intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tư vấn tâm lý căn bản - Nguyễn Thơ Sinh

Chia sẻ: Thach Kim Khanh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:320

506
lượt xem
157
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ebook Tư vấn tâm lý căn bản của tác giả Nguyên Thơ Sinh đề cập tới các vấn đề như: tư vấn tâm lý về sức khỏe tâm thần, các dạng bệnh lý, tư vấn hôn nhân và gia đình, tư vấn học đường, tư vấn nghề nghiệp, tư vấn tâm lý cho người bị ma túy,.... Ngoài ra sách giới thiệu tới bạn đọc nhưng kỹ năng tư vấn tâm lý như kỹ năng thuyết phục, kỹ năng đồng cảm, kỹ năng chia sẻ, kỹ năng hài hước,...và các nội dung khác. Mời các bạn tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tư vấn tâm lý căn bản - Nguyễn Thơ Sinh

  1. TƯ VẤN TÂM LÝ CĂN BẢN LỜI GIỚI THIỆU Tôi rất vui lòng viết lời giới thiệu cho cuốn sách TƯ VẤN TÂM LÝ CĂN  BẢN của Nguyễn Thơ Sinh. Tôi với Sinh quen nhau trên mạng điện tử: biết tôi  ở trong Hội Khoa học Tâm lý – Giáo dục Việt Nam (ở dưới gọi là Hội), Sinh gởi  email cho tôi; tôi nhận thấy anh quan tâm đến Tâm lý học và Giáo dục học  nước nhà và chúng tôi đã có nhiều cuộc trao đổi với nhau. Như vậy là cuộc  làm quen có chủ đích, chứ không phải ngẫu nhiên: hai người đều có lòng nhiệt  tâm với nền khoa học này của nước nhà. Cuối năm 2005 đầu năm 2006, Hội  có cuộc Hội thảo về Tư vấn tâm lý tổ chức ở thành phố Hồ Chí Minh. Tôi báo  tin này và mời Sinh về tham dự, anh nhận lời với cả một báo cáo Khoa học dài  đến hơn 20 trang giấy khổ A4. … Sau đó tôi bảo anh: Nếu đúng là vấn đề anh quan tâm, và nếu có  điều kiện, anh nên viết một cuốn sách về tư vấn tâm lý. Kết quả đến quá  nhanh, hôm nay mới giữa tháng 8 năm 2006, tức là trong có vài tháng, cuốn  sách đã viết xong, dày tới gần 300 trang. Theo tôi, đây là một cuốn sách đầu  tiên bằng tiếng Việt về tư vấn tâm lý. Tất nhiên, mới là đề cập đến những vấn  đề cơ bản. Nhưng cũng có thể nói ngay rằng chữ “cơ bản” ở đây không phải  chỉ là các vấn đề lý luận cơ bản mà phần lớn lại là các (hay một số) vấn đề  thực hành cơ bản ­ đúng là cái chúng ta đang cần, cần biết cả lý thuyết cơ bản  nhưng rất cần biết những điều chỉ dẫn tiến hành công việc tư vấn, từ mở đầu  đến kết thúc một cuộc (có thể nhiều buổi) tư vấn tâm lý.
  2. Thật vậy, các bạn thấy tác giả đã trình bày sự vận dụng một loạt học  thuyết (lý thuyết) tâm lý vào công việc tư vấn tâm lý: từ học thuyết Freud rồi  Anna   Freud   (con   gái   của   Freud);   thuyết   tâm   lý   học   phân   cách   của   Adler,  Roger, thuyết hiện sinh của May và Frankl trong tâm lý học; tiếp theo là tâm lý  học hành vi, tâm lý học hình thái, thuyết nhận thức trị liệu, thuyết hệ thống gia  đình của Bower, v.v. Phần nhiều các lí thuyết này đã được giới thiệu ở ta,  nhưng đều ở tâm lý học đại cương, lịch sử tâm lý học, nhập môn tâm lý học.  Còn ở đây mỗi thuyết chỉ trình bày rất tóm tắt, có khi chỉ trong vài dòng, phần  lớn dành nói về lý thuyết này tiến hành công việc tư vấn tâm lý như thế nào?  Cuốn sách này thật sự có ý nghĩa rất thiết thực cho những nhà tư vấn tâm lý,  và cả các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu tâm lý xem cũng rất bổ ích. Ý nghĩa thiết thực của cuốn sách còn được thể hiện rất rõ trong tất cả  các loại hình tư vấn tâm lý được đề cập ở trong sách, như tư vấn tâm lý về sức  khỏe tâm thần, các dạng bệnh lý, trong đó có Stress khác: các vấn đề này  ngày càng đi vào công nghiệp và hiện đại càng nảy sinh nhiều; tư vấn hôn  nhân mà hiện nay đang chiếm tỷ trọng hàng đầu trong các cuộc tư vấn tâm lý  ở ta; tư vấn gia đình cũng là một phạm vi ngày càng bức xúc hơn; tư vấn nghề  nghiệp, tư vấn học đường… là những lĩnh vực rất cần quan tâm và phải mau  chóng tăng cường. Các bạn còn thấy có cả tư vấn tâm lý cho người bị ma tuý  nên làm những gì. Đúng là những cái chúng ta đang cần. Trong tất cả các loại hình tư vấn tâm lí được đề cập trong cuốn sách  này đều nêu rất cụ thể các công việc mà người tư vấn phải làm. Tôi đặc biệt  thích thú với các mục giới thiệu kỹ năng tư vấn như:
  3. − Kỹ năng thuyết phục, − Kỹ năng đồng cảm, − Kỹ năng chia sẻ, − Kỹ năng kịp thời, − Kỹ năng hài hước, − Kỹ năng hợp đồng, v.v… Mặt khác, cuốn sách nói trong tư vấn tâm lý có 3 yếu tố quan trọng là:  (1) tính chuyên nghiệp, (2) sức thu hút thấp dẫn, (3) được hỏi tên. Công việc gì  đề cập trong sách đều đưa ra quy trình, từ làm một bản hợp đồng như thế  nào? cách giải quyết khó khăn, chẳng hạn như thấy người hỏi lưỡng lự khi  nghe tư vấn, cho đến việc đào tạo, tự đào tạo… đều nêu rõ quy trình: một, hai,  ba bốn… phải làm gì, rõ ràng, rành mạch. Tất nhiên, từ chỗ đọc đến chỗ hiểu,  tiếp thu và vận dụng… nhất là vào từng trường hợp cụ thể, còn nhiều chuyện  phức tạp đòi hỏi người tư vấn phải rất linh hoạt, uyển chuyển, sáng tạo… cho  đến việc chấm dứt cuộc tư vấn cũng vậy, cuốn sách cũng bày cách làm rất cụ  thể, rất chi tiết.  Đọc cuốn sách này, chúng ta còn có dịp làm quen với một số thông tin  về tư vấn tâm lý ở Mỹ, tuy còn sơ sài nhưng cũng thấy được chủ trương thúc  đẩy công tác này là phù hợp với yêu cầu đào tạo cán bộ tư vấn tâm lý ngày  càng cao, chúng ta còn thiếu quá nhiều, có lẽ tính đến nay từ mọi nguồn số  cán bộ này ở ta chỉ đếm được hàng chục (ở Mỹ đã lên đến hàng vạn và còn  phân ngành Tư vấn tâm lý chuyên sâu), như trong sách cho hay. Đặc biệt, 
  4. sách này còn cung cấp cho ta một vốn thuật ngữ Anh − Việt với khoảng 300 từ,  với khoảng cách rất cần cho những ai tư vấn tâm lý. Tóm lại, đây là một cuốn sách đọc rất dễ hiểu, cụ thể, nhiều điều có thể  đem áp dụng vào công việc rất thiết thực bổ ích. Nhân dịp này tôi nhiệt liệt chúc mừng và bày tỏ lời cảm ơn Thạc sĩ  Nguyễn Thơ Sinh đã có tác phẩm đóng góp xây dựng và phát triển khoa học  Tâm lý nước nhà, nhấn mạnh hướng ứng dụng, thực hành, phục vụ con người,  phục vụ xã hội. Chúc tác giả có những thành công mới trong nghiên cứu và hành nghề  Tâm lý học. Mong anh tiếp tục hợp tác nhiều hơn với các bạn đồng nghiệp  trong nước. Anh thật xứng đáng với câu “Tôi tự hào là người Việt Nam” mà anh  đã lấy câu đó làm tiêu đề trong máy điện tử của mình. Hà Nội 16.8.2006 GS.TSKH PHẠM MINH HẠC Chủ tịch Hội các khoa học Tâm lý − Giáo dục Việt Nam   PHẦN MỘT LỊCH SỬ NGÀNH TƯ VẤN VÀ NỀN TẢNG BAN ĐẦU Chương 1 LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ XU HƯỚNG CỦA NGÀNH TƯ VẤN
  5. 1. Dẫn nhập Tư vấn, không giống những ngành phục vụ sức khoẻ tâm thần khác ở  chỗ, tư vấn bao gồm chức năng giúp thân chủ phát triển khả năng thăng tiến  của bản thân và chức năng trị liệu ở mức độ rối loạn hệ thống tư duy. Tư vấn viên làm việc với cá nhân, nhóm, gia đình, hoặc những tổ chức  với những nan đề ngắn hạn và những nan đề lâu dài. Công tác tư vấn nhằm  vào mục tiêu giáo dục (education) mang tính năng phát triển đời sống lành  mạnh, ngăn ngừa tệ nạn và điều trị những rối  loạn do thiếu khung tư duy  trưởng thành, nên ngành này đã đóng một vai trò quan trọng tích cực với an  toàn và phát triển của xã hội. Tư vấn trong những bước khởi đầu lịch sử của ngành không có tổ chức  bài bản mà thường là những tập hợp rời rạc, thiếu đồng bộ. Theo thời gian,  ngành này không ngừng lớn mạnh và tự hoàn thiện thêm. Tuy thế, nhiều người  nhầm lẫn tư vấn với những loại hình giúp đỡ và hướng dẫn khác. Vì thế, tư vấn  là một công việc đã mang trong nó nhiều danh xưng và cả những hiểu lầm  không nhỏ, thành ra người trong nghề và cả dư luận xã hội vẫn có vài ngộ  nhận lẫn về chức năng công tác nghiệp vụ. Có chút kiến thức về lịch sử của ngành tư vấn sẽ giúp tư vấn viên hiểu  kỹ hơn về ngành nghề mà họ đảm trách. 2. Định nghĩa ngành Tư vấn Nói theo truyền thống, tư vấn viên – là người lắng nghe và giúp đỡ người  khác giải quyết một nan đề. Tuy nhiên, nhiều chức năng và danh xưng đã gây 
