intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TS ĐỖ HỒNG THÁI NGHIÊN CỨU VÀ DẠY HỌC - LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT BẮC (TS ĐỖ HỒNG THÁI) Phần 8

Chia sẻ: Dqwdqwdqwd Qwdqwdqwdqwd | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

84
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cần bám sát nhiệm vụ trung tâm và những hoạt động hỗ trợ cho việc thực hiện nhiệm vụ đó ở đơn ở địa phương để sưu tầm tài liệu Ban tổ chức sưu tầm và xây dựng phòng truyền thống cần phải liên hệ chặt chẽ với cơ quan văn hoá, các tổ chức quần chúng ở địa phương (đoàn thanh niên, hội phụ nữ).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TS ĐỖ HỒNG THÁI NGHIÊN CỨU VÀ DẠY HỌC - LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT BẮC (TS ĐỖ HỒNG THÁI) Phần 8

  1. trong sưu tầm tài liệu và xây dựng, trưng bày hiện vật. - Tài liệu trưng bày. Cần bám sát nhiệm vụ trung tâm và những hoạt động hỗ trợ cho việc thực hiện nhiệm vụ đó ở đơn ở địa phương để sưu tầm tài liệu Ban tổ chức sưu tầm và xây dựng phòng truyền thống cần phải liên hệ chặt chẽ với cơ quan văn hoá, các tổ chức quần chúng ở địa phương (đoàn thanh niên, hội phụ nữ) hoặc các đơn vị cơ quan chức năng (tỉnh đội, huyện đội, cơ quan công an, phòng lao động thương binh xã hội...) các bộ phận lưu trữ (thuộc huyện uỷ ủy ban nhân dân...) để sưu tập tài liệu. Đặc biệt cần liên hệ và khai thác tài liệu ở những cán bộ công tác lâu năm trong nhà trường, cơ quan, địa phương và trong quảng đại quần chúng. Tài liệu để trưng bày trong phòng truyền thống rất đa dạng về thể loại chẳng hạn như tranh, ảnh về các hoạt động của đơn vị địa phương, cờ thưởng, huân chương, huy chương, kỉ niệm chương, bằng khen, giấy khen, mô hình, sa bàn, bản đồ, biểu đồ, tập hồi kí, nhật kí, sổ ghi cảm tưởng, thư từ gìn về đơn vị, những bài báo, tập san viết về cơ quan, địa phương v.v... Ở mỗi đơn vị, tài liệu có thể khác nhau, chẳng hạn ở trường học thì tài liệu phản ánh nhiệm vụ trung tâm là dạy và học ngoài ra còn lao động xây dựng trường, hoạt động phục vụ công tác chiến đấu, lao động sản xuất v. v... Nhưng ở địa phương thì tài liệu phản ánh nhiệm vụ cơ bản của địa phương theo từng thời kì (lao động sản xuất, chiến đấu và 120
  2. phục vụ chiến đấu, phát triển kinh tế văn hoá xã hội v.v...) Điều cơ bản là tài liệu phải làm nổi bật thành tích của đơn vị, tập thể và cá nhân có tác dụng nêu gương bồi dưỡng lòng tự hào cho quần chúng, để họ có ý thức trân trọng biết giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của địa phương, của đơn vị mình. Đối với việc sưu tập hiện vật để xây dựng phòng truyền thống của nhà trường, người ta thường lưu ý một số loại sau đây: + Tranh ảnh, hoặc tài liệu viết về nhà trường những buổi đầu mới thành lập, những người có công lao xây dựng nhà trường, những gương mặt của đội ngũ thầy, trò qua các khoá học. + Tranh ảnh hoặc