intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tư tưởng biện chứng của Hêraclit

Chia sẻ: Pham Tien Si | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:8

537
lượt xem
110
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hêraclit (khoảng 540-475 TCN) xuất thân từ nhà nước thị thành Ephec thuộc vùng Tiểu Á của Hy Lạp và thuộc hoàng tộc Côdoridop. Ông sống trong thời kỳ lịch sử căng thẳng của các nhà nước thị thành Hy Lạp, khi mà dân thường đã dành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh gay gắt với tầng lớp quý tộc dòng dõi.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tư tưởng biện chứng của Hêraclit

  1. ĐỀ BÀI: Tư tưởng biện chứng của Hêraclit (tư tưởng triết học, đánh giá) BÀI LÀM: Hêraclit (khoảng 540-475 TCN) xuất thân t ừ nhà n ước th ị thành Ephec thuộc vùng Tiểu Á của Hy Lạp và thuộc hoàng tộc Côdoridop. Ông sống trong thời kỳ lịch sử căng thẳng của các nhà nước thị thành Hy Lạp, khi mà dân thường đã dành được thắng lợi trong cu ộc đ ấu tranh gay gắt với tầng lớp quý tộc dòng dõi. Ông trưởng thành và s ự nghiệp sáng tác của ông rơi vào giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư nổ ra, đó là thời điểm trọng đại của lịch sử Plada cổ đại. Học thuyết của Hêraclit, phép biện chứng của ông nói riêng ở một chừng mực nào đó là sự xem xét về mặt triết h ọc các sự ki ện l ịch sử và các chuyển biến xã hội diễn ra ở thời kỳ đó. Hêraclit giữ vị trí trung tâm trong lịch sử phép bi ện ch ứng (PBC) Hy Lạp cổ đại. Các nhà kinh điển ch ủ nghĩa Mác-Lênin đã dành cho học thuyết của Hêraclit cụ thể là cho PBC của ông s ự đánh giá r ất cao. Lênin coi ông là “một trong những người sáng lập ra PBC”. Trong bảng tóm tắt cuốn “Những bài giảng về lịch sử triết học” của Hêghen, Lênin lưu ý, chính Hêghen cũng thừa nhận Hêraclit có ảnh h ưởng đến ông. Lênin cũng thừa nhận PBC của Hêraclit có tính ch ất khách quan. Trong các luận điểm biện chứng cơ bản của Hêraclit đặc biệt quan trọng là tư tưởng về sự thống nhất (hài hòa) và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Tư tưởng biện chứng của Hêraclit: 1. LOGOS VỚI TƯ CÁCH LÀ SỰ THỐNG NHẤT (HÀI HÒA) VÀ ĐẤU TRANH GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP: Lần đầu tiên được Hêraclit sử dụng với tư cách là một trong các khái niệm triết học cơ bản và trở nên rất phổ biến trong toàn bộ triết học cổ đại, đó là thuật ngữ “Logos”. Ở người Hy Lạp “Logos” tùy thuộc vào văn cảnh ngôn ngữ đã có ý nghĩa rất khác nhau. Hêraclit 1
  2. cũng đưa vào “Logos” nội dung không như nhau, chẳng hạn trong một câu nói của Hêraclit “Logos” có nghĩa là sự thống nhất của mọi cái hiện hữu. Sự thống nhất ở đây có nghĩa là s ự đồng nh ất, hài hòa gi ữa các mặt đối lập. Theo Hêraclit, ngày và đêm, thiện và ác… không ph ải là một – đó là điều mà ai cũng hiểu. Song có điều ngày và đêm, thiện và ác, cũng như mọi mặt đối lập tạo thành một chỉnh th ể thống nhất thì ít ai hiểu: vì ngày – đêm, mùa hè – mùa đông, chi ến tranh – hòa bình… là nối tiếp nhau tạo thành tính chu kỳ và lặp lại nhất định nh ưng người ta lại không hiểu được rằng bản thân tính