  6. nên những hiểu lầm khi danh từ tư vấn viên được gắn với những sản phẩm,  dịch vụ, dẫn đến những lẫn lộn vẫn thường nghe thấy như: tư vấn tài chính, tư  vấn hôn nhân, tư vấn tiêu dùng, tư vấn pháp luật, tư vấn du lịch, tư vấn mua  sắm… Tư   vấn,   tại   các   nước   phát   triển,   bắt   nguồn   từ   hệ   thống   hướng   dẫn,  (guidance systems) và ngược hẳn với tâm lý liệu pháp (psychotherapy). Đấy là  chuyện cũ. Hôm may, tư vấn gần như có mặt ở khắp nơi, được sử dụng trong  những trung tâm có chức năng lâm sàng và chức năng giáo dục sức khoẻ  công cộng, các trung tâm tư nhân và có sự hỗ trợ của Chính phủ, các hội  đoàn, các tổ chức kinh doanh có lãi, các trung tâm tôn giáo, hội từ thiện… Ngành này không chỉ chú trọng đến quá trình thăng tiến và phát triển lối  sống lành mạnh, mà còn góp phần trong trị liệu với sức khoẻ tâm thần. Để  hiểu rõ hơn về chức năng tư vấn, thiết nghĩ hiểu biết về hệ thống hướng dẫn  trong   nhà   trường   (guidance)   và   tâm   lý   liệu   pháp   (psychotherapy)   sẽ   giúp  chúng ta hiểu được về ngành tư vấn một cách sáng tỏ hơn. Hướng dẫn giáo dục trong học đường (Guidance): Là một quá trình  giúp đỡ người trẻ chọn ra một giải pháp thích hợp cho một vấn đề cần được  giải quyết bằng cách đề nghị những việc cần làm rất cụ thể. Tính thiết yếu này  đã đi vào hoạt động tư vấn qua ngả tìm ra quyết định cụ thể cho một vấn đề.  Tuy nhiên, cách giúp trong hướng dẫn rất khác với cách giúp trong tư vấn.  Điểm khác biệt căn bản ở đây: hướng dẫn cho lời khuyên, còn tư vấn chỉ mang  tính đề nghị và gợi ý một giải pháp cho thân chủ.
  7. Nói khác đi, hướng dẫn giúp người khác tìm ra một chọn lựa cụ thể thích  hợp bằng cách người được giúp đỡ sẽ nghe theo đề nghị của người khuyên.  Tư vấn, khác hơn và nhiệm vụ của nó là giúp thân chủ tạo ra một sự thay đổi  bằng chính khả năng của họ. Hướng   dẫn,   thường   gặp   trong   môi   trường   học   đường   (ở   các   nước  phương Tây phát triển), khi người trưởng thành làm công tác hướng dẫn, giúp  trẻ em chọn lựa giải pháp như chọn nghề, chọn môn học. Quan hệ giữa hai  bên là một quan hệ không đối xứng. Ở đây, người có kinh nghiệm sẽ truyền  đạt kinh nghiệm cho người thiếu kinh nghiệm. Rất giống như trường hợp vai trò  của cha mẹ, người lớn trong gia đình hướng dẫn con cái những việc cần phải  làm. Vì thế, hướng dẫn là một hình thái giúp đỡ không bao giờ cũ đi, nó cũng  không biến mất trong lịch sử phát triển văn minh của con người. Bất cứ ở lứa  tuổi nào, chúng ta cũng cần đến quá trình chọn giải pháp cho những nan đề.  Vì thế con người vẫn cần đến giúp đỡ. Từ lâu là ngành có xuất thân từ hướng  dẫn, nên nó chịu ảnh hưởng từ hướng dẫn rất nhiều. Giống như hướng dẫn  không bao giờ cũ đi, tư vấn trong bối cảnh hôm nay đáp ứng những nhu cầu  thiết yếu của mọi người cũng không bao giờ trở thành già cỗi. Tâm lý trị liệu (psychotherapy): Khác với tư vấn thông thường, tâm lý trị  liệu (còn gọi là tâm lý liệu pháp) được áp dụng với những trường hợp nghiêm  trọng hơn, liên quan đến những lĩnh vực nội tâm, xung đột tư duy, trạng thái  tâm thần, mà mục đích nhắm đến là chữa lành hoặc làm giảm nhẹ những rối  loạn thiên về thái cực lâm sàng.
