JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br />
Social Science, 2018, Vol. 63, Iss. 1, pp. 47-53<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0007<br />
<br />
TƯ TƯỞNG THÂN DÂN TRONG VĂN HỌC THỜI KHỞI NGHĨA LAM SƠN<br />
Đinh Thị Phương Thu<br />
<br />
Trường Trung học Phổ thông Chuyên Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội<br />
Tóm tắt. Tư tưởng thân dân là một nội dung quan trọng của văn học trung đại Việt Nam.<br />
Tư tưởng này được thể hiện đậm nét trong sáng tác văn chương của các tác giả trung đại<br />
thế kỉ XV. Đặt vấn đề nghiên cứu tư tưởng thân dân trong văn học thời khởi nghĩa Lam<br />
Sơn, người viết không chỉ muốn lí giải một vấn đề lớn đặt ra trong lịch sử và có ý nghĩa<br />
trong đời sống xã hội mà còn góp phần tìm hiểu tác giả và sự phát triển của văn học trung<br />
đại Việt Nam. Phạm vi tìm hiểu của chúng tôi là các tác giả tham gia cuộc khởi nghĩa Lam<br />
Sơn: Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân.<br />
Từ khóa: Tư tưởng thân dân, văn học, khởi nghĩa Lam Sơn.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
Tư tưởng thân dân xuyên suốt tiến trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc. Tiếp nối<br />
truyền thống của văn học thời Trần, tư tưởng thân dân được thể hiện phong phú trong thơ văn thời<br />
khởi nghĩa Lam Sơn. Các trí thức thời Lê đã ý thức rõ về vai trò, sức mạnh to lớn của người dân,<br />
họ không chỉ thương dân, gần dân mà còn trọng dân, ơn dân. Họ khao khát thực hiện hoài bão,<br />
lí tưởng giúp dân, giúp nước, đem trí lực của kẻ sĩ mà mang lại cuộc sống ấm no cho nhân dân.<br />
Nghiên cứu về tư tưởng thân dân trong văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn là một vấn đề còn bỏ ngỏ,<br />
chưa có nhiều tư liệu, công trình nghiên cứu hay bài viết tìm hiểu vấn đề một cách chuyên sâu.<br />
Có hướng nghiên cứu về lịch sử tư tưởng Việt Nam chủ yếu là đánh giá sự tác động, ảnh hưởng<br />
của Nho giáo đến tư tưởng và văn học Việt Nam, trong đó có đưa ra một vài nhận xét khái quát.<br />
Có hướng nghiên cứu về sự phát triển của lịch sử văn học Việt Nam nhưng chủ yếu là những giáo<br />
trình nên mới chỉ chạm đến vấn đề ở mức độ sơ lược hoặc điểm qua một số tác giả tiêu biểu ở mỗi<br />
giai đoạn. Có hướng nghiên cứu về tác gia văn học, đặc biệt là các tác gia lớn, trong đó chúng tôi<br />
thấy tập trung nhiều nhất ở tác gia Nguyễn Trãi mà chưa có các tác giả khác đại diện cho văn học<br />
thời khởi nghĩa Lam Sơn. Một số luận văn, bài viết những năm gần đây như: Khảo cứu triết lí về<br />
nhân dân trong lịch sử tư tưởng Việt Nam [2], Tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi [3], Tư tưởng<br />
thân dân từ Nguyễn Phi Khanh đến Nguyễn Trãi [12], Tư tưởng thân dân từ thơ thời Lý đến thơ<br />
thời Trần [6], Tư tưởng thân dân trong lịch sử tư tưởng Việt Nam đến đầu thế kỉ XX [4], Đặc trưng<br />
quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Trãi [13], Chữ “dân” trong di cảo văn chương<br />
của Nguyễn Trãi [1] là những tư liệu nghiên cứu đã ít nhiều đề cập đến vấn đề nhưng chủ yếu là<br />