tài liệu phản ánh những hoạt động chủ yếu của nhà trường qua các giai đoạn, hồi kí, hoặc tham gia những ngày kỉ niệm truyền thống (ngày thành lập trường, ngày đại hội, gặp mặt, kỉ niệm 20/11, 8/3 v.v...) + Các loại đồ dùng học tập, những cải tiến, sáng kiến của thầy và trò trong công tác giảng dạy và học tập, nghiên cứu khoa học. + Các loại giấy khen, bằng khen, giấy chứng nhận v.v... đánh giá thành tích của nhà trường, các đơn vị, cá nhân trong trường ở tất cả các hoạt động dạy, học, văn nghệ, thể thao, phục vụ chiến đấu và sản xuất ở địa phương, công tác đối ngoại giao lưu trao đổi công tác giữa các trường ở trong và ngoài nước. 121
  3. + Các loại tranh, ảnh phản ánh thành tích nổi bật của những đơn vị và cá nhân tiêu biểu. Cũng có thể sưu tập những cuốn sổ tay, nhật kí, những bài viết, cảm tượng của học sinh khi ra trường hoặc ở nơi công tác gửi về trường. Để học sinh có thể dễ hình dung những vị trí, quy mô của trường qu8 mỗi giai đoạn lịch sử có thể minh hoạ qua sơ đồ quy hoạch phát triển hoặc vị trí của trường trên bản đồ địa phương. Nếu nhà trường đã biên soạn được lịch sử thì cuốn sử đó cũng nên trình bày trong phòng truyền thống. - Yêu cầu đối với việc xây dựng phòng truyền thống. + Việc trước hết là lựa chọn địa điểm xây dựng phòng truyền thống hoặc nhà truyền thống địa phương phải là nơi trung tâm, tiện đi lại, dễ quan sát, phong quang, trang trọng hoặc gắn với di tích lịch sử tiêu biểu ở địa phương. Vị trí tiện lợi cho việc tổ chức những hoạt động tập thể, gắn với kiến trúc tống thể của khu vực một cách hài hoà, tuyệt đối tránh xây dựng ở nơi trũng thấp lụt úng hoặc tách rời đơn lẻ lạc lõng. + Tài liệu có thể trưng bày theo từng chủ đề, mảng hoạt động hoặc cũng có thể trình bày theo các giai đoạn phát triển của nhà trường cơ quan, địa phương. Có thể thay đổi sự trưng bày hiện vật theo chủ đề của các dịp kỉ niệm, ngày lễ hội. + Nên có sự cân nhắc lựa chọn hiện vật trưng bày sao cho hợp lí tránh tham lam, ôm đồm, trưng bày quá nhiều tài liệu làm cho phòng truyền thống trở nên chật chội, rườm rà. 122
  4. Tài liệu phải phản ánh tính toàn diện và tiêu biểu, điển hình có ý nghĩa giáo dục. + Cách bài trí vừa đảm bảo tính trực quan, thẩm mĩ vừa toát hiện ý nghĩa trân trọng tạo nên cảm giác dễ gây ấn tượng, hồi tưởng và ngẫm suy. 123
  5. PHẦN PHỤ LỤC HƯỚNG DẪN BIÊN SOẠN MỘT SỐ BÀI GIẢNG VỀ LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT BẮC BÀI l: VĂN HOÁ BẮC SƠN (LẠNG SƠN) 1. Sự xuất hiện nền văn hoá Bắc Sơn. Xứ Lạng từ xưa vốn nổi tiếng là một miền quê sơn thuỷ hữu tình. Nơi đây có những dãy núi đá vôi trùng điệp, ẩn chứa nhiều hang động, nhiều thung lũng bằng phẳng, màu mỡ và sông suối trong lành đầy nước quanh năm. Điều kiện tự nhiên đó đã góp phần tạo nên nền văn hoá Bắc Sơn nổi tiếng trong lịch sử dân tộc và khu vực Đông Nam Á. Nền văn hoá Bắc Sơn xuất hiện cách ngày này khoảng từ 9 đến 