  8. Tâm lý trị liệu tập trung nhiều vào những vấn đề nhức nhối của quá khứ,  những hành vi bệnh lý cần can thiệp bởi những phương pháp chữa trị như  thuốc men, chăm sóc y tế… Sự can thiệp của chuyên viên như bác sĩ là cần  thiết. Kỹ thuật chuyên môn của chuyên viên tâm lý trị liệu cao, song họ thường  không chú trọng nhiều đến việc tìm hiểu và khám phá cảm xúc, tư duy, và  hành vi của thân chủ ­ họ thường thiên về những triệu chứng (symptoms) của  thân chủ. Bác   sĩ   tâm   thần   học   (psychiatrist)   và   tâm   lý   gia   lâm   sàng   (clinical  psychologist) thường là những người có nhiều gắn bó với tâm lý trị liệu. Tuy nhiên, nhiều học thuyết trong tư vấn có nguồn gốc từ tâm lý học,  nên ứng dụng của chúng có thể được sử dụng cả trong môi tường tư vấn lẫn  môi trường tâm lý trị liệu. Hai tiêu chuẩn đặc trưng giúp phân biệt sự khác nhau giữa tư vấn và  tâm lý trị liệu là: 1. Thời gian kéo dài của quá trình giúp đỡ. Với tâm lý trị liệu, thời gian  kéo dài hơn (20 ­ 40 cuộc hẹn, xấp xỉ từ 6 tháng đến 2 năm), tập trung vào  việc thay đổi lại hệ thống tư duy, vốn dẫn đến những rối loạn cá tính. Tư vấn  cần ít thời gian hơn (8 đến 12 cuộc hẹn, dưới sáu tháng), tập trung vào quá  trình xử lý một vấn đề mang tính tức thời trong sinh hoạt. 2. Địa điểm: tâm lý trị liệu xảy ra trong điều kiện nội trú (ở bệnh viện có  đội ngũ y tá, (bác sĩ chuyên môn), và tư vấn là ở môi trường ngoại trú.
  9. Tư vấn  (counseling): Là một ngành chuyên môn vẫn đang gây những  bàn cãi về một định nghĩa chuẩn của nó. Tuy nhiên vài điểm sau đây sẽ giúp  cho trong quá trình tìm đến một định nghĩa đầy đủ, dựa theo Gladding (2000). ­ Tư vấn là một nghề chuyên nghiệp, đòi hỏi phải có đào tạo bài bản, có  trường lớp. ­ Tư vấn tập trung vào trợ giúp về vấn đề sống lành mạnh, thăng tiến  đời sống quan hệ cá nhân, nghề nghiệp, và những quan tâm thuộc lĩnh vực  bệnh lý tinh thần. ­ Tư vấn áp dụng với người có khả năng xử lý tốt và cả những người có  vấn đề về rồi loạn tâm thần dạng nhẹ. ­ Tư vấn phải dựa trên hệ thống lý thuyết về tư vấn. ­   Tư   vấn   là   một   quá   trình   phát   triển   trên   bình   diện   ngăn   ngừa  (prevention) và can thiệp (intervention). Tư vấn bao gồm nhiều chuyên môn (specialty) khác nhau để đáp ứng  nhu cầu đa dạng của thân chủ. 3. Lịch sử ngành Tư vấn Dựa vào lịch sử hiện có, ngành Tư vấn ở các nước phát triển là một  ngành tương đối trẻ. Trước những năm 1900, tư vấn chủ yếu là cho ý kiến, tập  trung vào việc cung cấp những phúc lợi nhân đạo căn bản cho những người  kém may mắn trong thời kỳ Cách mạng Công nghiệp (Industrial Revolution).
