51(3): 3 - 7<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
3 - 2009<br />
<br />
TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI BẮC BỘ –<br />
MỘT VÙNG VĂN HÓA DÂN TỘC HỌC ĐẶC THÙ<br />
(Đánh giá dưới góc độ địa lí kinh tế – xã hội)<br />
Dương Quỳnh Phương (Trường ĐH Sư phạm - ĐH Thái Nguyên)<br />
<br />
Cơ cấu hành chính – lãnh thổ của vùng trung du – miền núi Bắc Bộ gồm 15 tỉnh, trong đó<br />
11 tỉnh thuộc tiểu vùng Đông Bắc: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên<br />
Bái, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ; 4 tỉnh thuộc tiểu vùng Tây Bắc:<br />
Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình. Đây là vùng văn hóa có nhiều đặc thù, trong đó Việt<br />
Bắc là một khu vực gắn bó với thời kỳ lịch sử oanh liệt của cả dân tộc, tộc người chủ thể Tày –<br />
Nùng với lịch sử và văn hóa của họ đã góp phần vào sự thống nhất trong đa dạng văn hóa vùng<br />
và cả nước. Tây Bắc là địa bàn cư trú của các dân tộc Thái, Mông, Dao, Mường, Khơ Mú, La<br />
Ha, Xinh Mun, Tày... Mỗi dân tộc đều có văn hóa mang bản sắc riêng, đa dạng, thể hiện sắc nét,<br />
không thể phủ nhận được.<br />
1. Đặc điểm về dân cư và dân tộc<br />
Trung du - miền núi Bắc Bộ được cả nước biết đến như một vùng địa lí dân tộc học độc<br />
đáo. Các dân tộc trong vùng thuộc nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau: Các nhóm Hán - Hoa,<br />
Tạng - Miến, Mông, Dao; Các nhóm Việt - Mường, Môn Khơ Me; Các nhóm: Tày - Thái, Ka<br />
Đai.<br />
Trong số hơn 30 dân tộc ít người cư trú xen kẽ từ lâu đời nơi đây, một số dân tộc có số<br />
dân đông ở vùng Đông Bắc: Tày, Nùng...; Ở Tây Bắc: Thái, Mường... Các dân tộc Mông, Dao cư<br />
trú trên rẻo cao ở cả Đông Bắc và Tây Bắc, nhưng tập trung khá đông ở các vùng cao biên giới<br />
Việt - Trung, nhất là ở các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên. Một số dân<br />
tộc cư trú vùng biên giới thường có quan hệ thân tộc với các địa phương bên kia quốc giới. Các<br />
dân tộc ít người tuy có số dân và trình độ phát triển kinh tế – xã hội khác nhau, nhưng nhìn<br />
chung mỗi dân tộc đều có kinh nghiệm trong một số lĩnh vực như trồng cây công nghiệp (bông,<br />
chè), cây ăn quả, chăn nuôi, làm nghề thủ công. Các hoạt động công nghiệp, dịch vụ, văn hóa,<br />
khoa học kĩ thuật đều có sự tham gia của các dân tộc ít người.<br />
Trong cộng đồng các dân tộc cư trú ở trung du - miền núi Bắc Bộ, người Việt (Kinh)<br />
chiếm số đông, tập trung nhiều nhất là ở các tỉnh trung du và đô thị các tỉnh miền núi. Dân tộc<br />
Việt có nhiều kinh nghiệm thâm canh lúa nước, có các nghề thủ công đạt mức độ tinh xảo, có<br />
truyền thống làm nghề sông biển. Người Việt là lực lượng đông đảo có hoạt động sản xuất trong<br />
các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, khoa học kĩ thuật.<br />
Theo kết quả điều tra dân số 1.4.1999, trung du - miền núi Bắc Bộ có số dân 11.092,5<br />
nghìn người, chiếm 14,76% dân số cả nước. Năm 2005, số dân trong vùng đạt 11.924 nghìn<br />
