YOMEDIA

ADSENSE
Tư duy thơ trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại
60
lượt xem 9
download
lượt xem 9
download

1. Những văn bản được tạo lập theo nhãn quan thơ: Không phải là tất cả, cũng không phải số đông nhưng chúng có khả năng gây ấn tượng mạnh ở sự tổ chức văn bản.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tư duy thơ trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại
- Tư duy thơ trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại 1. Nh ững văn bản đượ c tạo lập theo nh ãn quan thơ: Kh ông ph ải là tất cả, cũng kh ông ph ải số đô ng nh ưng ch úng có kh ả năng gây ấn tượng mạnh ở sự tổ ch ức văn bản. N ếu hi ểu “chất th ơ” là “ch ất trữ tình ”, “thi vị” nh ư đã thấy khi đọ c Mi ền Tây, Tuổi tr ẻ Ho àng Văn Th ụ (Tô Ho ài), Hòn đấ t (Anh Đức), Vùng trời (Hữu Mai) … th ì ph ải nói ngay nh ững tác ph ẩm này kh ông giống thế: Bức tranh đờ i sống mà ch úng vẽ ra hầu nh ư ch ẳng có gì thi vị; điểm nh ìn trần thu ật đầ y sắc th ái ho ài nghi, tra vấn; hệ từ vựng thông tục chi ếm vị trí áp đảo; gi ọng ch âm bi ếm gi ễu nh ại chen lấn với gi ọng dửng dưng l ạnh lùng... Nh ưng nếu nh ìn sâu vào cách tạo lập văn bản sẽ nh ận ra nh ững đặ c trưng của tư duy thơ đã chi ph ối từ quan ni ệm th ể lo ại đế n bút ph áp ti ểu thuy ết. Th ứ nh ất là sự nổi bật về nh ịp điệu: Bl ôc đị nh ngh ĩa “Nh à th ơ – đó là ng ười đạ i di ện cho nh ịp điệu”. Cảm xúc trong thơ đượ c mã ho á bằng nh ịp đi ệu. Ở Vi ệt Nam, kh ái ni ệm “thơ ca ” cũng cho th ấy nh ịp điệu có vai trò rất quan trọng đố i với sáng tác th ơ. Văn xu ôi tự gi ác về điều này mu ộn hơn nhi ều và nh ịp điệu tiểu thuy ết trong một thời gian dài ch ủ yếu được nh ìn nh ư tốc độ trần thu ật,
- sự lu ân phi ên thành ph ần độ ng - tĩnh. Với Thi ên sứ (Phạm Thị Ho ài), Thoạt kỳ thuỷ, Trí nh ớ suy tàn, Ng ồi (Nguy ễn Bình Phương), Paris 11 th áng 8, Chinatown (Thu ận), Ng ười sông mê (Ch âu Di ên), Nỗi bu ồn chi ến tranh (Bảo Ninh) … nh ịp điệu nổi lên nh ư một cảm hứng sáng tạo, một sự “cố tình của bút ph áp” và trở th ành một cơ chế tổ chức văn bản (rõ nh ất là ở các tác ph ẩm của Thu ận). Nh ìn chung, nh ững tiểu thuy ết này đề u ki ến tạo nh ịp điệu trước hết bằng nguy ên lý “l ặp lại” của th ơ. Mỗi cấp độ lặp đề u góp ph ần tạo nh ịp cho văn bản tiểu thuy ết. Nh ịp điệu của hình tượng trong Thiên sứ do m ột lo ạt nh ân vật cặp đô i/ đồ ng dạng đem lại: Hằng – Ho ài, Ho ài – Hon, Quang – Ho ài, Quang – Trâm, Hằng – Ph., Ho àng – Hạc. Trong Chinatown là Thu ỵ - Vĩnh, hắn – tôi, tôi – ch ị ta. Trong Paris 11 tháng 8 là Li ên và Mai Lan. Trong Ngườ i sông mê là Hương – Hoa, Hoa – Kh ánh, trong Thoạt kỳ thuỷ là Li ên và Hi ền, trong Nỗi bu ồn chi ến