7.000 năm, nhưng mãi đến đầu thế kỉ XX nó mới được phát hiện. Năm 1906 nhà địa chất học người Pháp là H.Mansuy đã tiến hành khai quật hang Thẩm Khoách (Bình Gia - Lạng Sơn), thu được những công cụ bằng đá và phát hiện được xương người - chủ nhân của những công cụ đó. Những di cốt này thuộc sơ kì đồ đá mới. Từ năm 1922 – 1925, những cuộc khai quật tiếp theo của H.Mansuy và M. Côlani đã phát hiện thêm 43 di tích ở Bắc Sơn. Những tài liệu được công bố đã thu hút sự chú ý của các nhà khảo cổ học trên thế giới. 124
  6. Trong những năm 60 của thế kỉ này, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã tiến hành khảo cứu, khai quật một số di tích ở Thẩm Khuyên, Thẩm Hai, Kéo Lẻng v.v... thu được nhiều di vật giá trị: những mảnh xương, răng người, xương động vật, công cụ bằng đá mảnh gốm v.v... Đặc biệt ở đây đã tìm thấy nhiều loại rìu mài lưỡi, được gọi là "Rìu Bắc Sơn" (Hache Bacsoniens) cùng với những phiến thạch nhỏ, dài, trên thân có nhiều vết lõm hình máng úp rộng từ 3 - 8 cm, sâu từ 1 - 3 cm (gọi là dấu Bắc Sơn")( 1 ). Những hiện vật khảo cổ đó được coi là tiêu biểu của nền văn hoá Bắc Sơn xuất hiện vào loại sớm nhất ở châu Á. Văn hoá Bắc Sơn không chỉ tập trung dày đặc ở trong sơn khối Bắc Sơn của Xứ Lạng, mà còn xuất hiện ở nhiều nơi như: Bắc Thái, Cao Bằng, và cả ở vùng Đông Nam Á. Những loại Rìu mài lưỡi kiểu Bắc Sơn còn được tìm thấy ở Xiêng Ray (Thái Lan), Laquadelba (Phi líp pin), Malang (Inđônexia) v.v.. Những tài liệu thu được đã chứng tỏ rằng nền văn hoá Bắc Sơn là dấu vết của tổ tiên loài người trong thời tiền sử. 2. Đời sống của cư dân nguyên thủy. Dựa vào các hiện vật khảo cổ, cảnh quan thiên nhiên, của vùng sơn khối đá vôi những dấu tích còn lưu lại trong các hang động, ta có thể hình dung được cuộc sống của bầy người nguyên thuỷ - chủ nhân của nền văn hoá Bắc Sơn. (1) về công dụng của hiện vật này cũng còn nhiều ý kiến. Có giả thuyết cho rằng đấy là một loại bàn mài. 125
  7. Trong buổi đầu của thời kì tiền sử, đời sống của người nguyên thuỷ lệ thuộc chặt chẽ vào thiên nhiên. Họ sống thành từng bầy, lang thang hái lượm và săn bắt, trú ẩn trong các hang động tự nhiên. Thức ăn chủ yếu là các loại rau quả hoang dã, thịt thú rừng, cá, tôm, trai ốc v.v... ( 1 ). Qua quá trình phát triển lâu dài, người nguyên thuỷ đã đã tích luỹ được những kinh nghiệm chế tác công cụ. Họ đã tạo ra các loại rìu dài, rìu hạnh nhân, đặc biệt là rìu mãi lưỡi và một số công cụ đào bới khác. Những cải tiến đó giúp họ thoát dần sự lệ thuộc chặt chẽ vào thiên nhiên. Từ hái lượm những sản phẩm sẵn có, cư dân nguyên thuỷ đã biết cách trồng trọt. Ban đầu là những loại bầu, bí, rau củ sau đó là những cây có hạt, cây ăn quả. Từ sự cải tiến công cụ, việc săn bắt và săn bắn cũng có hiệu quả hơn. Ngoài những cầm thú nhỏ như nhím, gà, chồn, cáo, họ còn bắt được những thú lớn như hươu, nai, thậm chí cả thú dữ như hổ, gấu, lợn