nói về Nguyễn Trãi như đại diện chói sáng nhất của văn học thời kì này. Tiếp thu những nguồn tư<br />
liệu của người đi trước, bài viết của chúng tôi muốn đi sâu vào tìm hiểu sự phát triển tư tưởng thân<br />
dân trong văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn từ Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân đến Nguyễn Trãi.<br />
Ngày nhận bài: 15/11/2017. Ngày sửa bài: 27/11/2017. Ngày nhận đăng: 25/1/2018.<br />
Liên hệ: Đinh Thị Phương Thu, e-mail: thuphuoctung@gmail.com.<br />
<br />
47<br />
<br />
Đinh Thị Phương Thu<br />
<br />
2.<br />
2.1.<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
Từ tư tưởng thân dân trong sáng tác của Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn<br />
<br />
Nguyễn Mộng Tuân, không rõ năm sinh năm mất, tự là Văn Nhược, hiệu là Cúc Pha, người<br />
làng Viên Khê, Đông Sơn, Thanh Hóa. Ông sống cùng thời và đỗ Thái học sinh cùng khoa với<br />
Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn (1400). Nguyễn Mộng Tuân tham gia nghĩa quân Lam Sơn khi cuộc kháng<br />
chiến đang bước vào thời kì tổng phản công, được Lê Lợi tin dùng vào việc văn từ. Dưới các triều<br />
Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, ông đã cùng Nguyễn Trãi và Lý Tử Tấn làm giám khảo các khoa thi<br />
Hội. Thời Lê Nhân Tông ông có đi đánh Chiêm Thành, được phong chức Tả nạp ngôn, tước Vinh<br />
Lộc đại phu. Có để lại tập thơ Cúc Pha gồm 143 bài thơ chữ Hán và 40 bài phú chữ Hán mà nổi<br />
tiếng là những bài Chí Linh sơn phú, Lam Sơn giai khí phú, Tẩy giáp binh phú,...<br />
Là một người đã từng tham gia vào cuộc kháng chiến, cùng nghĩa quân Lam Sơn trải qua<br />
những trận chiến đấu hiểm nghèo và anh dũng, đã hòa nhịp sống gian nan cùng nhân dân đánh<br />
giặc, Nguyễn Mộng Tuân hiểu rõ rằng một trong những nguyên nhân quan trọng tạo nên sức mạnh<br />
chính nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh đó chính là được<br />
sự đồng lòng ủng hộ của nhân dân. Tài năng và đức lớn của Lê Lợi là đã tạo nên được một:<br />
“Đội quân tình thiết cha con, thân cùng cam khổ,/ Tướng sĩ sức dư hùng hổ, sắt luyện tâm<br />
can”/ “Đưa nhân dân lên chăn ấm chiếu êm, xây nên hạnh phúc;/ đặt nước nhà như đá Bàn non<br />
Thái, vững nghiệp hưng long” (Chí Linh sơn phú - Phú núi Chí Linh) [11].<br />
Nguyễn Mộng Tuân đã phát biểu lên quan điểm của cả một thế hệ trí thức, muốn thực hiện<br />
lý tưởng của mình ở ngay cõi đời này, muốn thiết thực giúp ích cho dân tộc, cho nhân dân:<br />
Hảo tương quốc luận tư thâm ý,/ Hà tất Bồng, Doanh nhập mộng tư (Nên đem việc nước<br />
bàn bạc để giúp them ý tốt,/ Chẳng cần mơ mộng cảnh thần tiên) (Du hồ - Đi chơi hồ) [11].<br />
Nhà thơ luôn gắn cảm xúc về cảnh đẹp của đất nước với nguyện ước cho dân lành được<br />
hưởng cuộc sống ấm no hạnh phúc. Trong bài thơ Du hồ kì 2 Nguyễn Mộng Tuân viết:<br />
Ngự lâu nhai xứ diệu nan danh<br />
Phổ bác uyên tuyền sướng đạo tình<br />
Phong thụ mạt hà thiên nhất sắc<br />
Lô hoa hoà tuyết nguyệt tam canh<br />
Băng hồ triệt để vô tiêm trĩ<br />
Đan quế phi hương bất tận thanh<br />
Mông phúc kinh sư dư sự nhĩ<br />