tranh là Ki ên và “tôi”… Đây là lo ại nh ân vật kh ông ph ải đượ c xây dựng theo nguy ên tắc điển hình ho á mà gi ống nh ư nguy ên tắc của trò ch ơi. Ở đâ y tác gi ả - ch ủ thể sáng tạo tự đặ t ra lu ật ch ơi, nh ân vật của anh ta có th ể kh ông tu ân theo nh ững nguy ên tắc quen thu ộc và ng ười đọ c cũng có nh ững cách ti ếp nh ận kh ác nhau. Mỗi nh ân vật tạo ra nh ững bản sao của chính nó với ch út ít bi ến dạng. Ch úng lột t ả nh ị p điệu của ám ảnh tha ph ương hay tô đậ m trạng thái hi ện sinh tẻ ng ắt: “Thằng Vĩnh cao bằng Thu ỵ năm 16 tu ổi. Tóc nó cắt cao nh ư tóc Thu ỵ, mắt nó cũng xếch nh ư mắt Thu ỵ” . Thụy bỏ Hà Nội vào Ch ợ Lớn, Vĩnh sẽ bỏ Paris đến vùng Vịnh. Thu ỵ là qu á kh ứ, Vĩnh là tương lai của “tôi”, cả qu á kh ứ lẫn tươ ng lai đều bất đị nh, kh ó hi ểu, xa vời (Chinatown ). Cặp song sinh Hằng – Ho ài (Thiên sứ) nh ư sự lặp l ại day dứt nỗi lo âu về cái đẹ p: Hằng là cái đẹ p ph ù phi ếm, cái đẹ p bề ngo ài hời hợt kh ông có kh ả năng tự vệ, dễ dàng bị tha ho á, bị vùi dập, Ho ài là cái đẹp bên trong, cái đẹp tinh th ần, ph ải thu mình trong hình hài ch ú v ịt con xấu xí, ch ọn cô đơ n là ph ương cách bảo toàn gi á trị. Sự ho án đổ i vị trí gi ữa Ki ên và ng ườ i kề chuy ện xưng “tôi” ở Nỗi bu ồn chi ến tranh gợi ra vô số phi ên bản kh ác về ng ười lính: “Sau khi chép xong, đọ c lại, tôi ng ỡ ng àng nh ận thấy nh ững ý tưởng của mì nh, nh ững cảm gi ác của mình, th ậm chí cả nh ững cảnh ng ộ của mình nữa. Dường nh ư do sự tình cờ của câu chữ và của bố cục, tôi và tác gi ả đã ng ẫu nhi ên trở nên ho à đồ ng tư tưởng, trở nên rất gần nhau. Th ậm chí t ôi ng ờ rằng có quen anh trong chi ến tranh ” “còn bản thân t ác gi ả, mặc dù xưng tôi nh ưng đí ch th ực y là ai trong nh ững ng ười lính trinh sát ấy, nh ững hồn
- ma, nh ững bộ hài cốt moi từ đá y rừng lên ấy?”. Nh à văn Ki ên khi ném tập bản thảo vào lò sưởi là hình ảnh lặp lại vụ đố t tranh cùa ng ười cha - ho ạ sĩ nhi ều năm trước. Họ đề u là nh ững ki ếp ngh ệ sĩ cô đơn… Hoa và Hương ở Ngườ i sông mê là một vòng lu ân hồi, Hoa vừa là con vừa là kiếp sau của Hương. Cả hai đề u vướng vào một cu ộc tình tay ba, đề u bất hạnh: Hoa mất ng ười yêu, Hươ ng mất chồng. Họ đề u là “ki ếp hương hoa ”, là “ph ù hoa, đạ i ph ù hoa, ho àn toàn ph ù hoa ”. Cùng với hình thức lặp lại nh ân vật là sự lặp lại kh ông gian và th ời gian. Trong Chinatown , các kh ông gian “điểm” xu ất hi ện với tần số rất cao: Chợ Lớn (44 l ần), Yên Kh ê (20 lần), căn hộ 18 mét vu ông khu tập thể Đê La Thành (10 lần)… và la liệt là “nh ững ng ày ấy”, “m ười hai năm ”, “mười năm”… nh ư nh ịp điệu của nh ững gi ày vò xa xót, của ráo riết truy tìm một hạnh ph úc đã mất, một chia lìa vô lý: “Tôi kh