rừng. Những chiếc răng, xương của thú rừng tìm thấy cùng các di tích của người trong cùng tầng văn hoá Bắc Sơn đã nói lên điều đó. Những cầm thú săn bắt được, cư dân nguyên thuỷ đã giữ lại nuôi làm thức ăn dự trữ, một số loài được thuần dưỡng (chó, mèo, gà, lợn). Như vậy cùng với Hoà Bình, cư dân Bắc Sơn đã có kĩ (1). Qua việc khai quật các hang động ở Bắc Sơn đã phát hiện những đống vỏ ốc lớn (cả óc núi và ốc suối) có chiều dày từ 1m - 3m, chứng tỏ đây là nguồn thức ăn quan trọng của họ. Người nguyên thuỷ cũng lưu lại khá lâu ở những nơi dễ kiếm ăn. 126
  8. thuật mài đá tạo ra những lưỡi rìu sắc. Đó là những công cụ tiện lợi, hữu ích, làm giảm cường độ lao động, tăng tính hiệu quả của việc làm. Chính vì lẽ đó các nhà khảo cổ đã khẳng định rằng: "Cái rìu tầm thường đã đưa đến cả một cuộc cách mạng"( 1 ). Từ "cách mạng” trước hết là công cụ dẫn tới cách mạng trong nông nghiệp với sự ra đời của trồng trọt và chăn nuôi. Ngoài những công cụ lao động, cư dân nguyên thuỷ ở Bắc Sơn còn biết làm đồ gốm. Những mảng gốm thô, nặn bằng tay, độ nung thấp, được tìm thấy trong một số di tích văn hoá Bắc Sơn (Đồng Thuộc, Đồng lầy, Làng Vạc v.v...). Dẫu còn rất thô sơ, nhưng đồ gốm đã giúp cư dân cải thiện dần đời sống. Đồ gốm đựng nước, cất thức ăn dự trữ, làm cho cuộc sống, sinh hoạt của họ được chủ động hơn xưa. Cùng với việc phát triển đời sống văn hoá vật chất là sự xuất hiện văn hoá tinh thần. Những công cụ của nền văn hoá Bắc Sơn được tìm thấy ở nhiều nơi, cả trong và ngoài nước, những vỏ ốc biển được tìm thấy trong các di chỉ ở Bắc Sơn chứng ta cư dân nguyên thuỷ ở đây đã có sự giao lưu rộng rãi. Người ta còn tìm thấy những vỏ ốc biển được mài nhẵn phần lưng để làm đồ trang sức (di chỉ Thẩm Kho ách, làng Lôi) chứng tỏ rằng từ buổi xa xưa, cư dân nguyên thuỷ Bắc Sơn đã có đời sống tinh thần phong phú. (2) xem GS. Hoàng Xuân Chinh: Xứ Lạng - Quê hương văn hoá Bắc Sơn. Tuyển tập luận văn. Hội nghị khoa học về Xứ Lang - Lạng Sơn. Sở Văn hoá thông tin Lạng Sơn 1988. 127
  9. 3. Ý nghĩa của nền văn hoá Bắc Sơn. Nên văn hoá Bắc Sơn có ý nghĩa quan trọng đối với việc khảo cứu thời kì nguyên thuỷ ở Việt Nam và thế giới. Từ chiếc răng của người tối cổ cách ngày nay hàng chục vạn năm, đến những di cất của người vượn ở Trung Kì Cánh Tân cách ngày nay khoảng 250.000 năm, đặc biệt các hộp sọ ở thời kì đá mới cách đây khoảng từ 9000 - 7000 năm v.v... đã chứng tỏ Bắc Sơn là một trong những chiếc nôi xuất hiện loài người. Những hoá thạch ở Kéo Lèng, Thẩm Khuyên, Thẩm Hai cùng với di tích Hang Hùm (Yên Bái) đã chứng minh rằng từ thời đồ đá cũ, ở Việt Nam đã xuất hiện người Vượn (Hono erectus) người khôn ngoan (Hono sapiens) và sau nữa là người khôn ngoan thực sự (Homo sapiens sapiens). Việc cư dân Bắc Sơn sáng tạo ra những chiếc rìu mài lưỡi được coi là cuộc cách mạng đá mới sớm nhất trên thế giới. Đồ gốm xuất hiện cùng với đồ trang