Nguyện tương ân trạch bái thương sinh<br />
<br />
(Lâu đài cung điện cảnh như tranh<br />
Man mác lâng lâng thoả tính tình<br />
Pha ráng ngọn bàng trời một sắc<br />
Hoa lau lẫn tuyết nguyệt ba canh<br />
Ánh hồ trong suốt sâu ba lớp<br />
Vị quế hương bay khắp thị thành<br />
Ơn đội phúc về nơi đế khuyết<br />
Những mong ơn huệ thấu dân lành) [11].<br />
<br />
Trong bài thơ chữ Hán khác Dân thủy (Dân và nước) [10], ông viết:<br />
Đãng đãng dân tình dị khứ lưu,<br />
Tín tai như thủy hoặc trầm phù<br />
Quần sinh tụ tán doanh hư thế,<br />
Chúng chí tong vi thuận nghịch lưu<br />
<br />
48<br />
<br />
(Tuồn tuột dân tình dễ đi mà cũng dễ ở,<br />
Quả đúng như là nước dễ chìm mà cũng dễ nổi.<br />
Sự tụ hợp lại hay sự tan đi mất của dân chúng cũng<br />
giống như cái thế đầy và vơi của nước,<br />
Sư tuân theo hay sự chống lại của dân chúng cũng<br />
giống như dòng nước xuôi hoặc dòng nước ngược).<br />
<br />
Tư tưởng thân dân trong văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn<br />
<br />
Và nếu dân đã giống như nước, thì phải biết thuận theo sức dân như là thuận theo sức nước.<br />
Thuận theo dân thì mọi việc sẽ trôi chảy. Được lòng dân thì như đi thuyền mà được xuôi dòng<br />
nước. Nói về nhiệm vụ của kẻ cầm quyền trị nước, Nguyễn Mộng Tuân đòi hỏi như sau:<br />
Tiên tri giá sắc gia đồ trị,<br />
Vô hiệu du điền trí túc cung.<br />
Phần cẩm do lai tri hữu tố,<br />
Trí quân diệc khả thị vô cùng<br />
<br />
(Trước hết lo việc cày cấy để mưu thêm việc bình trị,<br />
Không theo đuổi việc săn bắn, đi tới chỗ nghiêm chỉnh kính<br />
đạo trời.<br />
Đốt gấm đi thì mới biết cái chất của vải,<br />
Hết lòng giúp vua thì mới có thể thấy việc lớn vô cùng)<br />
(Đề vô dật dồ [10]<br />
<br />
Như vậy làm vua thì phải biết đến sinh kế của dân, chăm lo nghề nông, không săn bắn, sợ<br />
ngựa xe và quân sĩ giày xéo đồng tiền, biết kính đạo trời vốn không dung sự phá hoại, còn như làm<br />
bề tôi thì phải cần kiệm và hết lòng giúp vua lo việc nước mà không biết thế nào là giới hạn của<br />
phận sự. Đó là một tư tưởng có ý nghĩa tích cực và tiến bộ.<br />
Thiết tha yêu nước, thương dân, Nguyễn Mộng Tuân luôn luôn nghĩ đến tu dưỡng phẩm<br />
chất “tiên ưu hậu lạc”. trong bài thơ chữ Hán Cảnh chẩm (Chiếc gối tỉnh ngủ [11]), ông viết:<br />
Tiên sinh cự tẩm cảm cầu an,<br />
Cảnh chẩm tong lại nhập mộng<br />
nan.<br />
Tâm thủ bất khi niên khất khất,<br />
Tình tri vô quyện tự can can.<br />
<br />
(Tiên sinh ở trong nhà mà nào dám cầu được an thân,<br />
Dùng cái gối tỉnh ngủ cho nên khó đi vào giấc mộng say.<br />
Giữ cho bụng dạ không giả dối năm năm gắng sức mình,<br />
Biết rằng tấm lòng chẳng mệt mỏi luôn luôn sợ sai phạm).<br />
<br />
Lúc nào ông cũng lo rằng chưa làm hết sức mình (Mạn thuật):<br />
Chức chuyết miếu đường tàm<br />
hậu lạc,<br />
Dân đầu mãn hác thiết tiên ưu.<br />
<br />
(Góp vào công việc Nhà nước, tự thẹn rằng mình mà cũng<br />
dự vào hàng những người vui sau thiên hạ<br />
Nhân dân bị rơi vào vực lầm than, tấm lòng gắn với mối lo<br />
trước thiên hạ) [11].<br />
<br />
Nguyễn Mộng Tuân khiêm tốn mà lo rằng mình không có đóng góp xứng đáng với nước,<br />