ông bi ết Thu ỵ ở đâ u, gặp ai, làm gì, nh ững ng ày ấy… Tôi ch ỉ mu ốn hỏi Thu ỵ ở đâu, gặp ai, làm gì. Nh ững ng ày ấy. Nh ững ng ày ấy…”. Trong Nỗi bu ồn chi ến tranh , sự trùng điệp thời gian “đêm tối” thường đi kèm kh ông gian “m ưa lạnh ” và nh ững đị a danh toát mùi ch ết ch óc (Tru ông gọi hồn, Hồ cá sấu, Đồ i xáo thịt, Mi ếu Ba cô… ) lột tả thật đắ c đị a bằng nh ịp điệu hình tượng nh ững ám ảnh gh ê rợn về chi ến tranh. Nh ững hồ nước, nh ánh sông - nơi Kh ẩn (Tho ạt kỳ th ủy) trở lại nhi ều lần lu ôn gợi kh ông kh í rờn rợn ma mị: “Nướ c đỏ rực lừ lừ mi ết về nam với tinh thần kh ông thể ng ăn cản… ng ó xu ống, gi ật mình khi thấy nh ững khu ôn mặt mờ ảo nh ưng hung hãn đang lao đi, dừng lại, lao đi tu ân theo mệnh lệnh đề u đặ n kh ô cứng ph át ra từ hình chi ếu lộn ng ược của cây cột đồ ng. Một cảm gi ác chờn ch ợn nổi dật và lan to ả kh ắp cơ thể” , “Ở bờ nước sát với mép vườ n nh à Trươ ng có một vùng sáng lạ kì, nó long lanh, rờn rợn nh ư có tấm gương hắt từ dưới đá y hồ lên”… Con ng ườ i ở đâ y lúc nào cũng bị nước ám ảnh, vây bủa và kh ông ph ải hình ảnh nướ c mà ch ính là âm thanh “nướ c” đã thành một nỗi bất an khi ến con ng ười lu ôn kh ắc kho ải. S ự lặp lại ở cấp độ “c âu” v à “t ừ” làm nh ịp đ iệu nổ i h ẳn l ên b ề mặ t v ăn b ản. Thi ên sứ và Chinatown có dáng dấ p gần mộ t bả n nh ạc với nh ững t ừ “ ch ủ âm ” cho mỗ i ch ươ ng ho ặ c cho to à n bộ ti ểu thuy ết. Ph ạm Th ị Ho ài đã làm nh ư th ế với các t ừ “cửa sổ”, “thi ê n sứ” , “m ưa ”... Ch ẳng hạn hình ảnh “c ửa sổ” m ở đầ u Thi ên sứ sẽ bắ t nh ị p cho m ột cu ộc “tổ ng cô ng kí ch ” và o ch ủ ngh ĩ a l ãng m ạn: “C ửa sổ kh ô ng m ở vào hoa … Cửa sổ mở th ẳng vào tim mộ t con đườ ng d ẫn t ới c ổng nh à m áy rượ u bia ”. N ó l à n ơi duy nh ất để cô b é Ho ài tạm qu ên căn
- ph òng ch ật ch ộ i “bố n trăm ô gạch men nâu ” của gia đì nh m ình. Nó trở đ i trở lạ i nh ư m ột ám ảnh về khô ng gian sống: “Bốn trăm ô vu ông nâ u củ a t ôi lần l ượ t qua khung ch ữ nh ật biế n ảo, ch ỉ xế p h àng đến cánh cửa ấ y l à hế t, là ph ải l ộn về , cu ộc dạo ch ơi ch ớp nho áng ”. Thu ận cũ ng l àm nh ư th ế v ới các từ “Thu ỵ” , “Yê n Kh ê” , “Chinatown ” (ri êng Thu ỵ l ặp t ới 671 lần – ho à n to àn kh ông có từ thay th ế nh ư anh ấy, ch ồng t ôi …) và nh ịp đi ệu của ch úng khi th ì gợi nỗ i x ót xa về h ạnh ph ú c ng ắn ng ủ i, khi l à mộ t ẩn ức tha hươ ng, là “m ặc cảm da v àng ”. Mật độ dày đặ c các ki ều câu có cùng cấu trúc, (li ệt kê, sóng đô i, đố i ng ẫu, câu đị nh ngh ĩa, gi ải th ích, lặp th ành ph ần…) rõ ràng nh ằm trước hết t ạo nh ịp điệu. Xin dẫn vài thí dụ: - “S ân trước đầ y bụi. Lá cây đầ y bụi. Mất hàng rào sắt che ch ắn mấy cái cây