sức bằng vỏ sò đã chứng tỏ trình độ phát triển cao của chủ nhân nền văn hoá Bắc Sơn so với bối cảnh chung của thế giới lúc bấy giờ. Chính vì vậy, văn hoá Bắc Sơn không chỉ có sức sống bền lâu mà còn toả ảnh hưởng mạnh mẽ sang các vùng trong và ngoài nước. Văn hoá Bắc sơn mở đầu cho thời kì đá mới với nét đặc trưng là phát triển văn hoá nông nghiệp, giúp con người bớt dần sự lệ thuộc vào tự nhiên. Trên cơ sở đó cư dân, nguyên thuỷ tiến xuống các triền sông, đồng bằng, ven biển để lại những di tích như Soi Nhụ (Quảng Ninh) tiếp sau cư dân Hoà Bình tạo ra văn hoá Đa 128
  10. Bút nổi tiếng (ven biển Thanh Hoá). Hàng mấy ngàn năm sau, đến những di chỉ của văn hoá Phùng Nguyên, người ta vẫn tìm thấy những công cụ đặc trưng của nền Văn hoá Bắc Sơn. Điều đó càng chứng tỏ trình độ phát triển và sức sống mạnh mẽ của nền văn hoá này. Những chứng tích đó đã bác bỏ những quan điểm của một số học giả phương Tây, cố tình đánh giá thấp, coi nhẹ sự phát triển của nền văn hoá ở Việt Nam và Đông Nam Á. - Vì sao nói những điều kiện tự nhiên đã góp phần tạo ra nền Văn hoá Bắc Sơn ? - Miêu tả đời sống của cư dân nguyên thuỷ Bắc Sơn ? - Phân tích ý nghĩa của nền Văn hoá Bắc Sơn? Đọc thêm: MỘT SỐ DI TÍCH KHẢO CỔ Ở BẮC SƠN 1. Hang Thẩm khoách: thuộc núi Cai Kinh, cách Bình gia (Lạng Sơn) 400 m về phía Tây. Năm 1906 nhà địa chất học, người Pháp H.Mansuy đã khai quật và thu được ở đây 7 bộ xương người (5 bộ xương người lớn, 2 bộ xương trẻ em). Nghiên cứu các hộp sọ, các nhà khảo cổ cho rằng đó là sọ người Inđonesia. Những bộ xương Thẩm Khoách là sự phát hiện cổ nhân học đầu tiên ở Việt Nam. 2. Hang Đồng Thuộc: Nằm phía Nam dãy đá vôi Bắc Sơn, cách cột cây số đường Hà Nội - Cao Bằng 700m về phía Đông. Năm 1922 - 1923 H. Mansuy tiến hành khai 129
  11. quật hang này, thu được một hộp sọ và một số mảnh xương khác. 3. Hang Kéo Phầy: Thuộc làng Kéo Phầy huyện Bắc Sơn. Hang được khai quật trong những năm 1923-1924. Nghiên cứu những chỏm sọ ở đây H.Mansuy cho rằng nó giống chỏm sọ ở hang Thẩm Khoách. 4. Hang Làng Cườm (thuộc huyện Bình Gia) M.Côlani - một học trò xuất sắc của H.Mansuy đã tìm thấy và khai quật năm 1924. Qua khai quật, thu được gần 100 di cất người cổ. Các nhà khảo cổ phân tích mẫu xương và cho rằng đây là di cất người Indonesien bản địa. 5. Hang Thẩm Khuyên (thuộc Bản Hậu xã Văn Tân huyện Bình Gia). Tháng 5/1966 Viện khảo cổ học Việt Nam tiến hành khai quật lần thứ nhất, thu được những chiếc răng rời đã hoá thạch. Những cuộc khai quật tiếp theo thu được răng của đười ươi, khỉ đuôi dài, gấu tre, đặc biệt có 9 răng của người vượn. Phân tích mẫu vật, các nhà khảo cổ cho rằng những chiếc răng ở đây cùng thời với người Vượn Bắc Kinh. Cách hang Thẩm Khuyến 20m là hang Thẩm Hai. Năm 1964 Viện khảo cổ học Việt Nam cùng với tiến sĩ người Đức H.D. Kahlke phát hiện ở đây 1 chiếc răng hàm trên cùng với một số hoá thạch trên vách hang. 6. Hang Kéo Lèng (thuộc Bản Dù, xã Tô Hiệu, huyện Bình Gia) Năm 1966, viện khảo cổ học Việt Nam đã thám sát hang thu được 1 răng của gấu tre. Sau khi khai quật, đã 130