  10. Ban   đầu,   nó   được   dành   riêng   cho   người   trẻ,   liên   quan   đến   những  chương trình hướng nghiệp và những bài học đạo đức căn bản, như làm điều  đúng, sống tốt, tránh điều sai, xa lánh điều xấu. Tư vấn thời gian đầu chủ yếu  là cung cấp thông tin và hướng dẫn giáo dục. Cần biết, tư vấn và hoạt động của nó là một quá trình (process) bao  gồm những thao tác căn bản cần thiết, vì thế luôn có những thay đổi, tự điều  chỉnh, nhằm thích nghi với những yêu cần căn bản của đời sống xã hội vốn  luôn có những phát sinh biến chuyển không ngừng. Năm 19007, Jesse B. Davis là người đầu tiên thiết lập một cơ sở hướng  dẫn có hệ thống ở tiểu bang Michigan, Hoa Kỳ. Frank Parson, người cho xuất  bản cuốn Chọn Nghề (1909), một năm sau khi ông qua đời. Cứ thế, tư vấn từ  từ phát triển, trở thành một nghề có mặt khắp nơi, đóng góp những công việc  thầm lặng của mình, cống hiến cho xã hội những hy sinh âm thầm trong công  việc giúp đỡ những con người mệt mỏi và quá tải về mặt đời sống tinh thần. Riêng ở Việt Nam, chưa có một thông tin cụ thể nào về điểm khởi đầu  hoạt động chính thức của ngành Tư vấn. Lịch sử phát triển của ngành Tư vấn  ở Việt Nam chưa có một tài liệu nào công bố rõ ràng về từng bước, từng giai  đoạn. Ngày 18 tháng 2 năm 2006, Hội thảo khoa học quốc gia: Tư vấn tâm lý ­  giáo dục lý luận, thực tiễn và định hướng phát triển đã được tổ chức tại thành  phố Hồ Chí Minh. Đây có thể nói là một hoạt động tích cực, rất có ý nghĩa đối  với những yêu cầu cơ bản, rất bức xúc của đời sống xã hội hiện nay. Tất cả có 
  11. hơn 60 bài tham luận được gửi về đã trình bày rất nhiều ý kiến sôi động, phản  ánh được nhu cầu cấp bách của tư vấn trong bối cảnh bức tranh toàn cảnh. Dựa vào báo cáo của Hội thảo khoa học quốc gia (2006), tư vấn tâm lý ­  giáo dục đã được thực hiện trong nhiều năm gần đây, trên các địa bàn, đặc  biệt là ở các thành phố. (Đinh Phương Duy, 2006). Rồi con số các trung tâm tư  vấn cứ lớn dần lên và việc có một cuộc hội thảo cấp quốc gia như thế có thể  nói là một bước nhảy vọt rất đáng khích lệ. Một điều đáng chú ý, tư vấn (hay còn gọi là tư vấn tâm lý) là một ngành  phục vụ, đối tượng chủ yếu là con người trong bối cảnh phát triển của xã hội.  Ngành Tư vấn luôn có mặt, bám sát với những thay đổi và phát triển trên mọi  bình diện của tất cả những hoạt động của xã hội. Đơn cử, theo kết quả nghiên cứu của TS.Trần Thị Giồng, Th.S Đỗ Văn  Bình và 11 đồng nghiệp, ở thành phố Hồ Chí Minh (2003) có hơn 50 cơ sở tư  vấn tâm lý, hoạt động trên các lĩnh vực: Tình yêu ­ hôn nhân ­ gia đình, trẻ em  và cha mẹ trong gia đình, sức khỏe, HIV/AIDS, hướng nghiệp, trong đó hơn  60% do cơ quan Nhà nước hay ban ngành thành lập, phần còn lại do các hội,  tư nhân, tổ chức tôn giáo… Điều này đã phản ánh được một thực tế: nhu cầu  tư vấn là một nhu cầu rất thực của xã hội Việt Nam ta. Đây chỉ là một ví dụ lấy từ thực tiền được báo cáo. Còn chuyện tư vấn  ngoài luồng hoặc tư vấn nghiệp dư luôn tồn tại trong xã hội là điều tất yếu. Vì  tính chuyên môn cao của tư vấn, trong lúc điều kiện đào tạo đội ngũ tư vấn  chưa được phát triển ở Việt Nam, tình trạng tư vấn mạnh ai nấy làm tất nhiên  là khó tránh khỏi. Nhưng không mấy ai nhận thức được rằng, tư vấn nếu làm 
  12. sai, đôi khi gây hại nhiều hơn làm lợi, có thể gây ra những tác hại hệ lụy lâu  dài. TS Đinh Phương Duy (2006) đã nêu lên những câu hỏi nóng bỏng trong  hội thảo là: ­ Chuyên viên tư vấn và tham vấn có cần được đào tạo bài bản hay chỉ  cần có kinh nghiệm hay một tấm lòng vì người khác? ­ Có cần xây dựng một hệ thống lý luận riêng cho tư vấn, tham vấn tâm  lý ở Việt Nam? Đặc biệt với tổng kết của PGS, TS. Bùi Ngọc Oánh (2006), những vấn  đề được nêu ra đã tạo nên hướng suy nghĩ cho công tác tư vấn nước nhà: 1. Xây dựng lý luận về công tác tư vấn, khái niệm tư vấn, tham vấn, tâm  lý trị liệu… và sự phối hợp giữa các hình thức trên. 2. Quy trình cơ bản của một ca tư vấn. 3. Xây dựng các chương trình đào tạo chuyên viên tư vấn. ­ Xây dựng các quy định về hoạt động tư vấn. ­ Xây dựng các quy chế, quy định về việc thành lập các trung tâm tư  vấn. ­ Biên soạn các tài liệu, giáo trình, tài liệu về tư vấn. ­ Nghiên cứu việc quảng bá tuyên truyền cho hoạt động tư vấn. ­ Nghiên cứu việc định hướng, dự báo kế hoạch phát triển hoạt động tư  vấn trong tương lai, đặc biệt là tư vấn học đường.