đượ c bảo vệ nh ư báu vật cũng đầ y bụi. Cô gái tên Hoa vẫn đi dạo trên sân trường đầ y bụi, mắt đô i khi ng ước lên lơ đã ng nh ìn nh ững tấm kính che gi ó che nắng đầ y bụi… Đà nh ng ồi xu ống một chi ếc gh ế xi m ăng đầ y bụi. Hoa ng ả lưng vào tựa gh ế, bi ết chắc lưng áo mình sẽ dí nh đầ y bụi” (Ngườ i sông mê). - “Tôi là hi ện tại còn Thu ỵ là tươ ng lai. Tôi l à mẹ còn Thu ỵ là bố. Tôi là nước Pháp còn Thu ỵ là Chinatown. Tôi là điểm kh ởi hành còn Thu ỵ là đí ch ph ải đế n. Tôi là ba con chim quay húng lìu trưa ch ủ nhật, là bát canh rau đay m ồng tơi nh ững hôm đau họng, là trường cấp hai mỗi năm ph ải lên một lớp, là hai gi ờ tiếng Hoa một tu ần ph ố Tolbiac, là lớp công-phu có ba võ sư luy ện m ười lăm đồ đệ , mỗi qu ý ph ải thay m ột cái đai. Thu ỵ là cu ộc nh ảy dù xu ống Bagdad sáu năm nữa, là ch ân đạ i di ện công ti Taifeng tại vùng Vịnh, là hai ngh ìn cộng đồ ng Hoa ki ều, là qu ốc gia kh ông bi ên gi ới... ” (Chinatown ). - “Nước mưa mặn. Bát canh nh ạt. Nh ững bài học nh ạt th ếch, th ầy ng ắc ng ứ, trò ng ắc ng ứ. Một vài kỉ ni ệm đậ m ch át. Còn nh ững gi ấc mơ th ì ng ọt ng ào” (Thiên sứ) v.v … Jacobson từng nói đến “ng ữ ph áp th ơ hay thơ của ng ữ ph áp”. Nh ững ti ểu thuy ết gi àu nh ịp điệu lu ôn bi ết cách khai th ác các kh ả năng cú ph áp và th ủ ph áp lu ân phi ên đắ p đổ i thanh, nh ịp và vần của th ơ để tạo cái giai điệu luy ến láy, ng ân rung đầ y quy ến rũ cho câu văn xu ôi. Trong Nỗi bu ồn chi ến tranh có rất nhi ều câu văn, đoạn văn gi ống nh ư thơ văn xu ôi vậy. Th í dụ: “Âm th ầm trong ti ếng suối là ti ếng thở dài của rừng sâu nghe vời vợi xa xôi và tuy ệt m ù hư ảo nh ư là
- âm vang vọng lại từ một thời nào đó , nh ư là tiếng của l àn lá vàng rơi trên th ảm cỏ từ lâu lắm rồi…”, “Nỗi bu ồn chi ến tranh trong l òng ng ười lính có cái gì tựa nh ư nỗi bu ồn của tì nh yêu, nh ư nỗi nh ớ nhung qu ê nh à, nh ư bi ển sầu lúc chi ều bu ông trên bến sông bát ng át”. Trong Thi ên sứ có nhi ều đoạn văn li ệt kê, trùng điệp một ki ểu cú ph áp, gi ữ nh ịp bằng vần và sự ph ối kết bằng trắc. Đâ y là một dẫn chứng: “Rồi nh ững gương mặt tự làm ra đủ , tho ả mãn và yên tâm vô cớ nh ư nguy ên tắc bất di bất dịch của cu ộc tri ển lãm các bộ mặt. Nh ững gương mặt được nh ồi cho căng , chi ếc di ều bánh đú c nh ư tảng núi bột đè n ặng lên th ành tim, nh ững qu ả bóng bàn đầ y hydro và e sợ từng chi ếc gai, từng ng ọn gi ó bất thần thổi ng ượ c. Và nh ững gươ ng mặt thi ếu hai hốc mắt nh ư đáy sâu nu ốt thăm thẳm nh ững bi ến cố dày đặ c trong một vài ki ếp ng ười, nh ững hốc đen vũ trụ gi ó vào nh à trống, nh ững kẻ săn đuổi kh ông mệt mỏi con dê của Dương Chu, săn đuổi bóng mình hay bóng hình thi ên hạ. Nh