intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tư tưởng thân dân trong văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn

Chia sẻ: Comam1902 Comam1902 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

54
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đặt vấn đề nghiên cứu tư tưởng thân dân trong văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn, người viết không chỉ muốn lí giải một vấn đề lớn đặt ra trong lịch sử và có ý nghĩa trong đời sống xã hội mà còn góp phần tìm hiểu tác giả và sự phát triển của văn học trung đại Việt Nam. Phạm vi tìm hiểu của chúng tôi là các tác giả tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn: Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tư tưởng thân dân trong văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br /> Social Science, 2018, Vol. 63, Iss. 1, pp. 47-53<br /> This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br /> <br /> DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0007<br /> <br /> TƯ TƯỞNG THÂN DÂN TRONG VĂN HỌC THỜI KHỞI NGHĨA LAM SƠN<br /> Đinh Thị Phương Thu<br /> <br /> Trường Trung học Phổ thông Chuyên Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội<br /> Tóm tắt. Tư tưởng thân dân là một nội dung quan trọng của văn học trung đại Việt Nam.<br /> Tư tưởng này được thể hiện đậm nét trong sáng tác văn chương của các tác giả trung đại<br /> thế kỉ XV. Đặt vấn đề nghiên cứu tư tưởng thân dân trong văn học thời khởi nghĩa Lam<br /> Sơn, người viết không chỉ muốn lí giải một vấn đề lớn đặt ra trong lịch sử và có ý nghĩa<br /> trong đời sống xã hội mà còn góp phần tìm hiểu tác giả và sự phát triển của văn học trung<br /> đại Việt Nam. Phạm vi tìm hiểu của chúng tôi là các tác giả tham gia cuộc khởi nghĩa Lam<br /> Sơn: Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân.<br /> Từ khóa: Tư tưởng thân dân, văn học, khởi nghĩa Lam Sơn.<br /> <br /> 1.<br /> <br /> Mở đầu<br /> <br /> Tư tưởng thân dân xuyên suốt tiến trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc. Tiếp nối<br /> truyền thống của văn học thời Trần, tư tưởng thân dân được thể hiện phong phú trong thơ văn thời<br /> khởi nghĩa Lam Sơn. Các trí thức thời Lê đã ý thức rõ về vai trò, sức mạnh to lớn của người dân,<br /> họ không chỉ thương dân, gần dân mà còn trọng dân, ơn dân. Họ khao khát thực hiện hoài bão,<br /> lí tưởng giúp dân, giúp nước, đem trí lực của kẻ sĩ mà mang lại cuộc sống ấm no cho nhân dân.<br /> Nghiên cứu về tư tưởng thân dân trong văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn là một vấn đề còn bỏ ngỏ,<br /> chưa có nhiều tư liệu, công trình nghiên cứu hay bài viết tìm hiểu vấn đề một cách chuyên sâu.<br /> Có hướng nghiên cứu về lịch sử tư tưởng Việt Nam chủ yếu là đánh giá sự tác động, ảnh hưởng<br /> của Nho giáo đến tư tưởng và văn học Việt Nam, trong đó có đưa ra một vài nhận xét khái quát.