với dân, (Mạn thuật [7]) nhưng ông lại rất tự hào vì:<br />
Điểm kiểm nhất sinh công dụng xứ,<br />
Nguyên lai đoan bất vị thân mưu<br />
<br />
(Kiểm điểm cái chỗ có ích của đời mình,<br />
Ấy là ở chỗ không hề mưu toan điều gì cho riêng mình).<br />
<br />
“Không hề mưu toan điều gì cho riêng mình”, “tự thẹn rằng mình mà cũng dự vào hàng<br />
những người vui sau thiên hạ”, “tấm lòng gắn với mối lo trước thiên hạ”, Nguyễn Mộng Tuân xứng<br />
đáng với phẩm chất mà Chu Văn An đã từng nêu cao, mà Nguyễn Trãi cùng với nhiều trí thức dân<br />
tộc thế kỉ XV ngày càng làm cho tốt đẹp hơn.<br />
Cùng với Nguyễn Mộng Tuân, và sau Nguyễn Trãi, thì Lý Tử Tấn cũng là một tác giả lớn<br />
phản ánh được tư tưởng thân dân rất tiêu biểu cho văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn. Lý Tử Tấn<br />
(1378 - 1457) hiệu Chuyết Am, người làng Triều Đông, huyện Thường Tín (Hà Tây), đậu thái học<br />
sinh năm 1400, cùng khoa với Nguyễn Trãi và Vũ Mộng Nguyên, nhưng không làm quan với nhà<br />
49<br />
<br />
Đinh Thị Phương Thu<br />
<br />
Hồ. Ông cũng là tác giả lớn đầu đời Lê, ông giúp việc đắc lực cho Lê Lợi trong cuộc kháng chiến<br />
chống giặc Minh, trải qua ba triều vua được trọng dụng. Tác phẩm của ông có Chuyết Am thi tập,<br />
đã mất, hiện còn 5 bài phú chép trong Quần hiền phú tập và 73 bài thơ chép trong Toàn Việt thi<br />
lục. Trong bài Xương giang phú, Lý Tử Tấn đã nhấn mạnh đến vai trò của dân trong việc thành bại<br />
của đất nước, “giữ dân” cốt yếu không phải ở hùng binh mà ở nhân nghĩa, đạo đức. Than ôi!/ Có<br />
đức, công mới lớn,/ Có người, đất mới linh./ Giữ nước, không cốt ở hiểm yếu,/ Giữ dân không cốt<br />
ở hùng binh [10].<br />
Cũng giống như Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn đều giúp việc đắc lực cho Lê Lợi trong thời<br />
gian kháng chiến. Đến khi nước nhà giải phóng, hai ông cũng như nhiều trí thức yêu nước khác<br />
đều phấn khởi tin tưởng rằng đất nước giờ có vua sáng tôi hiền, nhân dân sẽ được an cư lạc nghiệp,<br />
“đạo thánh” được sáng tỏ. Nguyễn Mộng Tuân nói lên hoài bão muốn cho dân được no ấm: Ca<br />
khúc gió nam để giúp đỡ/ Đưa dân ta lên cõi thọ giàu/ (Huân phong cầm phú) [10]. Thì Lý Tử Tấn<br />
lại nhấn mạnh cốt cách của kẻ đại sĩ phu trong đời thịnh. Trong các bài như Tảo mai phú, Quảng<br />
cư phú, Dục Nghi phú,. . . ông thường bàn về đạo nhân mà kẻ sĩ đại phu phải bảo vệ. Trong bài<br />
Quảng cư phú ông viết: Nào có biết đạo nhân đối với người,/ Không gì là không có, không phút<br />
nào khác đâu./ . . . / Lễ nhạc hình chính, không nhân là không vững,/ Giáo hóa mệnh lệnh, không<br />
nhân là là không truyền [7].<br />
Theo ông, kẻ đại sĩ phu có nhiệm vụ “lấy nhân dựng nước, lấy nhân trị dân”. Cùng trong<br />
bài phú về núi Chí Linh, bốn tác giả Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Trình Thuấn<br />
Du đều đề cao triết lí vì dân, nhờ có “thịnh đức”, “đại đức” của chủ tướng Lê Lợi nên đã tạo nên<br />
chiến thắng giặc Minh. Theo Nguyễn Trãi “thịnh đức” là ở chỗ “giữ vẹn nước là hơn, lo dân yên là<br />