  12. thu được xương hàm, hộp sọ, mảnh xương và một số hoá thạch khác. Bài 2: HÀ GIANG DƯỚI ÁCH THỐNG TRỊ CỦA THỰC DÂN PHÁP (1887 - 1945). 1. Chính sách cai trị của thực dân pháp. Ngay sau khi chiếm đóng Hà Giang, thực dân Pháp đã tiến hành hàng loạt những chính sách cai trị thâm độc va tàn bạo, để chuẩn bị cho công cuộc khai thác thuộc địa lẩn thứ nhất ở Đông Dương. Về chính trị: Thực dân Pháp tìm cách lôi kéo các thổ ti, địa chủ phong kiến và những phần tử phản động làm chỗ dựa, tạo cơ sở xã hội cho việc bình định vùng cao. Một mặt thực dân Pháp tiến hàm chế đồ quân quản, đưa sĩ quan Pháp chỉ huy cả về quân sự lẫn việc kiểm soát điều hành công việc hành chính ở các địa phương, mặt khác chúng tăng cường chính sách "chia để trị". Cùng với việc lập các xứ tự trị (Xứ Mường tự trị, xứ Mèo tự trị) Pháp tìm cách xúi bẩy, gây mâu thuẫn, tạo mối hiềm khích, hận thù giữa các dân tộc Tày, Núng, Dao, Mèo (H'mông) ở Hà Giang. Viên quan năm Pháp trưởng đạo quân binh III, kiêm chức công sứ( 1 ). Các viên đại uý làm nhiệm vụ kiểm soát (1). Đạo quân binh thứ III ở Hà Giang bao gồm lính khố đỏ, khố xanh lính lê dương và các chi nhánh hậu cần, quân giới. 131
  13. chỉ đạo hành động của các tri châu, bang tá bản địa, đồng thời kiêm luôn chức cảnh sát khu vực. Mỗi vùng dân tộc có một bộ máy hành chính khác nhau. Vùng đồng bào dân tộc Tày chia thành các châu, tổng do các Chánh, Phó tổng, Lý trưởng, Xã đoàn cai trị. Khu vực người Mèo (H mông) chia thành các giáp do các Tổng giáp, Mã phải cai quản dưới sự kiểm soát của các Bang tá, Thổ ti. Vùng người Dao chia đơn vị hành chính thành các động do Quản chiểu đứng đầu. Về quân sự: Thực dân Pháp tăng cường bổ xung, huấn luyện lực lượng lính khố đỏ, khố xanh, xây dựng các hệ thống đồn bốt để án ngữ, kiểm soát chặt chẽ các trục đường giao thông quan trọng. Đồng thời Pháp tiến hành bố trí lực lượng cảnh sát, mật thám dày đặc ở các nơi. Bên cạnh đó Pháp cho xây dựng một nhà tù lớn ở thị xã các nhà giam ở các địa phương. Năm 1939, Pháp xây dựng ở Bắc Mê một nhà tù lớn (còn gọi là Căng Bắc Mê) để giam những tội phạm nguy hiểm, nhất là tù chính trị. Nhiều cán bộ, đảng viên ưu tú của ta đã từng bị giam ở nhà tù này ông chí Xuân Thủy, Hà Kế Trần, Hoàng Bắc Dũng, Hoàng Đình Giong v.v… Hệ thống toà án các cấp được thiết lập để xét xử các phạm nhân đồng thời là công cụ để khủng bố tinh thần đấu tranh chống Pháp của đồng bào các dân tộc. Về kinh tế. Thực dân Pháp cấu kết với bọn thổ ti, địa chủ, quan lại địa phương vơ vét, bóc lột các loại lâm thổ sản quí. Đồng thời chúng tìm mọi cách để tước đoạt ruộng đất, vườn, bãi của nông dân, ở cả vừng thấp và vùng cao. Ở Hà Giang, ngoài những loại thuế chung giống như cả nước, 132