<br /> Có hướng nghiên cứu về sự phát triển của lịch sử văn học Việt Nam nhưng chủ yếu là những giáo<br /> trình nên mới chỉ chạm đến vấn đề ở mức độ sơ lược hoặc điểm qua một số tác giả tiêu biểu ở mỗi<br /> giai đoạn. Có hướng nghiên cứu về tác gia văn học, đặc biệt là các tác gia lớn, trong đó chúng tôi<br /> thấy tập trung nhiều nhất ở tác gia Nguyễn Trãi mà chưa có các tác giả khác đại diện cho văn học<br /> thời khởi nghĩa Lam Sơn. Một số luận văn, bài viết những năm gần đây như: Khảo cứu triết lí về<br /> nhân dân trong lịch sử tư tưởng Việt Nam [2], Tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi [3], Tư tưởng<br /> thân dân từ Nguyễn Phi Khanh đến Nguyễn Trãi [12], Tư tưởng thân dân từ thơ thời Lý đến thơ<br /> thời Trần [6], Tư tưởng thân dân trong lịch sử tư tưởng Việt Nam đến đầu thế kỉ XX [4], Đặc trưng<br /> quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Trãi [13], Chữ “dân” trong di cảo văn chương<br /> của Nguyễn Trãi [1] là những tư liệu nghiên cứu đã ít nhiều đề cập đến vấn đề nhưng chủ yếu là<br /> nói về Nguyễn Trãi như đại diện chói sáng nhất của văn học thời kì này. Tiếp thu những nguồn tư<br /> liệu của người đi trước, bài viết của chúng tôi muốn đi sâu vào tìm hiểu sự phát triển tư tưởng thân<br /> dân trong văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn từ Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân đến Nguyễn Trãi.<br /> Ngày nhận bài: 15/11/2017. Ngày sửa bài: 27/11/2017. Ngày nhận đăng: 25/1/2018.<br /> Liên hệ: Đinh Thị Phương Thu, e-mail: thuphuoctung@gmail.com.<br /> <br /> 47<br /> <br /> Đinh Thị Phương Thu<br /> <br /> 2.<br /> 2.1.<br /> <br /> Nội dung nghiên cứu<br /> Từ tư tưởng thân dân trong sáng tác của Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn<br /> <br /> Nguyễn Mộng Tuân, không rõ năm sinh năm mất, tự là Văn Nhược, hiệu là Cúc Pha, người<br /> làng Viên Khê, Đông Sơn, Thanh Hóa. Ông sống cùng thời và đỗ Thái học sinh cùng khoa với<br /> Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn (1400). Nguyễn Mộng Tuân tham gia nghĩa quân Lam Sơn khi cuộc kháng<br /> chiến đang bước vào thời kì tổng phản công, được Lê Lợi tin dùng vào việc văn từ. Dưới các triều<br /> Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, ông đã cùng Nguyễn Trãi và Lý Tử Tấn làm giám khảo các khoa thi<br /> Hội. Thời Lê Nhân Tông ông có đi đánh Chiêm Thành, được phong chức Tả nạp ngôn, tước Vinh<br /> Lộc đại phu. Có để lại tập thơ Cúc Pha gồm 143 bài thơ chữ Hán và 40 bài phú chữ Hán mà nổi<br /> tiếng là những bài Chí Linh sơn phú, Lam Sơn giai khí phú, Tẩy giáp binh phú,...<br /> Là một người đã từng tham gia vào cuộc kháng chiến, cùng nghĩa quân Lam Sơn trải qua<br /> những trận chiến đấu hiểm nghèo và anh dũng, đã hòa nhịp sống gian nan cùng nhân dân đánh<br /> giặc, Nguyễn Mộng Tuân hiểu rõ rằng một trong những nguyên nhân quan trọng tạo nên sức mạnh<br /> chính nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh đó chính là được<br /> sự đồng lòng ủng hộ của nhân dân. Tài năng và đức lớn của Lê Lợi là đã tạo nên được một:<br /> “Đội quân tình thiết cha con, thân cùng cam khổ,/ Tướng sĩ sức dư hùng hổ, sắt luyện tâm<br /> can”/ “Đưa nhân dân lên chăn ấm chiếu êm, xây nên hạnh phúc;/ đặt nước nhà như đá Bàn non<br /> Thái, vững nghiệp hưng long” (Chí Linh sơn phú - Phú núi Chí Linh) [11].<br /> Nguyễn Mộng Tuân đã phát biểu lên quan điểm của cả một thế hệ trí thức, muốn thực hiện<br /> lý tưởng của mình ở ngay cõi đời này, muốn thiết thực giúp ích cho dân tộc, cho nhân dân:<br /> Hảo tương quốc luận tư thâm ý,/ Hà tất Bồng, Doanh nhập mộng tư (Nên đem việc nước<br /> bàn bạc để giúp them ý tốt,/ Chẳng cần mơ mộng cảnh thần tiên) (Du hồ - Đi chơi hồ) [11].