ững gươ ng mặt ngang dọc vật vã các nếp nh ăn m à vẫn đau đá u thi ếu vắng, vẫn kh át khao kh ôn cù ng , ch ờ đợi, nh ư ch ỗ dựa cu ối cùng và nguy ên tắc tối cao của mọi cuộc ch ơi. Nh ững gươ ng mặt kh ông đá y, nh ững cánh cửa mở sẵn sàng ch ào mời bất kể ai kh ách qua đường dù ch ỉ một kẻ hành kh ất, m ột gái làng chơi” (nh ững ch ữ ch úng tôi in nghi êng, in đậ m có vai trò kết vần). Trên thế gi ới có lẽ M. Duras – tác gi ả của Ng ười tình, Nhịp điệu khoan ho à trầm bổng … l à nh à ti ểu thuy ết đầ u ti ên say mê nh ịp điệu đế n mức đem âm nh ạc ph ổ vào tiểu thuy ết. Trong các nh à văn Vi ệt Nam, ý thức bi ến nh ị p điệu th ành nội dung ti ểu thuy ết ở Thu ận là m ạnh nh ất, dù Thu ận xu ất hi ện mu ộn hơn Phạm Th ị Ho ài, Bảo Ninh, Châu Di ên. Thu ận kh ông che dấu vi ệc mình ch ịu ảnh hưởng của Duras (cả vi ệc nh ại Duras xét đến cùng cũng là một ki ểu ảnh hưởng) và ch ính nh ờ đó mà ch ị đã gi úp xác nh ận ch ắc ch ắn một kinh nghi ệm mới về th ể lo ại: với ti ểu thuy ết, cu ộc sống ho àn to àn có thể đượ c cảm nh ận trong tính nh ịp điệu. Câu chuy ện thú vị về một nh ạc sĩ nước ngo ài mu ốn ghi âm các th ứ còi xe ngo ài đườ ng ph ố Hà Nội làm th ành m ột bản nh ạc cho ta nh ững gợi ý tương tự. Âm thanh ti ếng mõ mở đầ u hay kết lại m ỗi ch ương, đoạn ti ểu thuy ết Ng ồi của Nguy ễn Bình Ph ương có thể xem nh ư m ột sự “đổ i ph ông chuy ển cảnh ” cho trạng thái hi ện sinh đượ c cảm nh ận vừa hỗn lo ạn ồn ào vừa tẻ ng ắt vô hồn. Th ứ hai là hi ện tượ ng “lạ ho á” đượ c dùng ph ổ bi ến. Lạ ho á cũng là một
- nguy ên tắc của tư duy thơ. Ng ườ i ta hay nói đế n cái nh ìn thơ “tươi non ”, “bỡ ng ỡ”, “cái nh ìn đầu tiên”, “cái nh ìn trẻ th ơ”… vì nó có kh ả năng gây ng ạc nhi ên, nó vượt kh ỏi kinh nghi ệm quen thu ộc. Trong bản ch ất, lạ ho á là kết qu ả của năng lực li ên tưởng, tưởng tượng. Tưởng tượng càng mạnh, li ên tưởng càng ph óng túng, bất ng ờ, thi ảnh đượ c tạo ra càng có gi á trị th ẩm m ĩ (theo Lê Đạ t hàm lượng th ông tin gắn li ền với cái lạ, cái kh ác, cái bất ng ờ). Trước đâ y Nguy ễn Tu ân là cây bút văn xu ôi sở trường khai th ác đặ c tính này của th ơ. Hôm nay Phạm Thị Ho ài, Ch âu Di ên, Thu ận, Nguy ễn Bình Phương vừa tiếp nối vào mạch văn đó vừa chia sẻ tinh th ần sáng tạo với các nh à thơ “dòng chữ” nh ư Lê Đạt, Dương Tường, Đặ ng Đì nh Hưng … Nhi ều ng ười, nh ất l à bạn đọ c trẻ tỏ ra hứng thú với nh ững t ổ hợp ng ôn từ lạ lẫm, độ c đáo đượ c ki ến tạo bởi nh à ti ểu thuy ết. Th í dụ “trăng xanh ”, “trăng đỏ” , “trăng đen ”, “trăng rỗ” (Thoạt kỳ thuỷ), “tóc tôi lên cơn sốt”, “ng ôi sao l ùn”, “bán đứng V. Hugo cho nền kinh doanh nước đá” , “kim tự tháp các đị a vị xã hội”, “các ph ụ tùng đời sống, món