người, bằng 14,3% dân số cả nước. Tuy nhiên, có sự chênh lệch lớn về mật độ dân số giữa<br />
Tây Bắc và Đông Bắc, tương ứng 69 và 147 người/km2 . Tây Bắc là vùng có mật độ dân số<br />
thấp nhất so với các vùng trong cả nước; trong đó Lai Châu có mật độ thấp nhất toàn quốc<br />
(35 người/km2 ). Theo dự báo dân số đến năm 2024, trung du - miền núi Bắc Bộ sẽ có số dân<br />
14.062,1 nghìn người nếu theo phương án dự báo ở mức thấp (mức sinh giảm); nếu theo mức<br />
sinh không đổi, sẽ đạt 15.372,8 nghìn người, tương ứng chiếm 14,2% và 14,5% dân số cả<br />
nước.<br />
Bảng 1. Địa bàn cư trú chủ yếu của một số dân tộc theo các tỉnh vùng trung du – miền núi Bắc Bộ<br />
<br />
1<br />
<br />
51(3): 3 - 7<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Cao Bắc Tuyên Lào Yên Thái Lạng Quảng Bắc Phú Điện Lai Sơn<br />
Tỉnh Hà<br />
Dân tộc Giang Bằng Kạn Quang Cai Bái Nguyên Sơn<br />
Ninh Giang Thọ Biên Châu La<br />
Kinh<br />
X<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
Tày<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
Thái<br />
x<br />
x<br />
x<br />
Mường<br />
x<br />
Nùng<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
Mông<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x x<br />
x<br />
x<br />
Dao<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
Sán Chay<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
Sán Dìu<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
Khơ Mú<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
Giáy<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
Hà Nhì<br />
x<br />
x<br />
x<br />
Lào<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
Xinh Mun<br />
x<br />
x<br />
x<br />
La Chí<br />
x<br />
x<br />
Phù Lá<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
La Hủ<br />
x<br />
x<br />
Kháng<br />
x<br />
x<br />
x<br />
Lự<br />
x<br />
x<br />
x<br />
Pà Thẻn<br />
x<br />
x<br />
Lô Lô<br />
x<br />
x<br />
x<br />
Mảng<br />
x<br />
x<br />
Bố Y<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
Cơ Lao<br />
x<br />
La Ha<br />
x<br />
x<br />
Cống<br />
x<br />
x<br />
Ngái<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
x<br />
Si La<br />
x<br />
x<br />
Pu Péo<br />
x<br />
<br />
3 - 2009<br />
<br />
Hòa<br />
Bình<br />
x<br />
x<br />
x<br />
<br />
Đại bộ phận dân số của vùng trung du – miền núi Bắc Bộ sống ở nông thôn. Tỉ lệ dân<br />
sống ở thành thị rất thấp, chỉ chiếm khoảng 18% so với tỉ lệ trung bình cả nước là 27%<br />
(2007). Quần cư nông thôn miền núi Bắc Bộ tuy đa dạng, nhưng có thể quy về hai loại hình<br />
chủ yếu: quần cư nông thôn truyền thống và quần cư nông thôn thời kỳ đổi mới. Quần cư<br />
nông thôn truyền thống phản ánh đặc điểm văn hóa cư trú của cộng đồng các dân tộc. Đồng<br />
bào các dân tộc Tày, Nùng, Thái, Mường thường cư trú thành các bản dựa theo địa hình<br />
sườn núi có nguồn nước và đất bằng, dọc theo các thung lũng sông suối. Các dân tộc rẻo cao<br />