<br /> Nhà thơ luôn gắn cảm xúc về cảnh đẹp của đất nước với nguyện ước cho dân lành được<br /> hưởng cuộc sống ấm no hạnh phúc. Trong bài thơ Du hồ kì 2 Nguyễn Mộng Tuân viết:<br /> Ngự lâu nhai xứ diệu nan danh<br /> Phổ bác uyên tuyền sướng đạo tình<br /> Phong thụ mạt hà thiên nhất sắc<br /> Lô hoa hoà tuyết nguyệt tam canh<br /> Băng hồ triệt để vô tiêm trĩ<br /> Đan quế phi hương bất tận thanh<br /> Mông phúc kinh sư dư sự nhĩ<br /> Nguyện tương ân trạch bái thương sinh<br /> <br /> (Lâu đài cung điện cảnh như tranh<br /> Man mác lâng lâng thoả tính tình<br /> Pha ráng ngọn bàng trời một sắc<br /> Hoa lau lẫn tuyết nguyệt ba canh<br /> Ánh hồ trong suốt sâu ba lớp<br /> Vị quế hương bay khắp thị thành<br /> Ơn đội phúc về nơi đế khuyết<br /> Những mong ơn huệ thấu dân lành) [11].<br /> <br /> Trong bài thơ chữ Hán khác Dân thủy (Dân và nước) [10], ông viết:<br /> Đãng đãng dân tình dị khứ lưu,<br /> Tín tai như thủy hoặc trầm phù<br /> Quần sinh tụ tán doanh hư thế,<br /> Chúng chí tong vi thuận nghịch lưu<br /> <br /> 48<br /> <br /> (Tuồn tuột dân tình dễ đi mà cũng dễ ở,<br /> Quả đúng như là nước dễ chìm mà cũng dễ nổi.<br /> Sự tụ hợp lại hay sự tan đi mất của dân chúng cũng<br /> giống như cái thế đầy và vơi của nước,<br /> Sư tuân theo hay sự chống lại của dân chúng cũng<br /> giống như dòng nước xuôi hoặc dòng nước ngược).<br /> <br /> Tư tưởng thân dân trong văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn<br /> <br /> Và nếu dân đã giống như nước, thì phải biết thuận theo sức dân như là thuận theo sức nước.<br /> Thuận theo dân thì mọi việc sẽ trôi chảy. Được lòng dân thì như đi thuyền mà được xuôi dòng<br /> nước. Nói về nhiệm vụ của kẻ cầm quyền trị nước, Nguyễn Mộng Tuân đòi hỏi như sau:<br /> Tiên tri giá sắc gia đồ trị,<br /> Vô hiệu du điền trí túc cung.<br /> Phần cẩm do lai tri hữu tố,<br /> Trí quân diệc khả thị vô cùng<br /> <br /> (Trước hết lo việc cày cấy để mưu thêm việc bình trị,<br /> Không theo đuổi việc săn bắn, đi tới chỗ nghiêm chỉnh kính<br /> đạo trời.<br /> Đốt gấm đi thì mới biết cái chất của vải,<br /> Hết lòng giúp vua thì mới có thể thấy việc lớn vô cùng)<br /> (Đề vô dật dồ [10]<br /> <br /> Như vậy làm vua thì phải biết đến sinh kế của dân, chăm lo nghề nông, không săn bắn, sợ<br /> ngựa xe và quân sĩ giày xéo đồng tiền, biết kính đạo trời vốn không dung sự phá hoại, còn như làm<br /> bề tôi thì phải cần kiệm và hết lòng giúp vua lo việc nước mà không biết thế nào là giới hạn của<br /> phận sự. Đó là một tư tưởng có ý nghĩa tích cực và tiến bộ.<br /> Thiết tha yêu nước, thương dân, Nguyễn Mộng Tuân luôn luôn nghĩ đến tu dưỡng phẩm<br /> chất “tiên ưu hậu lạc”. trong bài thơ chữ Hán Cảnh chẩm (Chiếc gối tỉnh ngủ [11]), ông viết:<br /> Tiên sinh cự tẩm cảm cầu an,<br /> Cảnh chẩm tong lại nhập mộng<br /> nan.<br /> Tâm thủ bất khi niên khất khất,<br /> Tình tri vô quyện tự can can.<br /> <br /> (Tiên sinh ở trong nhà mà nào dám cầu được an thân,<br /> Dùng cái gối tỉnh ngủ cho nên khó đi vào giấc mộng say.<br /> Giữ cho bụng dạ không giả dối năm năm gắng sức mình,<br /> Biết rằng tấm lòng chẳng mệt mỏi luôn luôn sợ sai phạm).