trọng”. Theo Nguyễn Mộng Tuân, “đại đức” là ở chỗ “đưa nhân dân lên chăn ấm chiếu êm chẳng<br />
khổ, đặt nước nhà như đá bàn non Thái không lay”.<br />
Với lòng yêu mến người dân, Lý Tử Tấn luôn luôn tìm thấy niềm vui trong cuộc sống bình<br />
dị của nhân dân. Trong bài thơ Sơ thu (Đầu mùa thu) ông viết:<br />
Hòe thủ âm âm đạc phấn tường,<br />
Hà hoa niểu niểu phiến tân hương.<br />
Nhất phần thu sắc quân thiên sắc,<br />
Tứ cố sơn quang tiếp thủy quang.<br />
Tứ giải hàm hoàng sơ thướng đoạn,<br />
Hương duyên đái lục sảo thiêm nhương.<br />
Tôn tiền hữu tửu tu hành lạc,<br />
Mạc đãi đông ly cúc nhị hoàng<br />
<br />
(Cây hòe đo bóng trên tường phấn,<br />
Hoa sen dịu dàng phả hương thơm mới.<br />
Một phần sắc thu pha với sắc trời,<br />
Bốn bề ánh núi tiếp liền ánh nước.<br />
Cua đỏ tía ngậm gạch vàng đã chui vào rọ,<br />
Phật thủ thơm đượm màu xanh, dần dần thêm múi.<br />
Trong hồ có rượu hãy cứ vui uống,<br />
Chẳng cần đợi giậu đông nảy cúc vàng) [7].<br />
<br />
Phong vị yêu mến của quê hương và khuynh hướng tìm về cuộc sống bình dị, dân dã của<br />
nhân dân trong bài thơ của Lý Tử Tấn gợi cho ta những vần thơ của Nguyễn Trung Ngạn (thế kỉ<br />
XIV) về nhộng chín, cua béo, và rất giống với những vần thơ của Nguyễn Trãi về quả núc nác, giậu<br />
mồng tơi, bè rau muống, luống dọc mùng hay là của Nguyễn Bỉnh Khiêm (thế kỉ XVI) về canh cua<br />
rốc, măng trúc, giá đỗ,. . . Ở những nhà nho ẩn dật, tâm lí tìm về chỗ dựa trong nhân dân dường<br />
như đó cũng là niềm tự hào vì mình đã hiểu lẽ trời, tìm được an nhiên, thấy niềm vui cuộc sống.<br />
<br />
2.2.<br />
<br />
Đến tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi<br />
<br />
Nói đến Nguyễn Trãi là nói đến ngôi sao sáng nhất của bầu trời văn học lúc đương thời, ở<br />
Nguyễn Trãi, tư tưởng thân dân được biểu hiện một cách trung thành và mạnh mẽ nhất, tiến bộ<br />
50<br />
<br />
Tư tưởng thân dân trong văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn<br />
<br />
nhất. Nguyễn Trãi không chỉ thương dân, trọng dân mà còn ơn dân sâu nặng. Tấm lòng ưu quốc ái<br />
dân “Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông” của Nguyễn Trãi thể hiện trong toàn bộ sự nghiệp cứu<br />
quốc cũng như sự nghiệp văn học của ông. Chắc chắn rằng, Nguyễn Trãi mà chúng ta còn được<br />
đọc hôm nay chỉ là một phần trước tác của ông, tuy nhiên, ngay khi chỉ căn cứ vào số ít tác phẩm<br />
đó, chúng ta cũng có thể khẳng định rằng, so với tất cả các tác giả cầm bút lông trong lịch sử văn<br />
chương nước nhà, Nguyễn Trãi là người nói đến chữ “dân” nhiều lần nhất, ở nhiều tác phẩm khác<br />
nhau nhất, với những sắc thái ý nghĩa phong phú nhất. Ông nói đến chữ “dân” khi đi cùng Lê Lợi<br />
trong cuộc kháng chiến cũng như trong buổi đầu xây dựng vương triều, với tư cách là người phát<br />
ngôn của cuộc kháng chiến hay của vương triều đã đành, nhưng ông cũng nói đến chữ “dân”, trong<br />
những bài thơ bàn luận về lẽ thành bại của triều đại Hồ Quý Ly, và sau này, khi đã tạm về làm chí<br />
sĩ ở Côn Sơn, ông lại nói đến chữ “dân” khi bộc bạch nỗi lòng. Chữ “dân” đã đi cùng ông trong<br />