  13. Cho đến nay, ở Việt Nam hiện vẫn chưa có hệ thống đào tạo và có  bằng cấp (mang tính đồng bộ) và cấp giấp phép trong lĩnh vực hoạt động tư  vấn. Điều này cũng dễ hiểu, nhất là khi so sánh với các nước âu Mỹ. Điển hình  như ở Hoa Kỳ, mãi đến những năm giữa thập ký 70 họ mới có hệ thống đào  tạo có bằng cấp hoạt động của tiểu bang. Virginia là tiểu bang đầu tiên (1976) bắt buộc phải có giấy phép hành  nghề tư vấn. Đến năm 1981, ở Hoa Kỳ mới chính thức có một hệ thống tiêu  chuẩn đào tạo chuyên viên tư vấn có bài bản. Điều này cho phép chúng ta lạc  quan khi nhận định rằng ở Việt Nam, vấn đề tổ chức và sắp xếp để tư vấn trở  thành một ngành chuyên nghiệp chỉ là vấn đề nhanh hay chậm của thời gian. 4. Những thử thách và xu hướng hiện thời của ngành Tư vấn Tư vấn là ngành không ngừng phát triển và tự điều chỉnh để phù hợp với  yêu cầu của xã hội. Hơn lúc nào hết, xã hội đang đối diện với những thay đổi  lớn lao, như tiến trình toàn cầu hóa, bùng nổ các dịch vụ tư nhân, sự tiến bộ  của khoa học kỹ thuật, đóng góp và ảnh hưởng của kỹ nghệ thông tin, đời  sống công nghiệp hóa, và cả những vấn đề đạo đức và nhân sinh quan nóng  bỏng khác của xã hội, vốn khó phán đoán trước, chẳng hạn như đô thị hóa,  dân số, sức khỏe, lương bổng, và những nhu cầu khác ngày càng cao của xã  hội… Theo GS, TS. Phạm Minh Hạc, Chủ tịch Hội Khoa học Tâm lý giáo dục  Việt Nam: “Giáo dục là phạm trù đi liền với lịch sử tồn tại và phát triển của loài  người, tâm lý nói riêng, tinh thần nói chung là tiêu chí đặc trưng của từng con 
  14. người và toàn nhân loại. Ngày nay, nhất là mấy thập kỷ cuối thế kỷ trước giáo  dục và tâm lí con người được coi là hạ tầng xã hội ­ hai yếu tố cực kỳ quan  trọng góp phần tạo nên sự tiến bộ xã hội”. Như thế, đội ngũ tư vấn viên có thể nói đã nhìn ra được vai trò của mình  trong công cuộc xây dựng đất nước và xã hội. Nhất là khi GS, TS Phạm Minh  Hạc vạch ra: "Tư vấn tâm lý ­ giáo dục ở nước ta có sứ mệnh vẻ vang là động  viên mọi người và toàn xã hội, tạo nên một vốn xã hội ­ vốn người tốt cùng  nhau đoàn kết, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định xã hội, góp phần tiếp tục đổi  mới đất nước, tạo dựng nên một đất nước độc lập, phồn vinh, mọi người được  hưởng các quyền của con người, của mọi công dân." 5. Kết luận Với trách nhiệm của một tư vấn viên; chúng ta, những con người góp  phần sức lực khiêm tốn của mình nhưng rất có ý nghĩa với xã hội. Chỉ khi tìm  được ý nghĩa cao cả của công việc hàng ngày mà mình đang tìm, tư vấn vấn  mới có thể bám trụ được với nghề thầm lặng đầy khó khăn này. Hy vọng mỗi  chúng ta sẽ làm tốt, làm đúng, để xã hội càng ngày càng thêm tin tưởng nhiều  hơn vào đóng góp và tinh thần phục vụ của chúng ta ­ qua chất lượng huy  chương vàng của nghiệp vụ tư vấn với xã hội. Xã hội luôn luôn có những vấn đề đặc trưng muôn thuở. Con người là  một sinh thể có liên đới mật thiết trong bức tranh tổng thể quan hệ trong xã  hội. Không ai sống một mình được. Hành vi của một người luôn có ảnh hưởng 
  15. đến người khác. Tất nhiên hành vi tiêu cực sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực. Hành vi  là kết quả của tư duy và cảm xúc. Tư vấn viên là người giúp đỡ thân chủ tìm ra chìa khóa trong ứng xử  lành mạnh, tìm đến những hành vi lành mạnh nhất. Chúng ta được mời gọi  vào tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, trong nghiệp vụ tư vấn của mình,  ở một thời điểm đất nước đang đối diện với những thay đổi rất lớn trong bức  tranh toàn cảnh của xã hội toàn cầu. Chương 2 MÔ HÌNH CỦA MỘT TƯ VẤN VIÊN LÀM VlỆC CÓ HIỆU QUẢ   Dẫn nhập Trong tư vấn, yếu tố thành công và chất lượng của quá trình trợ giúp  nằm ở nơi bản thân tư vấn viên là việc rất lớn. Nói khác đi, không có một tư  vấn viên làm việc có hiệu quả, có trách nhiệm, dịch vụ tư vấn sẽ chẳng đem  lại bất cứ một tiến bộ khả quan nào. Không chỉ hạn chế tác dụng hữu ích của tư vấn, một tư vấn viên yếu  nghiệp vụ có thể sẽ gây ra những tác hại nghiêm trọng, về lâu dài cho thân  chủ. Vì thế với người muốn bước vào nghề tư vấn cần suy nghĩ xem nghề này  có thật sự là chọn lựa đúng đắn cho mình? Riêng với những tư vấn viên đã  bước vào nghề, việc duy trì để giữ mình mãi là một tư vấn viên có hiệu quả là  một trong những sứ mệnh đòi hỏi của nghề.