<br /> <br /> Lúc nào ông cũng lo rằng chưa làm hết sức mình (Mạn thuật):<br /> Chức chuyết miếu đường tàm<br /> hậu lạc,<br /> Dân đầu mãn hác thiết tiên ưu.<br /> <br /> (Góp vào công việc Nhà nước, tự thẹn rằng mình mà cũng<br /> dự vào hàng những người vui sau thiên hạ<br /> Nhân dân bị rơi vào vực lầm than, tấm lòng gắn với mối lo<br /> trước thiên hạ) [11].<br /> <br /> Nguyễn Mộng Tuân khiêm tốn mà lo rằng mình không có đóng góp xứng đáng với nước,<br /> với dân, (Mạn thuật [7]) nhưng ông lại rất tự hào vì:<br /> Điểm kiểm nhất sinh công dụng xứ,<br /> Nguyên lai đoan bất vị thân mưu<br /> <br /> (Kiểm điểm cái chỗ có ích của đời mình,<br /> Ấy là ở chỗ không hề mưu toan điều gì cho riêng mình).<br /> <br /> “Không hề mưu toan điều gì cho riêng mình”, “tự thẹn rằng mình mà cũng dự vào hàng<br /> những người vui sau thiên hạ”, “tấm lòng gắn với mối lo trước thiên hạ”, Nguyễn Mộng Tuân xứng<br /> đáng với phẩm chất mà Chu Văn An đã từng nêu cao, mà Nguyễn Trãi cùng với nhiều trí thức dân<br /> tộc thế kỉ XV ngày càng làm cho tốt đẹp hơn.<br /> Cùng với Nguyễn Mộng Tuân, và sau Nguyễn Trãi, thì Lý Tử Tấn cũng là một tác giả lớn<br /> phản ánh được tư tưởng thân dân rất tiêu biểu cho văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn. Lý Tử Tấn<br /> (1378 - 1457) hiệu Chuyết Am, người làng Triều Đông, huyện Thường Tín (Hà Tây), đậu thái học<br /> sinh năm 1400, cùng khoa với Nguyễn Trãi và Vũ Mộng Nguyên, nhưng không làm quan với nhà<br /> 49<br /> <br /> Đinh Thị Phương Thu<br /> <br /> Hồ. Ông cũng là tác giả lớn đầu đời Lê, ông giúp việc đắc lực cho Lê Lợi trong cuộc kháng chiến<br /> chống giặc Minh, trải qua ba triều vua được trọng dụng. Tác phẩm của ông có Chuyết Am thi tập,<br /> đã mất, hiện còn 5 bài phú chép trong Quần hiền phú tập và 73 bài thơ chép trong Toàn Việt thi<br /> lục. Trong bài Xương giang phú, Lý Tử Tấn đã nhấn mạnh đến vai trò của dân trong việc thành bại<br /> của đất nước, “giữ dân” cốt yếu không phải ở hùng binh mà ở nhân nghĩa, đạo đức. Than ôi!/ Có<br /> đức, công mới lớn,/ Có người, đất mới linh./ Giữ nước, không cốt ở hiểm yếu,/ Giữ dân không cốt<br /> ở hùng binh [10].<br /> Cũng giống như Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn đều giúp việc đắc lực cho Lê Lợi trong thời<br /> gian kháng chiến. Đến khi nước nhà giải phóng, hai ông cũng như nhiều trí thức yêu nước khác<br /> đều phấn khởi tin tưởng rằng đất nước giờ có vua sáng tôi hiền, nhân dân sẽ được an cư lạc nghiệp,<br /> “đạo thánh” được sáng tỏ. Nguyễn Mộng Tuân nói lên hoài bão muốn cho dân được no ấm: Ca<br /> khúc gió nam để giúp đỡ/ Đưa dân ta lên cõi thọ giàu/ (Huân phong cầm phú) [10]. Thì Lý Tử Tấn<br /> lại nhấn mạnh cốt cách của kẻ đại sĩ phu trong đời thịnh. Trong các bài như Tảo mai phú, Quảng<br /> cư phú, Dục Nghi phú,. . . ông thường bàn về đạo nhân mà kẻ sĩ đại phu phải bảo vệ. Trong bài<br /> Quảng cư phú ông viết: Nào có biết đạo nhân đối với người,/ Không gì là không có, không phút<br /> nào khác đâu./ . . . / Lễ nhạc hình chính, không nhân là không vững,/ Giáo hóa mệnh lệnh, không<br /> nhân là là không truyền [7].