intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TƯỢNG CỔ Ở VIỆT NAM

Chia sẻ: Trần Ngọc Sang | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:214

213
lượt xem
64
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tượng cổ Việt Nam trong tiến trình lịch sử Chương 1 .- Tượng của người Việt Cổ Chương 2 .- Tượng của giai đoạn đầu kỷ nguyên độc lập (Thời Lý Trần ---Thế kỷ XI - XIV) Tượng Phật Tượng Kim Cương Tượng Hộ Pháp chùa Phật Tích Tượng người chim Tượng Tổ Tượng Quan Hầu Tượng những con thú huyền thoại Một số tượng con thú có thật Tập 2 Chương 3 .- Các tượng tiêu biểu của thời kỳ độc lập lần thứ 2 (thời Lê sơ đến Nguyễn -.Thế kỷ XV-XIX) Tình hình chung của xã hội...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TƯỢNG CỔ Ở VIỆT NAM

  1. MỤC LỤC Tập 1 Vài nét về tác giả. Phần khai mở. Nghệ thuật tạo tượng là cốt lõi của nghệ thuật tạo hình cổ Việt Nam
  2. Phần 1. Tượng cổ Việt Nam trong tiến trình lịch sử Chương 1 .- Tượng của người Việt Cổ Chương 2 .- Tượng của giai đoạn đầu kỷ nguyên độc lập (Thời Lý Trần ---Thế kỷ XI - XIV) Tượng Phật Tượng Kim Cương Tượng Hộ Pháp chùa Phật Tích Tượng người chim Tượng Tổ Tượng Quan Hầu Tượng những con thú huyền thoại Một số tượng con thú có thật Tập 2 Chương 3 .- Các tượng tiêu biểu của thời kỳ độc lập lần thứ 2 (thời Lê sơ đến Nguyễn -
  3. Thế kỷ XV-XIX) Tình hình chung của xã hội Một số tác phẩm Tập 3 Phần II Một số vấn đề của tượng cổ Việt Nam Chương 4. - Môi trường tồn tại của tượng cổ Việt Nam Hoàn cảnh tự nhiên và xã hội Chùa làng - nơi quy tụ tượng cổ Đền thần với tượng anh hùng Lăng mộ với tượng ngoài trời Chương 5 .- Nghệ thuật tạo tượng Cách tạc tượng của cha ông xưa Một số quy cách về tạo tượng Phật Sơn thếp tượng Chương 6 .- Phân loại tượng cổ Phân loại theo chất liệu Phân loại theo đề tài
  4. Phân loại theo phong cách Tượng cổ Việt Nam trong mối quan hệ giao lưu với nghệ thuật láng giềng Kết luận Phụ lục + Nguyên bản sách "Tạo Tượng lượng đạc kinh diễn âm" Tài liệu tham khảo TẬP 1 VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ Tên thật: Chu Quang Trứ Tiến sĩ (Tđ) - Phó Giáo sư Sinh năm 1941 tại Tân Hồng, Từ Sơn, Bắc Ninh. Bút danh: Phương Anh, Anh Trứ,
  5. Tân Hồng... Địa chỉ: 9 - B22 - Nam Thành Công - Hà Nội Điện thoại: 8. 356564 Đã xuất bản: - Di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam. NXB Thuận Hóa, 1996. - NXB Mỹ thuật 2000. - Kiến trúc dân gian truyền thống Việt Nam NXB Mỹ thuật 1996. - NXB Mỹ thuật, 1999. - Tìm hiểu nghề thủ công điêu khắc cổ truyền Việt Nam, NXB Thuật Hóa, 1997 - NXB Mỹ thuật, 2000. - Văn hóa - Mỹ thuật Huế, NXB Thuận hóa, 1998 - NXB Mỹ thuật, 2000.