lẩu kh ông th ể thi ếu trong các bữa ti ệc trung lưu” (Thi ên sứ)… Cũng nh ư vậy nh ững so sánh li ên tưởng bất ng ờ xu ất hi ện với m ật độ kh á cao trong Ng ườ i sông mê: (“Trần gian l à nh áy m ắt một cùng cực dài lâu. Trần gian là lãng qu ên một lẵng đẵ ng th ương nh ớ. Trần gian là mênh m ông nặn l ại th ành bể kh ổ” , “Ti ểu thuy ết ph ải là cả rừng nh ân vật cây lớn cây bé cây cao cây thấp cây la đà cây vươn ng ồng cây hùng dũng cây ăn hại cây đá i nát cây tiều tu ỵ cây sang trọng cây gầy còm cây xa hoa cây cần ki ệm cây khi êm nh ườ ng cây ăn bám”) trong Nỗi bu ồn chi ến tranh (“Th ì ra cu ộc đờ i tôi kỳ thực có kh ác nào con thuy ền bơi ng ược dòng sông, kh ông ng ừng bị đẩ y lui về dĩ vãng ”, “Kí ức xa vời, trập trùng và lặng lẽ, kh ắc nghi ệt và thẳm sâu nh ư rừng núi trong lòng anh chi ều ấy”), trong Thiên sứ (“Bảy ng ày trong tu ần đã ch ạy m ột mạch từ thứ hai đến thứ bảy kh ông kịp gi ải kh át nên ch ủ nh ật sinh ra để ướ t đẫm ”, “N ửa ti ếng sau, chị bước ra, bông cẩm chướng đã tan tành ”)… Nguy ên tắc lạ ho á cũng di ễn ra ở cấp độ m ôtip và hình tượng nh ư môtip tội ác và trừng ph ạt, tì nh yêu và cứu chu ộc, nỗi sợ trong Đi tìm nh ân vật, Thiên th ần sám hối của Tạ Duy Anh), hình tượng Thi ên sứ (trong Thi ên sứ của Phạm Th ị Ho ài), hình tượng trăng (trong Tho ạt kỳ thu ỷ của Nguy ễn Bình Phương) …
- Th ứ ba là hi ện thực của nh ững ho ài ni ệm, ti ếc nu ối và suy cảm: Ch ắc ch ắn đâ y kh ông ph ải đặ c điểm ho àn to àn mới của tiểu thuy ết Vi ệt Nam đươ ng đạ i. Nó đã hi ện di ện từ kh á sớm với nh ững tiểu thuy ết – tự truy ện và hồi ký của Nguy ên Hồng, Mạnh Phú Tư, Tô Ho ài … Có điều nó trở nên ph ổ bi ến hơn và đá ng ch ú ý hơn nữa là nó thường đượ c di ễn đạ t qua kỹ thu ật “dòng ý thức”. Có bạn đọ c đã gọi Nỗi bu ồn chi ến tranh l à “một tự truy ện bất thành ”, ở đó nỗi bu ồn của Ki ên thấm đẫ m ho ài ni ệm về tình yêu với ng ười con gái có “sắc đẹ p rực rỡ sân trường Bưởi”,về Hà Nội thu ở yên bình. Bé Ho ài trong Thi ên sứ mải mi ết ch ơi trò ph ân lo ại lo ài ng ườ i chỉ vì một khao kh át sâu thẳm: “Tôi lớn lên và ch ưa từng bi ết mùi vị cái hôn của mẹ”. Câu chuy ện th ực ch ất là dòng độ c tho ại nội tâm nh ằm ph ơi mở kh át vọng truy tìm nh ững vẻ đẹ p mang gươ ng mặt trẻ thơ gi ữa “trần gian u xám lạnh lùng ”, truy tìm cái th ật, cái thơm th ảo và thân ái gi ữa một thế gi ới ng ười ta ch ăm ch ăm “ph ủ th ảm ” lên nh ững dục vọng điên rồ. Có một nỗi ti ếc xót da di ết về bao điều tử tế bị lãng qu ên, một ước vọng đầ y tính thơ trong nh ững câu văn nh ư một điệp kh úc rải rác nhi ều trang truy ện: “Tôi lớn lên và kh át khao âu yếm”, “Tôi chỉ kh át khao âu yếm m à tôi đủ sức hình dung, đủ sức