chu kỳ và tính lặp lại đó được quy định bởi sự thống nhất, hòa hợp giữa các mặt đối lập, tức là bởi “logos” phổ biến. Khi coi lửa là bản nguyên vật chất, là nguyên t ố v ật ch ất đ ầu tiên của mọi dạng vật chất, toàn bộ thế giới hay vũ trụ chẳng qua ch ỉ là sản phẩm biến đổi của lửa “hết thảy mọi sự vật đều chuyển hóa thành lửa, lửa cũng chuyển hóa thành hết thảy sự vật”. Hêraclit đã đi đến quan niệm về tính thống nhất của vũ trụ, ông cho rằng vũ tr ụ - cái thế giới mà con người đang sống trong đó thống nhất ở một cái duy nhất là ngọn lửa vĩnh hằng, bất diệt. Ông viết: “Th ế giới là m ột ch ỉnh thể bao gồm vạn vật. Thế giới là đồng nhất đối với hết th ảy mọi sự vật tồn tại trong nó. Thế giới ấy không do bất cứ vị thần nào tạo ra, cũng không do bất cứ người nào tạo ra. Thế giới là một ngọn lửa s ống bất diệt trong quá khứ , hiện tại cũng như trong tương lai. Ngọn lửa ấy cháy sáng trong một khoảnh khắc nhất định và cũng tàn l ụi đi trong một khoảnh khắc nhất định theo những quy luật của nó”. Sự th ống nhất ấy của vũ trụ được Hêraclit hình dung như là s ự lan t ỏa h ương v ị với nồng độ khác nhau trong khói thuốc từ một điếu thuốc đang được đốt cháy bởi lửa. Đánh giá quan niệm này của Hêraclit, Lênin coi đó là 2
  3. “một sự trình bày rất hay những nguyên lý của ch ủ nghĩa duy v ật bi ện chứng”. Trong quan niệm của Hêraclit “chiến tranh” hay “đấu tranh” là một trong các hình ảnh – khái niệm quan trọng nhất của ông. Ông gọi chiến tranh là cha đẻ và hoàng đế của mọi thứ hiện tồn. Chiến tranh có thể biến một số người trở thành thần thánh, số khác là ng ười; nó bi ến một số người thành nô lệ, số khác là người tự do. “Chiến tranh” vừa là cuộc đấu tranh gi ữa các m ặt đ ối l ập v ừa là sự thống nhất của chúng. Cuộc đấu tranh không những là sự đối lập mà còn là sự liên hệ giữa các mặt đối lập. Hêraclit còn cho rằng đấu tranh là nguồn gốc của mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ và đó là một mặt trong “sự sống” của mọi cái đang diễn ra. Mặt khác trong “sự sống” ấy là tính hòa hợp, tính có trật tự, tính hài hòa. M ột ch ỉnh th ể thống nhất bao giờ cũng tồn tại với các mặt đối lập của nó, gi ống nh ư cái ác bao giờ cũng tồn tại với các mặt đối lập của nó là cái thi ện, cái chết với mặt đối lập của nó là cái sống và ngươc lại… Vấn đề là ở chỗ mặt đối lập nào chiếm ưu thế trong một thời điểm cụ thể. Hêraclit cho rằng đấu tranh giữa các mặt đối lập là hiện tượng phổ biến trong vũ trụ, không có đấu tranh sẽ không có bất cứ sự hài hòa nào và ng ược lại khi đấu tranh không còn thì mọi cái cũng biến m ất. Đi ều đó cho thấy trong quan niệm của Hêraclit đấu tranh giữa các mặt đối lập là tất yếu, là quy luật tất yếu của vũ trụ, là Logos vũ trụ. V ới ông, đ ấu tranh của các mặt đối lập là mang tính phổ biến, là nguồn gốc ra đời c ủa mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ. Khi nói tới chiến tranh hay đấu tranh với tư cách là nguồn gốc của mọi sự vận động và biến đổi, Hêraclit cũng nói tới chiến tranh chính nghĩa “chiến tranh là phổ biến, chính nghĩa tức là chiến tranh”. Đề cao chiến tranh và đấu tranh coi chiến tranh như ông hoàng, song Hêraclit cũng kêu gọi con người đừng có quá kiêu hãnh về chiến tranh. 3