  6. - Mỹ thuật Lý Trần, mỹ thuật Phật giáo, NXB Thuận Hóa, 1998 nxb Mỹ thuật 2000. - Chùa Tây Phương, NXb Mỹ thuật, 1998. - Tượng cổ Việt Nam với truyền thống điêu khắc dân tộc - NXB Mỹ thuật, 2000. - Sáng giá chùa xưa, mỹ thuật Phật giáo . - NXB Mỹ thuật, 2000. - Văn hóa dân gian ở Gia Đông(Bắc Ninh) - NXB Mỹ thuật, 2000. Cùng viết với các tác giả khác - Hà Bắc ngàn năm văn hiến (3 tập), Sở VH Hà Bắc, 1973-1976. - Mỹ thuật thời Lý, Nhà XB văn hóa , 1973. - Tính dân tộc trong nghệ thuật tạo hình
  7. Việt Nam , NXb Văn hóa, 1973. - Nghệ thuật chạm khắc cổ Việt Nam, Viện nghệ thuật, 1975. - Mỹ thuật thời Trần, NXB văn hóa , 1997. - Mỹ thuật thời Lê sơ, NXB văn hóa, 1978. - Nông thôn Việt Nam trong lịch sử (TH), NXB Khoa học và xã hội, 1978 - Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý Trần, NXB khoa học và xã hội, 1980 - Tranh dân gian Việt Nam, NXB văn hóa, 1984. -Những vấn đề nghệ thuật tạo hình 1984, Viện Mỹ thuật - Hội NSTHVN, 1985. - Những vấn đề nghệ thuật tạo hình 1985, Viện Mỹ thuật - Hội NSTHVN, 1986. - Hà Sơn Bình di tích và danh thắng, Sở
  8. văn hóa Thông tin Hà Sơn Bình, 1985. - Địa chí Hà Bắc, Sở VH Hà Bắc, 1986. - Lịch sử Hà Bắc, hội đồng sử học Hà Bắc, 1986. - Đại chí văn hóa dân gian Thăng Long Đông Đô Hà Nội , Sở VHTT Hà Nội, 1986. - Mỹ thuật ứng dụng, Viện Mỹ thuật 1986 - Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung, NXB Văn hóa , 1987. - Phật giáo và văn hóa dân tộc, Phân viện nghiên cứu phật học 1989. - Trò chơi xưa và nay NXb Thể dục thể thao, 1989. - Hội hè Việt Nam , NXB văn hóa dân tộc, 1990. - Huế ngàn năm văn vật, Viện văn hóa
  9. nghệ thuật - Công ty QLDL, Huế, 1990. - Mỹ thuật Huế, Viện Mỹ thuật - Trung tâm quản lý DL Huế, 1992. - Những vấn đề văn hóa xã hội thời Nguyễn, NXB Khoa học xã hôi, 1991 - Lược sử võ cổ truyền Việt Nam, NXB Thể dục Thể thao, 1991 - Trò chơi trẻ em, NXb Thể dục thể thao, 1991 - Đô thị cổ Hội An, NXb Khoa học xã hội, 1991. - Đô thị cổ Hội An (tiếng Anh), NXB Thế giới, 1992 - Di sản văn hóa dân gian ... Hội văn nghệ dân gian Việt Nam 1992 - Ai lên quán dốc chợ Giàu, NXB Văn học, 1992. - Nghiên cứu Mỹ thuật, Viện mỹ thuật, 1992
  10. - Tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh, Viện Mỹ thuật, 1992 - Văn hóa vì con người, NXb Văn hóa - Tạp chí văn hóa nghệ thuật, 1993 - Tìm về bản sắc dân tộc của văn hóa, Tạp chí văn hóa nghệ thuật, 1993 - Từ điển văn hóa Việt Nam, NXb Văn hóa, 1993 - Phố Hiến, Sở Văn hóa Thông tin Hải hưng, 1994 - Phố Hiến(tiếng Anh), NXb Thế giới, 1994 - Lễ hội Hà Tây, Sở VHTT Hà Tây, 1995. - Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam, NXB Thế giới, 1995 - Nhà Trịnh và chúa Trịnh, ban nghiên cứu và ban biên soạn lịch sử Thanh Hóa, 1995
  11. - Lịch sử Mỹ thuật và mỹ thuật học, NXB giáo dục, 1998. - Văn hóa và lịch sử người Thái ở Việt Nam , NXB Văn hóa Dân tộc, 1998 - Bước đầu tìm hiểu sự tiếp xúc và giáo lưu văn học Việt - Hoa trong lịch sử, NXB Thế giới, 1998 - Tạp chí hán Nôm: 100 bài tuyển chọn. Viện Nghiên cứu Hán nôm, 2000 - Văn hóa Thăng long, Hà Nội: Hội tụ và tỏa sáng, NXB Chính trị Quốc gia, 2000 Hơn 400 luận văn khoa học công bố trên các tạp chí: Nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học, Dân tộc học, văn hóa nghệ thuật, Nghiên cứu Mỹ thuật, Mỹ thuật, Nghiên cứu phật học, Tập văn giáo hội phật giáo Việt Nam, văn hóa dân gian, Văn hóa dân