sờ nắm và đá p lại, điều duy nh ất ch ứng minh tôi có mặt trên đờ i kh ông đế n nỗi vô l ý”, “Ng ười ta sẽ còn cãi vã suốt đờ i về nh ững vấn đề kh ông mấy li ên quan đế n ch ủ ngh ĩa dịu dàng và tình yêu” “To àn thân tôi mang cơn sốt núi lửa. Tôi sợ nh ững va chạm gây thương tích. Tôi đặt tên vết thương là nỗi bu ồn” “Nh ững cái nh ón gót kh ẽ kh àng, gượng nh ẹ qu ả là th ứ xa xỉ ph ẩm gia đì nh tôi kh ông kham nổi”, “Vị hôn phu ch ưa từng bi ết màu mắt tôi bi ến ảo… chưa từng nghe m ườ i đầu ng ón tay tôi mỗi ng ón một gi ọng thầm th ì”… Ám ảnh bạo lực tràn đầ y trong nh ững “lời câm” của nh ân vật Tính (Tho ạt kỳ thuỷ), ám ảnh đánh mất ký ức làm sợi dây xâu chu ỗi mạch độ c tho ại của các nh ân vật ch ính trong Trí nh ớ suy tàn của Nguy ễn Bình Phương, Và khi tro bụi của Đoàn Minh Ph ượng. Suy cảm về đị nh m ệnh từ tri ết thuy ết nh à Phật là điểm tựa cho hồi ức của các nh ân vật trong Ng ười sông mê… Ch ính dòng ý th ức đã làm cho vi ệc tri ển khai cốt truy ện của nhi ều ti ểu thuy ết gi ống nh ư vi ệc tri ển khai tứ thơ. Có th ể gọi ra nh ững “tứ thơ” nh ư vậy: “nh ân tính thu ở tho ạt kỳ” (Thoạt kỳ thu ỷ), “sự phai tàn” (Trí nh ớ suy tàn), “ki ếp hương hoa ” (Ng ườ i sông mê), “tì m lại thời đã m ất (Nỗi bu ồn chi ến tranh ), “tu ổi thơ vĩnh cửu” (Thiên
- sứ)… Tứ thơ của Và khi tro bụi nằm trong hai câu thơ đề từ “Và khi tro bụi rơi về - Trong thinh lặng đó cận kề qu ê hương ”, tứ thơ của Ng ườ i đi vắng cũng đượ c cô gọn trong ba câu th ơ: “Anh là con mắt bu ồn – Bên bờ sông m ờ sương hoang vắng – Đêm nay ai bước vào trăng ”. Trên lý thuy ết, ti ếng nói bên trong của chủ thể, mang cái nh ìn nội quan, xu ất ph át từ nhu cầu tự ph ơi mở tâm t ư, từ kh át vọng truy tìm bản th ể là một yếu tính của th ơ. Đế n một kinh nghi ệm đọ c mới. Nh à nghi ên cứu ng ười Nga Anatoli A. Sokolov khi vi ết bài Văn ho á và văn học Vi ệt Nam trong nh ững năm đổ i mới (1986-1996) (1) nói về Thi ên sứ: “Trên th ực tế, ti ểu thuy ết Thi ên sứ (m à ở mức độ nào đó là nh ững truy ện ng ắn) là rất kh ác thường và kh ông đặ t vừa vào truy ền th ống tự sự của văn xu ôi Vi ệt Nam nửa sau th ế kỷ XX ”. Sự chi ph ối của tư duy th ơ ch ắc kh ông ph ải yếu t ố duy nh ất làm nên tính chất kh ác thường trong nh ững ti ểu thuy ết “trượt” kh ỏi khung kh ổ truy ền th ống nh ư Thi ên sứ, nh ưng chúng tôi tin rằng nó có vai trò đá ng kể làm thay đổ i quan ni ệm th ể lo ại. Tư duy thơ sẽ đò i hỏi nh à ti ểu thuy ết ứng xử với văn bản theo nh ững cung cách m ới: Ti ểu thuy ết truy ền thống coi trọng câu chuyệnhơn cách kể câu chuy ện, còn các nh à văn Phạm Th ị Ho ài, Bảo Ninh, Châu Di ên, Nguy ễn Bình Ph ương, Thu ận… mà chúng tôi nh ắc đế n trên kia l ại đầ y ý