như Dao, Mông thường sống thành các làng bản trên các địa bàn tương đối cao, trên 500m,<br />
phân bố rải rác với các tụ cư dăm ba nóc nhà chênh vênh trên các sườn dốc địa hình núi đất<br />
hoặc núi đá, nhất thiết phải có nguồn nước và nương rẫy bậc thang. Một số dân tộc sống ở<br />
vùng trung du thường ở nhà trệt, rải rác trên các gò đồi, xen kẽ những cánh đồng tương đối<br />
bằng phẳng.<br />
2. Đặc thù sản xuất của một số dân tộc<br />
Tập quán sản xuất của mỗi dân tộc phản ánh sự thích ứng với một hoàn cảnh địa lý nhất<br />
định. Một vài dân tộc trong cùng một ngữ hệ có khá nhiều điểm tương đồng với nhau trong tập<br />
quán sản xuất. Trong cộng đồng các dân tộc ở vùng trung du và miền núi Bắc Bộ, các dân tộc<br />
<br />
2<br />
<br />
51(3): 3 - 7<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
3 - 2009<br />
<br />
thuộc cùng ngữ hệ và cư trú trên những địa hình tương đối giống nhau đều có nhiều điểm tương<br />
đồng nhau về tập quán sản xuất (bảng 2).<br />
Nhìn chung, người Kinh thường cư trú trên những địa bàn có điều kiện phát triển sản<br />
xuất. Trong nông nghiệp, do có điều kiện đất đai và nguồn nước tưới thuận lợi cho canh tác nên<br />
từ lâu họ đã có truyền thống thâm canh, đắp đê, làm thủy lợi để trồng lúa nước và hoa màu.<br />
Ngoài những kinh nghiệm thâm canh lúa nước, họ còn có những tập quán sử dụng đất đai hợp lý<br />
ở những vùng đồi, núi có độ dốc nhỏ. Các thành phần cây lấy gỗ, cây ăn quả và cây nông nghiệp<br />
được sắp xếp hợp lý theo đường bình độ hoặc kế tiếp nhau theo thời vụ với các hệ canh tác: nông<br />
lâm kết hợp, các mô hình: VAC, RVAC.<br />
Người Việt (Kinh) nhờ tập quán sản xuất nông lâm nghiệp thâm canh và sự nhạy bén với<br />
nền kinh tế thị trường, nên phần lớn địa bàn cư trú của họ trở thành vùng sản xuất hàng hóa. Có<br />
thể lấy một ví dụ điển hình ở tỉnh Thái Nguyên, nhiều xã thuộc các huyện Đại Từ, Định Hóa,<br />
Phú Lương, các xã phía nam huyện Đồng Hỷ và một số xã dọc theo quốc lộ 1B huyện Võ Nhai<br />
đã trở thành vùng chuyên canh chè rộng lớn. Thương hiệu chè Tân Cương đang chiếm thị phần<br />
đáng kể trong nước và xuất khẩu. Trong thời gian gần đây, nhiều hộ gia đình người Kinh phát<br />
triển kinh tế trang trại, kết hợp cả trồng trọt và chăn nuôi, đặc biệt là trồng các loại cây lấy gỗ, cây<br />
ăn quả và chăn nuôi bò, dê, lợn, gia cầm.<br />
Bảng 2. Đặc điểm phân bố và tập quán sản xuất của các dân tộc<br />
Dân tộc<br />
<br />
Địa bàn phân bố chủ yếu<br />
<br />
Kinh<br />
<br />
Phân bố rộng tại vùng<br />
đồng bằng đồi, phân bố<br />
xen kẽ tại vùng thấp các<br />
huyện miền núi<br />
<br />
Tày<br />
<br />
Nùng<br />
<br />
Diện phân bố rộng hầu<br />
khắp vùng núi thấp và<br />
thung lũng chân núi<br />
<br />
Tập quán canh tác<br />
Thâm canh nông nghiệp lúa nước, chăn<br />
nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản (nuôi cá<br />
ao hồ); thâm canh cây công nghiệp<br />
hàng năm: lạc, đỗ tương, rau quả; cây<br />
công nghiệp lâu năm: chè (đặc biệt là<br />