  4. Ông cũng luôn cho rằng chiến tranh và đấu tranh một khi vượt quá “độ”, bất chấp “sự công bằng”, “tính hợp lý” của vũ trụ s ẽ b ị chính vũ trụ trừng phạt. Tất cả quan niệm ấy của Hêraclit về chiến tranh cho th ấy m ặc dù ông coi “chiến tranh là cha của mọi vạn vật” là “vua của mọi vạn vật” song ông không phải là người tuyên truyền cho cuộc chiến tranh phi nghĩa giữa người với người. Việc Hêraclit nhấn mạnh vai trò của chiến tranh luôn gắn liền với việc ông thường xuyên kêu gọi ng ười dân Hy Lạp hãy đứng lên tiến hành đấu tranh vũ trang để giải phóng các thành phố của đất nước mình khỏi ách thống trị của Batư. Về phương diện triết học, quan niệm của Hêraclit v ề chi ến tranh chính là quan niệm của ông về sự đấu tranh giữa các mặt đ ối lập với tư cách là nguồn gốc của mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ. Nếu vũ trụ là cái có thật tự, luôn vận động, biến đổi theo logos c ủa nó và trong vũ trụ ấy “vạn vật ra đời đều dựa vào logos của nó” thì đ ấu tranh gi ữa các mặt đối lập trong mỗi sự vật, hiện tượng phải diễn ra trong khuôn khổ của logos, chứ không phải trong khuôn khổ của các vô trật t ự c ủa thói tùy tiện vốn mâu thuẫn với logos của vũ trụ. 2. SỰ THỐNG NHẤT CỦA LOGOS KHÁCH QUAN VÀ LOGOS CHỦ QUAN: Hêraclit là người đầu tiên đã đặt vấn đ ề nh ận th ức lu ận v ề quan hệ giữa logos chủ quan và logos khách quan của mình tức là khả năng thống nhất của chúng. Hêraclit cho rằng logos thế giới con người (ch ủ quan) có đủ khả năng để phù hợp với logos th ế giới (khách quan) m ặc dù điều đó diễn ra không phải thường xuyên và hoàn toàn không phải ở mọi người. Hêraclit phàn nàn rằng dù liên hệ, giao tiếp trực tiếp và thường xuyên với logos khách quan và chi phối mọi sự vật nhưng logos đó vẫn xa lạ đối với nhiều người thường xuyên va chạm v ới nó, xong nhiều người vẫn không hiểu được nó. Mặc dù vậy, logos khách quan 4
  5. về thực chất là thống nhất, là giống nhau và ở một ch ừng m ực nào đó là đồng nhất. Logos của tâm hồn con người và logos của th ế giới sinh v ật là một logos được xem xét trên hai phương diện: thế giới nội tâm của con người và cấu trúc bên ngoài của các sinh vật. Nếu chúng giống nhau và trùng hợp nhau, nếu logos chủ quan của người bằng cách nào đó là đồng nhất với logos khách quan của các sinh vật thì đó suy ra rằng việc nhận thức logos của thế giới bên ngoài là có thể có được b ằng con đường tự nhận thức, bằng các nỗ lực của bản thân là cái duy nh ất t ạo thành phẩm giá cá nhân, công lao cá nhân. Tự nhận th ức đưa con ng ười đi từ thế giới nội tâm tới thế giới bên ngoài. Trên con đường đó tâm hồn con người ngày một phong phú hơn, mở rộng hơn và phát tri ển hơn. “Logos tự phát triển là vốn có ở tâm hồn”. Quan niệm của Hêraclit về logos chủ quan một cách vận động chứ không phải đứng im. Chỉ nhờ tính tích cực này con người mới có thể có lối thoát ra thế giới sinh vật bên ngoài. Dấu hiệu cơ bản về tính sáng suốt đích th ực c ủa con ng ười theo Hêraclit là ở việc nhận thức được logos của