  14. thực dân Pháp còn đặt ra nhiều thứ thuế phi lí khác Thuế ngựa thồ đánh vào những người có ngựa, thuế gia ốc còn gọi là thuế khói lửa, đánh vào mỗi gia đình...) Ngoài ra ở các vùng, bọn thổ ti quan lại địa phương còn tuỳ tiện đặt ra hàng loạt nghĩa vụ phong kiến nặng nề đối với nông dân. Một số nơi như Bắc Mê, Yên Minh địa chủ, thổ ti phát canh cho nông dân để thu tô gọi là ruộng “quằng". Ngoài việc phải trả tô theo định xuất, người nông dân cấy ruộng “quằng" phải có nghĩa vụ nộp lợn, gà, rượu, gạo, tiền, bạc hoặc phục dịch không công mỗi khi nhà chủ ruộng “quằng” có việc (giỗ, tết cúng lễ v.v...) Về văn hoá, xã hội: Chính quyền thực dân tăng cường mở các đại lí bán rượu và thuốc phiện để đầu độc nhân dân, khuyến khích những tệ nạn xã hội (rượu, chè, cờ bạc, nghiện hút v.v...). Lúc bấy giờ, cả tỉnh Hà Giang chỉ có một trường tiểu học, vài trường bán cấp chủ yếu phục vụ cho con em quan chức địa phương mặc những gia đình khá giả, vì vậy hơn 90% dân số Hà Giang mù chữ, cả tỉnh chỉ vẻn vẹn có 2 cơ sở y tế, trong đó một cơ sở dành riêng cho quan chức và binh lính, cơ sở còn lại chủ yếu phục vụ cho những nhà giàu. Như vậy các chính sách cai trị của thực dân Pháp đều nhằm phục vụ cho những mục tiêu chính trị phản động, lợi ích kinh tế của chủ nghĩa thực dân, vì vậy đã ảnh hưởng trực tiếp túi đời sông của các tầng lớp nhân dân ở Hà Giang 2. Đời sống của các tầng lớp nhân dân ờ Hà Giang. 133
  15. Chính sách cai trị thâm độc và tàn bạo của thực dân Pháp đã làm phân hoá các tầng lớp nhân dân các dân tộc ở Hà Giang. Tuy chưa có sự phân hoá sâu sắc và điển hình, song các giai, tầng ở Hà Giang đã thể hiện rõ nét địa vị kinh tế và bản chất chính trị của mình. Giai cấp nông dân chiếm hơn 90% dân số của tỉnh, sống tập trung hơn cả các vùng thấp như Bắc Quang, Vị Xuyên... Họ bị thực dân, phong kiến tay sai, tước đoạt ruộng đất, bóc lột tàn nhẫn qua hệ thống tô, thuế nặng nề cùng với hàng loạt các nghĩa vụ phong kiến phi lí khác. Vì vậy đời sống của nông dân vô cùng khổ cực Ruộng đất canh tác của nông dân Hà Giang vốn đã rất ít lại bị nạn bao chiếm thường xuyên, kĩ thuật canh tác lạc hậu, lệ thuộc chủ yếu vào thiên nhiên nên năng suất rất thấp. Nạn đói thường xuyên đe doạ đời sống của người nông dân. Trong những kì giáp hạt (tháng ba này tám) nông dân thường phải kiếm tìm củ mài, củ háu, bột đao, rau, quả qua ngày. Ở vùng rẻo cao đồng bào các dân tộc thiểu số còn phải chịu cảnh thiếu nước, thiếu muối. Trong hoàn cảnh như vậy, giai cấp nông dân ở Hà Giang căm thù sâu sắc chính quyền thực dân, phong kiến, họ là lực lượng cách mạng hăng hái để sau này Đảng ta giác ngộ, chỉ đường vùng dậy đấu tranh giành độc lập, tự do. Bộ phận tiểu tư sản ở Hà Giang với số lượng rất ít. Họ là những công chức, tiểu thương, dân nghèo thị phố... luôn bị chính quyền thực dân phong kiến chèn ép, khống chế bạc đãi và khinh rẻ. Trong điều kiện kinh tế ở Hà Giang kém 134