chè đặc sản Tân Cương); quế (Yên Bái),<br />
hồi (Lạng Sơn), vải (Bắc Giang)…<br />
Canh tác lúa nước là chủ yếu ở các<br />
miền đất thấp và nương rẫy trên đất<br />
dốc. Là cộng đồng có vai trò chính (sau<br />
dân tộc Kinh) trong phát triển kinh tế<br />
của tỉnh.<br />
Ruộng nước và nương rẫy, trong đó<br />
nương rẫy có vai trò quan trọng trong<br />
sản xuất ra sản phẩm hàng ngày.<br />
<br />
Sán Dìu<br />
<br />
Ruộng nước, nương rẫy và cây hoa<br />
màu<br />
<br />
Sán Chay<br />
<br />
Trồng cây lương thực chiếm vị trí hàng<br />
đầu.<br />
<br />
Mông<br />
Dao<br />
<br />
Phân bố chủ yếu ở vùng<br />
cao<br />
Phạm vi phân bố ở cả<br />
vùng giữa và vùng cao.<br />
<br />
Định canh nương rẫy và ruộng bậc<br />
thang<br />
Định canh nương rẫy là chủ yếu và một<br />
phần ruộng nước<br />
<br />
Định cư<br />
Định cư thành làng lâu đời<br />
tại các đồng bằng đồi;<br />
định cư xen kẽ với các<br />
dân tộc thiểu số: Tày,<br />
Nùng, Sán Dìu và một số<br />
dân tộc khác.<br />
<br />
Định cư thành bản làng<br />
lâu đời ở các miền đất<br />
thấp.<br />
<br />
Định cư thành các bản<br />
làng trên các triền núi thấp<br />
và trên các gò đồi.<br />
Định cư thành các bản<br />
làng gần nguồn nước, đất<br />
đai, rừng núi thuận lợi cho<br />
canh tác lúa nước.<br />
Định cư theo cụm bản nhỏ<br />
và một bộ phận du cư<br />
Định cư theo các cụm bản<br />
nhỏ<br />
<br />
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả nghiên cứu thực địa của tác giả, năm 2003 – 2005.<br />
<br />
3<br />
<br />
51(3): 3 - 7<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
3 - 2009<br />
<br />
Trong quá trình định cư, các dân tộc Tày, Nùng, Sán Dìu và Sán Chay thường lựa chọn<br />
cho mình những địa bàn thuận lợi để sinh sống và sản xuất.<br />
Cư trú ven những cánh đồng khá màu mỡ ở các thung lũng miền núi của vùng, người Tày<br />
đã tạo lập được một nền nông nghiệp cổ truyền khá phát triển. Trên các khu vực người Tày sinh<br />
sống có hầu hết các loại cây trồng thích hợp với khí hậu miền Bắc nước ta. Ngoài lúa, ngô là cây<br />
lương thực chính, đồng bào còn trồng các loại cây hoa màu như: khoai lang, khoai sọ, củ từ, rau<br />
đậu… mùa nào thức ấy. Tính đa dạng của sản phẩm không chỉ phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên<br />
mà còn phụ thuộc vào kinh nghiệm sản xuất của đồng bào. Kỹ thuật làm đất gắn liền với tính đa<br />
dạng của công cụ. Cơ cấu mùa vụ khá đa dạng, trên những chân ruộng nước đồng bào thường<br />
trồng hai vụ lúa mùa và đông xuân, ở chân ruộng cạn trồng ngô, khoai lang, rau đậu, đỗ trắng…<br />
Người Nùng ít có điều kiện trồng lúa nước hơn người Tày. Nhờ tích lũy được kinh nghiệm,<br />
người Nùng khá thành thạo trong việc làm nương rẫy. Để tăng độ ẩm cho đất và tăng năng<br />
suất cây trồng, ngoài cách bón phân đồng bào còn trồng xen các loại cây khác như ngô xen<br />
cây đậu nho nhe. Một bộ phận dân tộc Nùng sống ở vùng thấp thì hoạt động sản xuất chính là<br />