tồn tại, là nhận thức được sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Hêraclit đã vạch ra một cách rất độc đáo sự th ống nh ất mâu thuẫn giữa logos và sự đa dạng của các sinh vật, biện chứng của cái đơn nhất và các số nhiều nói chung. Trên thực tế logos là ph ổ bi ến, vốn có ở sinh vật nhưng đồng thời về một phương di ện nào đó l ại nằm ở bên ngoài chúng. Đặc trưng của Hêraclit là ý muốn th ể hi ện b ản ch ất mâu thu ẫn của logos khách quan qua logos chủ quan của tâm hồn con người. 3. HỌC THUYẾT VỀ DÒNG CHẢY: Dựa vào việc nghiên cứu tự nhiên b ằng quan sát tr ực ti ếp và căn cứ vào những kinh nghiệm cảm tính Hêraclit đã khái quát thành một kết 5
  6. luận nổi tiếng về vật chất vận động “Mọi sự vật đều trôi đi, ch ảy đi, không có cái gì tồn tại mà lại cố định”; rằng “ không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông bởi vì nước mới không ngừng ch ảy trên sông” ngay cả “mặt trời cũng mỗi ngày một mới”. Với quan niệm về vận động này, nhiều nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã coi Hêraclit là nhà “triết học vận động”và gọi thuyết của ông là “thuyết về dòng chảy”. Nếu các nhà triết học thuộc trường phái Mile chú ý nhi ều v ề k ết cấu vật chất thì Hêraclit lại chú ý nhiều về vận động. Hình ảnh v ề ngọn lửa cũng là hình ảnh sống động. Tán thành quan ni ệm này c ủa Heraclit Hêghen đã lý giải “lửa là thời gian vật lý, nó là s ự không yên tĩnh tuyệt đối”. Hêghen còn nhận xét: “Hêraclit nói: Tất cả đều là sinh thành, sinh thành ấy là nguyên tắc cái đó bao trong thành ngữ, cái tồn tại không hơn gì cái không tồn tại”. Quan niệm về sự vận động vĩnh viễn của vật chất hay học thuyết về “dòng chảy” chính là nguyên lý xuất phát trong quan niệm của Hêraclit về vũ trụ là học thuy ết xuyên suốt của ông. Ở Hêraclit không những dòng sông mà cả m ặt trời cũng th ường xuyên và liên tục đổi mới, nhưng mặt khác ông lại cho rằng không có gì ổn định và bất biến hơn là dòng sông luôn chảy và hơn mặt trời luôn chiếu sáng. Tính biến đổi của dòng sông không loại trừ s ự đ ứng im, là cái mà nhờ đó dòng sông là xác định, ổn định và bất biến, cũng như vậy chúng ta có thể nói rằng sự đứng im và tính xác định c ủa dòng sông không loại trừ sự vận động (chảy) của nó. Hêraclit thừa nh ận sự th ống nhất mâu thuẫn của vận động và đứng im, sinh thành và hi ện h ữu ch ứ không phải là ở việc thừa nhận sự vận động là nhờ có sự hy sinh của đứng im. Đóng góp cơ bản của Hêraclit trong lịch sử PBC là cách trình bày đầu tiên về quy luật thống nhất giữa các mặt đối lập. Ông đã cố thể hiện bản chất mâu thuẫn của các sự vật trong logos ch ủ quan và ch ỉ ra 6
  7. sự thống nhất biện chứng của nhận thức và biện chứng của thế giới. Trên con đường đó ông đã vấp phải các trở ngại mà đ ến nay v ẫn ch ưa khắc phục hoàn toàn. Đó là vấn đề khả năng phản ánh bản chất mâu thuẫn của các sự vật, kể cả bản chất mâu thuẫn của vận động vào logic của các khái niệm. Hêraclit đã diễn đạt bản chất mâu thuẫn của các s ự vật, b ản chất của chúng là cái do ông khám phá ra, bằng các hình ảnh, khái niệm.