<br /> Theo ông, kẻ đại sĩ phu có nhiệm vụ “lấy nhân dựng nước, lấy nhân trị dân”. Cùng trong<br /> bài phú về núi Chí Linh, bốn tác giả Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Trình Thuấn<br /> Du đều đề cao triết lí vì dân, nhờ có “thịnh đức”, “đại đức” của chủ tướng Lê Lợi nên đã tạo nên<br /> chiến thắng giặc Minh. Theo Nguyễn Trãi “thịnh đức” là ở chỗ “giữ vẹn nước là hơn, lo dân yên là<br /> trọng”. Theo Nguyễn Mộng Tuân, “đại đức” là ở chỗ “đưa nhân dân lên chăn ấm chiếu êm chẳng<br /> khổ, đặt nước nhà như đá bàn non Thái không lay”.<br /> Với lòng yêu mến người dân, Lý Tử Tấn luôn luôn tìm thấy niềm vui trong cuộc sống bình<br /> dị của nhân dân. Trong bài thơ Sơ thu (Đầu mùa thu) ông viết:<br /> Hòe thủ âm âm đạc phấn tường,<br /> Hà hoa niểu niểu phiến tân hương.<br /> Nhất phần thu sắc quân thiên sắc,<br /> Tứ cố sơn quang tiếp thủy quang.<br /> Tứ giải hàm hoàng sơ thướng đoạn,<br /> Hương duyên đái lục sảo thiêm nhương.<br /> Tôn tiền hữu tửu tu hành lạc,<br /> Mạc đãi đông ly cúc nhị hoàng<br /> <br /> (Cây hòe đo bóng trên tường phấn,<br /> Hoa sen dịu dàng phả hương thơm mới.<br /> Một phần sắc thu pha với sắc trời,<br /> Bốn bề ánh núi tiếp liền ánh nước.<br /> Cua đỏ tía ngậm gạch vàng đã chui vào rọ,<br /> Phật thủ thơm đượm màu xanh, dần dần thêm múi.<br /> Trong hồ có rượu hãy cứ vui uống,<br /> Chẳng cần đợi giậu đông nảy cúc vàng) [7].<br /> <br /> Phong vị yêu mến của quê hương và khuynh hướng tìm về cuộc sống bình dị, dân dã của<br /> nhân dân trong bài thơ của Lý Tử Tấn gợi cho ta những vần thơ của Nguyễn Trung Ngạn (thế kỉ<br /> XIV) về nhộng chín, cua béo, và rất giống với những vần thơ của Nguyễn Trãi về quả núc nác, giậu<br /> mồng tơi, bè rau muống, luống dọc mùng hay là của Nguyễn Bỉnh Khiêm (thế kỉ XVI) về canh cua<br /> rốc, măng trúc, giá đỗ,. . . Ở những nhà nho ẩn dật, tâm lí tìm về chỗ dựa trong nhân dân dường<br /> như đó cũng là niềm tự hào vì mình đã hiểu lẽ trời, tìm được an nhiên, thấy niềm vui cuộc sống.<br /> <br /> 2.2.<br /> <br /> Đến tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi<br /> <br /> Nói đến Nguyễn Trãi là nói đến ngôi sao sáng nhất của bầu trời văn học lúc đương thời, ở<br /> Nguyễn Trãi, tư tưởng thân dân được biểu hiện một cách trung thành và mạnh mẽ nhất, tiến bộ<br /> 50<br /> <br /> Tư tưởng thân dân trong văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn<br /> <br /> nhất. Nguyễn Trãi không chỉ thương dân, trọng dân mà còn ơn dân sâu nặng. Tấm lòng ưu quốc ái<br /> dân “Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông” của Nguyễn Trãi thể hiện trong toàn bộ sự nghiệp cứu<br /> quốc cũng như sự nghiệp văn học của ông. Chắc chắn rằng, Nguyễn Trãi mà chúng ta còn được<br /> đọc hôm nay chỉ là một phần trước tác của ông, tuy nhiên, ngay khi chỉ căn cứ vào số ít tác phẩm<br /> đó, chúng ta cũng có thể khẳng định rằng, so với tất cả các tác giả cầm bút lông trong lịch sử văn<br /> chương nước nhà, Nguyễn Trãi là người nói đến chữ “dân” nhiều lần nhất, ở nhiều tác phẩm khác<br /> nhau nhất, với những sắc thái ý nghĩa phong phú nhất. Ông nói đến chữ “dân” khi đi cùng Lê Lợi<br /> trong cuộc kháng chiến cũng như trong buổi đầu xây dựng vương triều, với tư cách là người phát<br /> ngôn của cuộc kháng chiến hay của vương triều đã đành, nhưng ông cũng nói đến chữ “dân”, trong<br /> những bài thơ bàn luận về lẽ thành bại của triều đại Hồ Quý Ly, và sau này, khi đã tạm về làm chí<br /> sĩ ở Côn Sơn, ông lại nói đến chữ “dân” khi bộc bạch nỗi lòng. Chữ “dân” đã đi cùng ông trong<br /> suốt những năm tháng của một cuộc đời chìm nổi, vĩ đại và thương đau. Ở đây, trong khuôn khổ<br /> bài viết, chúng tôi khảo sát tư tưởng thân dân chủ yếu ở trước tác của ông thời khởi khởi nghĩa<br /> Lam Sơn.