làm ruộng nước và họ cũng canh tác ruộng nước giống như các dân tộc lân cận.<br />
Đối với dân tộc Sán Chay, trồng trọt vẫn là hoạt động sản xuất chủ đạo. Họ đã tuyển<br />
chọn và sử dụng bộ giống cây trồng tương đối phong phú. Đối với họ, giải pháp kỹ thuật<br />
truyền thống của việc trồng trọt là gắn chặt với điều kiện tưới tiêu. Vì thế nơi khai phá ruộng<br />
phải là những địa điểm gần nguồn nước, có thể dẫn nước vào được bằng máng hoặc mương<br />
rãnh. Còn người Sán Dìu canh tác trên các loại ruộng nước trên những cánh đồng tương đối<br />
bằng phẳng, ruộng cạn trên các nương đồi, ruộng bậc thang ở trên những độ cao khác nhau bao<br />
quanh lấy các ven đồi, ven núi. Trên các loại ruộng này, bà con đã trồng lúa, ngô, khoai sắn,<br />
các loại cây hoa màu và rau củ quả. Trong gia đình người Sán Dìu có sự phân công khá rõ nét<br />
giữa các thành viên.<br />
Trong chăn nuôi, các dân tộc Tày, Nùng, Sán Dìu đều nuôi gia súc (trâu, bò, lợn, ngựa), gia<br />
cầm (gà, vịt, chim), nghề nuôi ong cũng khá phát triển ở các xã gần rừng. Chăn nuôi chủ<br />
yếu lấy phân bón, sức kéo, thịt… Nhiều gia đình ở vùng thấp còn có ao thả cá, diện tích vài<br />
chục đến vài trăm mét vuông. Một số nơi đồng bào còn thả cá ruộng vừa làm sạch ruộng<br />
vừa cải thiện bữa ăn.<br />
Các nghề thủ công tuy là nghề phụ nhưng cũng khá phát triển trong làng bản. Đối với dân tộc<br />
Tày và Nùng, nổi bật nhất là nghề trồng bông, chàm, kéo sợi, dệt vải, nhuộm chàm. Ngoài ra<br />
còn đan lát, nghề mộc, rèn, làm gạch ngói, nung vôi. Các nghề thủ công này đều mang tính<br />
chất mùa vụ, chủ yếu vào thời gian nông nhàn.<br />
Với các dân tộc Mông và Dao, xét về mặt phân hóa không gian theo đai cao, thì đây là hai<br />
dân tộc cư trú ở độ cao cao nhất so với các dân tộc khác; đó cũng là khu vực hiện còn diện<br />
tích rừng và đất rừng khá lớn. Về phong tục tập quán, hai dân tộc này có tập quán du canh du<br />
cư, đốt rừng làm nương rẫy. Hiện nay, đại bộ phận người Mông, Dao về cơ bản đã ổn định<br />
cuộc sống định canh, song hoạt động sản xuất vẫn theo phương thức cổ truyền là canh tác<br />
nương rẫy và chăn nuôi đại gia súc. Cây lương thực chính là lúa, ngô, các loại rau mầu như:<br />
bầu, bí, khoai lang, su hào, cải làn; vật nuôi chủ yếu là trâu, bò, ngựa, lợn, gà. Các giống cây<br />
trồng, vật nuôi lấy từ nguồn gốc địa phương và hình thức chăn thả tự nhiên.<br />
4<br />
<br />
51(3): 3 - 7<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
3 - 2009<br />
<br />
Những năm gần đây một số nơi có đồng bào dân tộc Dao và các dân tộc khác trên địa bàn<br />
của vùng đã tham gia vào chương trình phát triển lâm nghiệp xã hội. Nhìn chung khi triển khai<br />
các chương trình trồng và bảo vệ rừng, một số hộ gia đình đã áp dụng theo đúng quy trình đã<br />
được phổ biến, kết hợp với chăn nuôi và trồng thêm một số cây ăn quả, bước đầu hình thành mô<br />
hình sản xuất phù hợp với môi trường vùng cao.<br />
Như vậy, bên cạnh các hệ canh tác cổ truyền là làm ruộng nước, ruộng bậc thang, nương<br />