Đó là khiếm khuyết trong phương thức tư duy của ông nhưng đồng thời đó cũng là điểm mạnh của ông. Hêraclit đã sử dụng rất hay các tiềm năng về nghĩa và gây ấn tượng – cảm tính của hình ảnh trực quan, các sự so sánh nghệ thuật. 4. QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI CỦA HÊRACLIT: Trong lịch sử triết học Hy Lạp, Hêraclit không ch ỉ được coi là người sáng lập ra PBC mà còn là người có quan niệm độc đáo về con người. Trong quan niệm về con người theo Hêraclit, con người có 2 mặt đối lập là lửa và ẩm ướt, lửa sinh ra linh hồn. Nếu người nào đó có nhiều yếu tố lửa thì người ấy là người tốt vì linh hồn người ấy khô ráo, sạch sẽ. Còn người nào có nhiều yếu tố ẩm ướt là người xấu và trong con người luôn có sự đấu tranh và chuy ển hóa d ưới 2 m ặt: b ệnh tật và sức khỏe, cái thiện và cái ác, cái đói và cái no, cái m ệt mỏi và cái thú vị “Trong con người chúng ta, sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già, trước và sau đều là một, cái sau biến hóa thành cái trước, cái trước biến hóa trở lại thành cái sau”, “mọi vật sinh ra duy nhất, duy nhất sinh ra mọi vật”. Về xã hội, Hêraclit đề cao vai trò của tầng l ớp quý t ộc, coi thường số đông nô lệ. Ông nói: “Đối với tôi , một người nếu là ưu tú nhất thì là một chục nghìn người”. Ông chủ trương dùng bạo lực để đàn áp phong trào dân chủ. Ông cũng là người có cái nhìn hi ện th ực khi cho rằng sự bất bình đẳng là do bất bình đẳng về lợi ích. 7
  8. Sự vận động và phát triển liên tục c ủa mọi s ự v ật theo Hêraclit do tính tất yếu khách quan, quy luật (logos) quy định. Lời nói, suy nghĩ, ngôn ngữ của con người là logos chủ quan dùng để nêu lên logos khách quan, người nào thấu hiểu logos và làm đúng theo logos thì ng ười đó là người có trí tuệ. Đối với con người, theo ông cũng theo đúng quy luật đó. Ông khẳng định, trong cuộc sống con người lo toàn việc sống nhưng nó cũng chết dần; con người vui lòng sinh con đẻ cái để chuẩn bị cho sự chết. Về lý luận nhận thức, Hêraclit cho rằng nhiệm vụ của nhận thức là phải hiểu biết sâu sắc về tự nhiên, ông quan niệm tư tưởng có m ột giá trị rất vĩ đại, trí tuệ là ở chỗ biết lý giải sự th ật và lắng nghe t ự nhiên để giải thích và hành động theo tự nhiên. Tóm lại: Hêraclit – nhà triết học Hy Lạp cổ đại, người không chỉ nổi tiếng với học thuyết về “dòng chảy” mà còn trở lên b ất h ủ v ới quan niệm độc đáo về sự hài hòa và đấu tranh của các mặt đối l ập, v ề tính thống nhất của vũ trụ, là học thuyết xuyên suốt toàn bộ hệ thống triết học của ông. Song cái làm nên nét độc đáo, sự khác biệt rõ ràng nhất giữa Hêraclit với các nhà triết học trước ông và cùng th ời đ ại v ới ông lại không phải là học thuyết về “dòng chảy” hay quan ni ệm v ề s ự vận động vĩnh viễn của vật chất mà là quan niệm độc đáo c ủa ông v ề sự hài hòa, đấu tranh của các mặt đối lập trong vũ trụ và tính th ống nhất của vũ trụ ấy. Quan niệm đó được coi là phỏng đoán thiên tài c ủa Hêraclit về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, bới vậy trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại được coi là người sáng lập PBC. 8
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2