  16. Để trở thành một tư vấn viên tốt, thiết nghĩ mình phải rõ ràng với bản  thân của mình. Theo TS. Trần Thị Giồng (2006): “Chúng ta không thể cho  những gì mình không có”. Cũng thế, tư vấn viên không thể giúp cho thân chủ  một cách có hiệu quả nếu họ không chuẩn bị và được đào tạo cẩn thận. 1. Nhân cách và vốn sống của một tư vấn viên Tư vấn là một nghề đòi hỏi phải thành tâm và có tấm lòng cao cả. Nó  thu hút những tâm hồn biết quan tâm, tâm tình cởi mở, thân thiện và nhạy cảm  với nhu cầu giúp đỡ con người. (Myrick, 1997). Tuy nhiên động cơ và duyên  may đến với nghề này của nhiều tư vấn viên đang hành nghề trong xã hội rất  khác nhau. Những ai muốn gắn bó cuộc đời mình với công tác tư vấn phải tự  hỏi nếu họ có đủ tố chất và đam mê; đủ vững mạnh để đối diện với thử thách  rất thực tế của nghề này. Tóm lại, để trở thành một tư vấn viên tốt, những yêu cầu sau đây thường  được nhắc đến, theo Gladding (2000): ­ Nhân cách và vốn sống. ­ Giáo dục căn bản của tư vấn viên. ­ Học thuyết áp dụng và kiến thức về hệ thống tư duy được sử dụng  trong công tác tư vấn. ­ Khả năng tham gia vào những hoạt động liên quan đến công tác tư  vấn (như tham gia hội thảo, diễn đàn, là ủng hộ viên đắc lực cho ngành, tham 
  17. gia đào tạo thế hệ tư vấn viên mới, và không ngừng tiếp tục bồi dưỡng kiến  thức nghiệp vụ) ­ không ngừng tiếp tục học hỏi. Theo Carkhuff (1969) tư vấn viên và quá trình tư vấn có ảnh hưởng  mạnh mẽ đến một cá nhân, vì thế nếu tư vấn không hiệu quả, tất sẽ có ảnh  hưởng tai hại lâu dài đến thân chủ. Gladding (2000) đã nói đến nhân cách của một tư vấn viên. Theo ông,  chúng ta nên nhắm đến những tiêu chí căn bản từ một tư vấn viên: (1) Trưởng  thành (2) Biết thông cảm (3) Cởi mở (4) Thành thực (5) Điềm đạm, không dễ  nổi nóng. Tất  nhiên  không  phải  ai  cũng  có  những  đức  tính  này.  Vì thế  tư vấn  không phải là nghề giành cho tất cả mọi người. 2. Những động cơ tiêu cực lôi kéo người ta vào nghề Tư vấn Nhiều người muốn trở thành tư vấn viên với động cơ không lành mạnh.  Họ không hẳn là người xấu, tuy nhiên quyết định đi vào nghề của họ có ảnh  hưởng tiêu cực đến thân chủ và xã hội. Witmer và Young (1996) nêu ra những  động cơ tiêu cực hoặc sai lệch của một tư vấn viên đã mắc phải trong quá  trình muốn trở thành một tư vấn viên: ­ Có vấn đề trục trặc về mặt tình cảm. Khi họ có những khúc mắc tình  cảm chưa được giải quyết từ thời thơ ấu hay trong quá khứ. ­ Họ cô đơn và sống thiếu liên đới với xã hội. Họ không có bạn bè và  thường mượn quá trình tư vấn như một thay thế cho nhu cầu có bạn bè.