  12. gian, Kiến trúc, kiến trúc Việt Nam, Tác phẩm mới, mỹ thuật thời nay, Viện bảo tàng mỹ thuật, Viet Nam sosial sciences, Nghiên cứu giáo dục, Hán Nôm,Công tác tư tưởng văn hóa, Etudes Vietnammiennes, Mỹ thuật Công nghiệp, Huế xưa và nay, Tem, Việt Nam - Đông Nam á ngày nay... Các báo: Nhân dân, Quân đội Nhân dân, văn nghệ, Thống nhất, Tổ quốc, Khoa học và Tổ quốc, Văn nghệ Dân tộc và miền núi, Văn hóa, địa chính,... PHẦN KHAI MỞ Nghệ thuật tạo tượng là cốt lõi của nghệ thuật tạo hình cổ Việt Nam Đến bất cứ một làng quê nào của người
  13. Việt nhất là ở đồng bằng Bắc Bộ, chúng ta đều dễ dàng nhận ra bộ mặt văn hóa vật thể của nó là các kiến trúc chùa và đình, nhiều nơi còn có đền, miếu, lăng mộ. Đó là những di tích có tính tín ngưỡng và tôn giáo, là chỗ dựa tâm linh của dân làng, thậm chí của cả vùng. Xã hội luôn biến động, qua các giai đoạn lịch sử cổ đại, trung đại, cận đại và hiện đại, những thay đổi kinh tế- xã hội ở các điểm nút luôn đạt bước tiến thần kỳ, trong đó tốc độ phát triển ở thời đại chúng ta đạt đến sự chóng mặt, nhưng trên hình thái ý thức tư tưởng lại có sự kết đọng những giá trị tinh thần để trở thành truyền thống, trong đó gắn với di tích văn hóa và giúp cho di tích văn hóa vừa là di sản của hôm qua vừa là tài sản của hôm nay, luôn sống động với thời đại chính là các hoạt động lễ và hội. Lễ có
  14. thiêng, hội có vui là nhờ sự cộng cảm của cả cộng đồng với lịch sử. Người ta thắp hương và tâm niệm trước Tổ tiên, Thánh, Thần, Phật, Mẫu và những nhân vật giúp việc chuyển tải siêu lực của các vị. Những lực lượng siêu nhiên ấy có khi được hình dung qua bài vị, đôi khi qua tranh vẽ, nhưng phổ biến là qua tượng thờ. Tượng thờ có rất nhiều ở các chùa. Mỗi ngôi chùa được xem như một bảo tàng điêu khắc cổ truyền thông thường có dăm chục pho, nhiều như chùa Mía (Sùng Nghiêm Tự - Hà Tây) có tới gần 300 pho. Các pho tượng trong một chùa thường thuộc nhiều thời, nhất là từ thời Mạc đến thời Nguyễn, thậm chí ngày nay vẫn được bổ sung. Đó là một kho báu, toàn hiện vật gốc, thực sự chứa đựng tài hoa của cha
  15. ông. Có những chùa như chùa Tây Phương (Sùng Phúc Tự- Hà Tây) có cả một hệ thống tượng trên Phật điện đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật tạc tượng chẳng những của Việt Nam mà của cả thế giới, làm kinh ngạc cả những người sành nghệ thuật nhất. Bên cạnh chùa, nhiều đền thờ các anh hùng dân tộc và các nhân vật lịch sử như Thánh Gióng, Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, vua Đinh Tiên Hoàng, vua Lê Đại Hành, Trần Hưng Đạo ... và nhiều nhân vật ít tiếng tăm hơn như các con của vua Đinh, vợ con vua Lê và một số đại thần cũng được tạc tượng thờ. Nếu tượng ở chùa thường do dân làng tổ chức làm thì nhiều tượng ở các đền loại trên thường do triều đình đứng ra tổ chức tạc.