  16. phát triền, đời sống của họ càng vất vả, khó khăn. Họ có sự đồng cảm với nông dân trong nỗi nhục mất nước và cuộc sống bần hàn, sau này được giác ngộ họ tích cực tham gia cách mạng. Hà Giang lúc này chưa có những cơ sở công nghiệp lớn, một số ngành nghề thủ công, rèn, mộc, gốm dệt v.v... đều phân tán ở các gia đình, hoạt động theo cách tự sản, tự tiêu. Chính vì vậy lực lượng công nhân ở Hà Giang hầu như chưa xuất hiện, chỉ có một vài người làm công trong các trạm phát điện nhỏ của thị xã lúc bấy giờ. Ở một tỉnh chưa có sự phát triển về công, thương nghiệp, lực lượng tư sản ở Hà Giang chỉ hơn chục hộ. Họ mở các đại lí buôn bán ở thị xã và vài thị trấn. Do lực lượng kinh tế non yếu, các hộ tư sản ở Hà Giang phải dựa nhờ và lệ thuộc vào chính quyền thực dân. Trong số họ có những người yêu nước đã đứng về phía quần chúng trong các cuộc đấu tranh cách mạng. 1 Tầng lớp thổ ti, cường hào, quan lại, bang tá... Ở địa phương chiêm số lượng không nhiều, nhưng đó là chỗ dựa đáng tin cậy của chính quyền thực dân. Được Pháp hỗ trợ, dung dưỡng, lực lượng này vừa có thế lực kinh tế, vừa có uy thế về chính trị. Vì vậy đây là lực lượng chính trị phản động là đối tượng của cách mạng, tuy nhiên có một bộ phận nhỏ quan chức tiến bộ, có uy tín và ảnh hưởng lớn đối với (1) Theo: Lịch sử cách mạng tháng Tám tỉnh Hà Giang (Sơ thảo). 1971. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Hà Giang Có tài liệu cho rằng cuộc khởi nghĩa do Sùng Mí Chảng nổ ra năm 1911 (?) 135
  17. đồng bào địa phương, ta đã tuyên truyền thuyết phục họ ngả theo cách mạng ở giai đoạn sau này. 3. Những cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân. Ngay từ những này đâu xâm lược Hà Giang, thực dân Pháp đã vấp phải sự kháng cự, đấu tranh quyết liệt của đồng bào các dân tộc. Mở đầu là cuộc đấu tranh của đồng bào Tây ở Bắc Quang, đã can ngăn làm chậm bước tiến quân xâm lượng của kẻ thù. Phải mất 7 năm (1881-1887) thực dân Pháp mới cơ bản chiếm được Hà Giang. Năm 1903 Sùng Mí Chảng đà lãnh đạo đồng bào H'mông ở Đồng Văn vùng dậy khởi nghĩa (1). Nghĩa quân đã làm chủ một vùng rộng lớn trên cao nguyên Đồng Văn, khiến cho kẻ thù phải lao đao trong quá trình - đối phó. Cuối cùng địch dùng thủ đoạn mua chuộc những phần tử xấu làm phản. Sùng Mí Chảng bị địch giết hại, cuộc khởi nghĩa bị dập tắt. Sùng Mí Chảng vốn mồ côi từ nhỏ, giàu lòng nhân ái, Chảng hay đàn hát, giỏi võ nghệ, sống cởi mở, chan hoà được mọi người mến phục. Khi Sùng Mí Chảng kêu gọi đồng bào Mèo (H’Mông) ở Đồng Văn khởi nghĩa, thanh niên các nơi nô nức kéo về đông tới 600-700 người. Nghĩa quân đánh chiếm Thiền Phùng, mở rộng căn cứ Mèo Vạc, Sơn Vỹ, Tù Sán. Sùng Thị Mỉ, em gái Sùng Mí Chảng đã tập hợp lực lượng nữ, lo việc chu cấp lương thực cho nghĩa quân. Nhiều lần thực dân Pháp tồ chức vây bắt Sùng Mí Chảng 136
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2