  18. ­ Tham vọng có quyền lực. Họ là người không thành công trong cuộc  sống (không nhất thiết phải chỉ có nhiều tiền mới là có thành công), vì thế họ  mong được kiểm soát người khác. ­ Có nhu cầu tình yêu. Họ là những người quá yêu bản thân, có thái độ  tự hào thái quá, tin tưởng rằng mọi khó khăn đều có thể giải quyết được bằng  tình yêu và do chính khả năng của họ. Đây là hội chứng muốn mình là anh  hùng cứu vớt được cả thế giới. ­ Họ có thái độ vùng vằng, muốn chống đối cuộc đời một cách gián tiếp.  Họ là người có vấn đề về quan hệ cá nhân nào đó, giải quyết không thoả  đáng, nay muốn đem ra để áp đặt lên thân chủ trong quá trình tư vấn. ­ Tìm đến sự an nhàn. Họ nghĩ rằng nghề tư vấn là nghề chỉ ngồi văn  phòng nói chuyện và đếm tiền. ­ Tìm danh vọng. Họ tin rằng, làm nghề Tư vấn được xếp vào một danh  mục nghề nghiệp quan trọng, cao quý, lịch sự. Hiểu sai như thế sẽ hoàn toàn thất hại. Đơn giản vì trở thành tư vấn nên  sẽ không đáp ứng được những khát khao của họ như vừa nêu trên. Trái lại, tác  hại của sự thất vọng sẽ trở thành chất độc, phá huỷ cuộc sống chỉ vì họ có  chọn lựa sai lầm. Vì thế, tư vấn cần được coi như là một tiếng gọi (calling)  nhiều hơn là một hứa hẹn vật chất, địa vị, hay cho những phần thưởng tinh  thần, xã hội. Trước khi quyết định chọn vào nghề Tư vấn, nhiều bạn trẻ đã băn khoăn  nếu như mình có đủ những điều kiện tố chất để vào nghề. Thật khó xác định  cụ thể được điều này. Song, một điều căn bản là bạn có đặt tiêu chí muốn 
  19. giúp người khác làm tiêu chí hàng đầu hay không? Nếu bạn chọn nó vì nghề  này cũng hay hay, lúc ấy bạn nên cân nhắc kỹ hơn. Con người luôn phát triển qua kinh nghiệm sống nên tư duy thay đổi là  lẽ tất nhiên. Không hẳn là nhân cách (personality) của chúng ta là bất biến.  Nhân quan (personal view) và quan niệm về quan hệ giữa người với người sẽ  thay đổi khi chúng ta sống nhiều hơn. Tuy nhiên, nhân tố bẩm sinh muốn giúp  người vẫn là điều đáng quý nhất. Nếu hiểu ở một góc cạnh trong tinh thần nhân văn, chúng ta có thể tin  rằng cụ Nguyễn Du đã rất có lý khi nêu lên quan điểm của ông: Chữ tâm kia  mới bằng ba chữ tài (Truyện Kiều). Nói thế, ta đủ thấy tầm quan trọng của ý  nghĩa nhân văn trong nghề tư vấn. Dưới đây là những đặc tính cần có của một tư vấn viên hiệu quả, dựa  theo Foster (1996) và Guy (1987): ­ Hiếu kỳ (curiosity and inquisitiveness): bộc lộ tinh thần quan tâm một  cách tự nhiên đối với người khác. ­ Khả năng biết lắng nghe (ability to listen): biết tập trung theo dõi một  cách sát sao, chú ý đến người khác. Đây là một vốn quý hết sức cần thiết, vì  nó kích thích thân chủ trong việc tham gia tích cực vào quá trình tư vấn. Thân  chủ sẽ chán nản khi tư vấn viên không có khả năng lắng nghe tốt. ­ Tự nhiên với đối thoại (comfort with conversation): khả năng tạo sự cởi  mở thoải mái, giúp thân chủ tự tin và giảm thiểu căng thẳng vốn ảnh hưởng  đến chất lượng tư vấn.
  20. ­ Đồng cảm và hiểu biết (empathy and understanding): khả năng liên hệ  mình vào hoàn cảnh của người khác, ngay cả chuyện thân chủ là người khác  phái, khác văn hóa, khác biệt về điều kiện sống, hoàn cảnh sống. ­ Hiểu biết về tình cảm (emotional insightfulness): khả năng kiềm chế  bản thân, có thể đối diện một cách tự tin với những mức độ cảm xúc khác  nhau từ quá trình tư vấn, trưởng thành vững vàng về mặt cảm xúc. ­ Phản tỉnh táo nội tâm (introspection): khả năng tĩnh tâm để tự đánh giá  bản thân, suy xét nội tâm, từ đó có thể tự phục thiện, hoàn thiện bản thân. ­ Khả năng biết quên mình (capacity for self­denial): nghĩ đến lợi ích của  người khác trước, ngay cả trường hợp lợi ích người khác ảnh hưởng đến lợi ích  của bản thân mình. ­ Không sa ngã trong tình cảm (tolerance of intimacy): khả năng kiềm  chế trong khi tư vấn với thân chủ khác phái, tránh những cảm xúc thiên về  nhục thể thiếu lành mạnh. ­ An tâm với năng lực của thân chủ (comfort with power): khả năng chấp  nhận năng lực của thân chủ ở một giới hạn nào đó khi không tiếp cận trực tiếp.  Tư vấn viên sẽ không lạm dụng vị trí của mình để lấn lướt, chỉ thị, hướng dẫn  sai lệch. ­ Khả năng biết cười (ability to laugh): cần có tính khôi hài trong những  huống trạng éo le của cuộc sống, biết lạc quan và không quá gò bó. Ứng dụng  tính khôi hài để giảm căng thẳng và khơi dậy tinh thần lạc quan trong cuộc  sống.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2