<br /> Thơ văn của Nguyễn Trãi như một thứ vũ khí chiến đấu cho Tổ quốc, cho nhân dân. Quân<br /> trung từ mệnh tập vẫn thường được ca ngợi là tập văn chính luận có tính chiến đấu mạnh mẽ như<br /> mười vạn quân, nhưng tìm hiểu tác phẩm này ta còn thấy khi luận chiến với kẻ thù, Nguyễn Trãi<br /> luôn xuất phát từ tấm lòng thương xót muôn dân phải chịu cảnh đọa đày, dưới sự thống trị hà khắc<br /> của giặc Minh. Trên nhiều trang thư, nhà chí sĩ đã thảng thốt nói lên điều đó: “Phương Chính, Mã<br /> Kỳ chuyên làm hà ngược, sinh linh lầm than, thiên hạ ta oán, đào phần mộ ở ấp ta, bắt vợ con của<br /> dân ta, người sống bị hại, người chết ngậm oan. . . ” (Thư số 35). [9]. Nhiều lúc, nhà chí sĩ không<br /> trình bày mà nêu câu hỏi, nhằm xoáy vào tâm trí đối phương nỗi thống khổ của nhân dân: “. . . đại<br /> nhân là vị nguyên soái có văn học, há lại không biết muôn dân có tội gì mà lại nỡ để cho gặp tai<br /> họa lâu đến mãi trăm năm mà không dứt ư?” (Thư số 16) [9]. Là một người tham gia lãnh đạo<br /> phong trào kháng chiến, Nguyễn Trãi nói về sức mạnh nhân dân với tất cả lòng xót xa, tin tưởng.<br /> Ông lại vạch rõ rằng giặc sẽ thất bại và nghĩa quân Lam Sơn tất sẽ thắng lợi, vì một bên thì “hại<br /> dân”, một bên thì “yên dân”. Trong suốt tập văn luận chiến, tuy vẫn là lí lẽ, nhưng nó luôn luôn in<br /> đậm dấu ấn tâm hồn Ức Trai, nó nhẹ nhàng mà thấm vào từng chữ từng câu, làm cho câu văn trở<br /> nên thiết tha, nóng bỏng và ở đâu cũng nén kín một ước muốn cháy bỏng: đất nước được dứt cảnh<br /> đao binh, nhân dân được thái bình. Ông thường nêu cao sức mạnh của dân để răn đe kẻ địch ngoan<br /> cố. Sau này trong các tờ chiếu nhân danh nhà vua nói với thái tử và các quan lại, ông thường nhắc<br /> đến dân như là đối tượng phải quan tâm chăm sóc, như là sức mạnh phải biết coi trọng và dựa vào,<br /> phải ơn dân. Trong bài Hậu tự huấn để răn bảo thái tử, Nguyễn Trãi viết “Mến người có nhân là<br /> dân, Mà chở thuyền và lật thuyền cũng là dân” [7]. Cũng ý ấy lại được nhắc đến trong bài Quan<br /> hải: Phúc chu thủy tín dân do thủy (Làm lật thuyền, mới biết dân như nước).<br /> Trong bài thơ Nôm Bảo kính cảnh giới (bài 57), [7] ông viết: Đọc sách thời thông đòi nghĩa<br /> sách,/ Đem dân mựa nữa mất lòng dân.<br /> Trong bài thơ chữ Hán Mạn hứng, ông viết: Nụy ốc thê thân kham độ lão,/ Thượng sinh tại<br /> niệm độc tiên ưu (Nhà nhỏ, nương thân có thể qua tuổi già,/ Lúc nào cũng nghĩ đến dân, riêng ôm<br /> mối tiên ưu).<br /> Trong bài thơ chữ Nôm Trần tình (bài 1), [10] ông viết: Quốc phú, binh cường, chăng có<br /> chước/ Bằng tôi nào thừa ích chưng dân.<br /> Trong bài thơ chữ Hán Quan duyệt thủy trận, [10] ông viết: Thánh tâm dục dữ dân hưu tức,/<br /> Văn trị chung tu trí thái bình (Lòng vua muốn để dân yên nghỉ,/ Văn trị nên xây dựng thái bình).<br /> Thật rõ ràng, tư tưởng thân dân, trọng dân, tình cảm thương dân, ý chí vì dân là nội dung<br /> 51<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2