suốt những năm tháng của một cuộc đời chìm nổi, vĩ đại và thương đau. Ở đây, trong khuôn khổ<br />
bài viết, chúng tôi khảo sát tư tưởng thân dân chủ yếu ở trước tác của ông thời khởi khởi nghĩa<br />
Lam Sơn.<br />
Thơ văn của Nguyễn Trãi như một thứ vũ khí chiến đấu cho Tổ quốc, cho nhân dân. Quân<br />
trung từ mệnh tập vẫn thường được ca ngợi là tập văn chính luận có tính chiến đấu mạnh mẽ như<br />
mười vạn quân, nhưng tìm hiểu tác phẩm này ta còn thấy khi luận chiến với kẻ thù, Nguyễn Trãi<br />
luôn xuất phát từ tấm lòng thương xót muôn dân phải chịu cảnh đọa đày, dưới sự thống trị hà khắc<br />
của giặc Minh. Trên nhiều trang thư, nhà chí sĩ đã thảng thốt nói lên điều đó: “Phương Chính, Mã<br />
Kỳ chuyên làm hà ngược, sinh linh lầm than, thiên hạ ta oán, đào phần mộ ở ấp ta, bắt vợ con của<br />
dân ta, người sống bị hại, người chết ngậm oan. . . ” (Thư số 35). [9]. Nhiều lúc, nhà chí sĩ không<br />
trình bày mà nêu câu hỏi, nhằm xoáy vào tâm trí đối phương nỗi thống khổ của nhân dân: “. . . đại<br />
nhân là vị nguyên soái có văn học, há lại không biết muôn dân có tội gì mà lại nỡ để cho gặp tai<br />
họa lâu đến mãi trăm năm mà không dứt ư?” (Thư số 16) [9]. Là một người tham gia lãnh đạo<br />
phong trào kháng chiến, Nguyễn Trãi nói về sức mạnh nhân dân với tất cả lòng xót xa, tin tưởng.<br />
Ông lại vạch rõ rằng giặc sẽ thất bại và nghĩa quân Lam Sơn tất sẽ thắng lợi, vì một bên thì “hại<br />
dân”, một bên thì “yên dân”. Trong suốt tập văn luận chiến, tuy vẫn là lí lẽ, nhưng nó luôn luôn in<br />
đậm dấu ấn tâm hồn Ức Trai, nó nhẹ nhàng mà thấm vào từng chữ từng câu, làm cho câu văn trở<br />
nên thiết tha, nóng bỏng và ở đâu cũng nén kín một ước muốn cháy bỏng: đất nước được dứt cảnh<br />
đao binh, nhân dân được thái bình. Ông thường nêu cao sức mạnh của dân để răn đe kẻ địch ngoan<br />
cố. Sau này trong các tờ chiếu nhân danh nhà vua nói với thái tử và các quan lại, ông thường nhắc<br />
đến dân như là đối tượng phải quan tâm chăm sóc, như là sức mạnh phải biết coi trọng và dựa vào,<br />
phải ơn dân. Trong bài Hậu tự huấn để răn bảo thái tử, Nguyễn Trãi viết “Mến người có nhân là<br />
dân, Mà chở thuyền và lật thuyền cũng là dân” [7]. Cũng ý ấy lại được nhắc đến trong bài Quan<br />
hải: Phúc chu thủy tín dân do thủy (Làm lật thuyền, mới biết dân như nước).<br />
Trong bài thơ Nôm Bảo kính cảnh giới (bài 57), [7] ông viết: Đọc sách thời thông đòi nghĩa<br />
sách,/ Đem dân mựa nữa mất lòng dân.<br />
Trong bài thơ chữ Hán Mạn hứng, ông viết: Nụy ốc thê thân kham độ lão,/ Thượng sinh tại<br />
niệm độc tiên ưu (Nhà nhỏ, nương thân có thể qua tuổi già,/ Lúc nào cũng nghĩ đến dân, riêng ôm<br />
mối tiên ưu).<br />
Trong bài thơ chữ Nôm Trần tình (bài 1), [10] ông viết: Quốc phú, binh cường, chăng có<br />
chước/ Bằng tôi nào thừa ích chưng dân.<br />
Trong bài thơ chữ Hán Quan duyệt thủy trận, [10] ông viết: Thánh tâm dục dữ dân hưu tức,/<br />
Văn trị chung tu trí thái bình (Lòng vua muốn để dân yên nghỉ,/ Văn trị nên xây dựng thái bình).<br />
Thật rõ ràng, tư tưởng thân dân, trọng dân, tình cảm thương dân, ý chí vì dân là nội dung<br />
51<br />
<br />