thức tạo lập văn bản. Th ực ch ất của vi ệc tạo lập văn bản là xây dựng bút ph áp – điều xưa nay vốn rất đượ c coi trọng ở thơ. S ự dụng công bút ph áp nâng cách vi ết tiểu thuyết lên th ành một nội dung của ti ểu thuy ết, ti ểu thuy ết thành câu chuy ện về chính nó. Nh ững nguy ên tắc tạo nh ịp, lạ ho á, kỹ thu ật dòng ý thức, điểm nh ìn nội quan, nh ững ẩn dụ, nh ững so sánh li ên tưởng, nh ững m ôtip th ơ, nh ững tứ thơ, nh ững hình tượng gi àu sức ám gợi lan to ả nh ờ độ nén… đò i hỏi ng ười đọ c lĩnh hội theo lối của th ơ: từ, ng ữ, giai điệu, âm điệu… ph ải có vị trí đặc bi ệt. Ng ôn từ trong tác ph ẩm sẽ tự tạo một th ế gi ới riêng, bằng vẻ đẹ p của ch ính nó ch ứ kh ông ch ỉ là nh ững ký hi ệu để quy chi ếu về thế gi ới kh ách quan. Bạn đọ c trước đâ y say mê nh ững câu chuy ện ly kỳ hay ch ân thật bây gi ờ có th ể tìm thấy sự hứng th ú ở nh ững ti ểu thuy ết mang dáng dấp một bản nh ạc, một bức tranh lập thể, một trò ch ơi rubic, một câu đố… Nh ững tác phẩm nh ư vậy vừa kh ẳng đị nh hi ện tượng tương tác, lai gh ép thể lo ại là một quy lu ật vận độ ng, ph át triển của văn học, vừa góp ph ần điều ch ỉnh lại quan ni ệm quen thu ộc về văn chương, về
- ng ười sáng tạo và công ch úng. Ý th ức tạo lập văn bản tất yếu sẽ mở rộng kh ả năng “mời gọi”, “tạo sinh ” cho tác ph ẩm. Mỗi ti ểu thuy ết sẽ thực sự là một “đề án ng ỏ” để ng ườ i đọ c tham gia ho àn tất theo nh ững cách ri êng. Khi ấy câu chuy ện đượ c kể có thể ch ỉ là cái cớ để ng ườ i ta chi êm ng ưỡng vẻ đẹ p của ng ôn từ. Đọ c là sáng tạo, nh ưng cung cách của ng ườ i sáng tạo lu ôn có sức chi ph ối cung cách đọ c. Về mối quan hệ này nh à văn Thu ận ph át bi ểu: “S áng tạo là đi ều cơ bản trong văn học, kh ông chỉ với tác gi ả mà cả với độ c gi ả”(2). “Với tôi văn ch ương là phi êu lưu và mỗi tác ph ẩm nh ư m ột chuy ến đi xa, ph ải đư a đượ c cả tác gi ả lẫn độ c gi ả ra kh ỏi cái thông th ường ”(3). Kinh nghi ệm đọ c đang đượ c làm mới khi ng ười đọ c ti ếp xúc với nh ững ti ểu thuy ết có cấu trúc nh ư một bức tranh lập thể (thí dụ Thiên sứ), một bản nh ạc (thí dụ Chinatown ), một câu đố (th í dụ Ng ồi, T. mất tích ), một trò chơi lỏng của ng ôn t ừ (th í dụ Nỗi bu ồn chiến tranh, Ng ườ i sông mê)… Dồn trọng tâm ch ú ý vào bút ph áp, vào vi ệc tạo lập văn bản – theo ngh ĩ a kh ái qu át nh ất ch ính là đặ c tính của tư duy thơ. Khai thác đặ c tính này, tiểu thuy ết Vi ệt Nam đươ ng đạ i một mặt chứng tỏ kh át vọng kh ông ng ừng kh ám ph á nh ững ti ềm năng thể lo ại mặt kh ác nó đánh dấu một sự chuy ển đổ i quan trọng trong ý ni ệm về văn ch ương

ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:

Báo xấu

LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