rẫy, giờ đây cùng với sự phát triển của cả nước và sự phát triển của mỗi dân tộc, đồng thời với<br />
việc xuất hiện một số hệ thống mới về sử dụng đất đã có thêm nhiều loại hình canh tác như:<br />
vườn - ao - chuồng, vườn - rừng, các trang trại trồng cây công nghiệp lâu năm...<br />
3. Các hệ canh tác chủ yếu của một số dân tộc<br />
Hoàn cảnh địa lý nào thì có hệ thống canh tác ấy. Mỗi dân tộc, mỗi tiểu vùng đều có hệ<br />
canh tác đặc trưng, biểu thị sự thích ứng và thích nghi của mỗi dân tộc với điều kiện sống của họ<br />
để tồn tại và phát triển. Căn cứ vào đặc điểm của môi trường tự nhiên và một số các yếu tố khác,<br />
Ngô Đức Thịnh đã chia khu vực miền núi Việt Nam thành 3 tiểu vùng cư trú, canh tác khác nhau<br />
theo bậc địa hình: rẻo thấp, rẻo giữa, rẻo cao. Cách phân chia này phù hợp với sự phân hóa<br />
không gian theo đai cao ở vùng trung du và miền núi Bắc Bộ.<br />
Vùng rẻo cao: là những nơi địa hình cao, hiểm trở, thường có độ cao tuyệt đối trên<br />
600 m. Đây là vùng sâu nhất, xa nhất và khó khăn nhất trong vùng, chủ yếu là địa bàn cư trú<br />
của hai dân tộc Mông và Dao với hệ canh tác và phương thức canh tác truyền thống. Phương<br />
thức sử dụng đất tập trung vào cây lương thực, nương rẫy và vật nuôi là đại gia súc. Trên<br />
70% sản lượng lương thực của các nông hộ trên địa bàn này là ngô, lúa nương; mỗi hộ có ít<br />
nhất là 1 con trâu, 1 con bò hoặc 1 con ngựa. Hệ canh tác này đã và đang thích ứng với điều<br />
kiện sống của họ.<br />
Vùng rẻo giữa: là vùng trung gian giữa rẻo cao và rẻo thấp, các dân tộc cư trú chủ yếu<br />
là: Dao, Sán Dìu, Sán Chay, Lô Lô, Thái… hệ canh tác có tính chất pha trộn giữa vùng rẻo<br />
cao và rẻo thấp. Trên địa bàn này đồng bào vừa làm ruộng nước, vừa canh tác nương rẫy trên<br />
những sườn dốc có khi tới 45 0 . Do biết thích ứng với điều kiện tự nhiên và môi trường sống,<br />
nên đồng bào đã biết đa dạng hóa phương thức sử dụng đất bằng cách trồng lúa nước ở<br />
những nơi đất thấp ven sông suối, các thung lũng; trồng các cây lương thực chịu hạn trên<br />
nương rẫy.<br />
Vùng rẻo thấp: là những nơi địa hình thấp, độ cao tuyệt đối trung bình dưới 300m, nguồn<br />
nước dồi dào, cư dân chủ yếu là các dân tộc Kinh, Tày, Nùng, Sán Dìu, Sán Chay. Điều kiện<br />
sống và môi trường sinh thái thuận lợi hơn, do vậy, phương thức sử dụng đất tập trung vào lúa<br />
nước; nền nông nghiệp đã định canh từ khá sớm.<br />
Nhìn chung, sự phân chia khu vực miền núi thành 3 hệ canh tác theo độ cao địa hình<br />
(theo rẻo) chỉ là tương đối và có tính quy ước, song có thể khẳng định, để thích ứng với điều<br />
kiện đất đai, địa hình, khí hậu... của khu vực miền núi, đồng bào các dân tộc thích ứng với hoàn<br />
cảnh địa lý của cuộc sống bằng những phương thức canh tác khác nhau.<br />
Cho dù hoàn cảnh nào thì con người cũng tìm ra được các phương thức ứng xử phù hợp<br />
với điều kiện tự nhiên và môi trường mà họ sinh sống. Trong toàn bộ hoạt động kinh tế đa dạng<br />
<br />
5<br />
<br />