so với những gì đã diễn ra trong thực tế<br />
trước đây” (Tri thức con người, 1958).<br />
(còn tiếp)<br />
Bùi Văn Nam Sơn - Minh hoạ: Hồng Nguyên<br />
<br />
Khoa học có khách quan không?<br />
SGTT.VN - Khoa học hầu như đồng nghĩa với sự khách quan. Ta luôn tin<br />
rằng nhà khoa học cung cấp hình ảnh chính xác về thực tại. Thế nhưng, có<br />
nhiều nghi vấn và tranh cãi chung quanh niềm tin ấy. Khoa học có thực sự<br />
khách quan không, và, nếu có, thì trong mức độ nào? Ở đây, có ba lĩnh vực<br />
cần xem xét, liên quan đến: sự quan sát, phương pháp luận, và đề án nghiên<br />
cứu khoa học.<br />
<br />
Con thỏ hay con vịt?<br />
<br />