  16. Nhiều quý tộc cỡ lớn là những ông hoàng, bà chúa - cung tần, công chúa, quận chúa có thể xem là cái gạch nối giữa triều đình với dân làng, giữa Vương quyền và Thần quyền đã xin nhà nước xuất công quỹ cùng với tiền của riêng cúng vào việc xây dựng chùa to cảnh đẹp, sau đó cũng được tạc tượng thờ ở một số chùa, điển hình là các bà hoàng thái hậu Vũ thị Ngọc Toản nhà Mạc và Trịnh thị Ngọc Trúc nhà Lê. Không chỉ quý tộc cấp cao, nhiều quan lại - nhất là các quận công từng giữ các trọng trách về quân sự hay dân sự, đồng thời lại là những thái giám, tổng thái giám, sau khi tích lũy được khá nhiều của cải nhưng không có con cháu trực hệ, đã làm nhiều việc công đức cho quê hương, hoặc được dân làng bầu làm Hậu Thần, Hậu Phật có
  17. khi tạc tượng thờ, hoặc xây cất lăng mộ riêng cũng có những hàng tượng người và tượng thú phục vụ. Đặc biệt với tục bầu Hậu với ý nghĩa tạo sự trường tồn, gắn bó lâu dài với mai sau, nhiều người không có con trai nối dõi tông đường, thì bản thân hoặc con gái "có máu mặt" một chút cũng thường mua Hậu, có thể tạc tượng để dân làng thờ. Như vậy ngay cả những người bình dân cũng có thể được đi vào nghệ thụật tượng tròn. Chùa thì thường phải có sư tăng là những người chăm sóc phần hồn cho các phật tử, do đó các vị cao tăng trở thành tổ chùa, khi mất chẳng những được các Phật tử xây tháp mộ, mà phần nhiều còn được tạc tượng thờ trong nhà Tổ. Đây là những
  18. tượng người thực việc thực, tạc khi còn sống hay mới mất, do đó có nhiều giá trị của loại tượng chân dung. Thật ra tượng cổ còn nhiều nhóm và ở trong nhiều loại hình di tích nữa. Tất cả đều khẳng định sự phong phú và đa dạng của mảng nghệ thuật này, nó phổ biến trong không gian và quán xuyến trong thời gian, gắn với cá nhân từ bình dân đến quý tộc và gắn với cả nhà nước nữa. Trong kho tàng tượng cổ vô cùng phong phú ấy, rất hiếm tượng có ghi tên tác giả, hầu như đều là tượng khuyết danh, là sản phẩm của các hiệp thợ cũng không rõ tên, có thể tìm ra dấu ấn thời đại để xác định niên đại tương đối chứ không thể tìm ra phong cách tác giả, lại do không có một quy pháp tạo tượng cụ thể, tất cả đều thuộc dòng chảy
  19. nghệ thuật dân gian nhưng nhiều tác phẩm đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật tạo tượng. Tượng cổ còn đến nay là đã vượt qua được sự phá hủy của con người và của thiên nhiên. Nếu con người chủ tâm phá thì dù làm bằng chất liệu nào cũng sẽ bị hủy hoại, nhưng nó chỉ xảy ra trong những trường hợp đặc biệt, có tính tiêu cực của lịch sử. Đất nước trải qua nhiều lần chiến tranh, cả ngoại xâm và nội chiến, nặng nề nhất là hơn nghìn năm Bắc thuộc và hai mươi năm nhà Minh đô hộ đã chủ trương phá hủy triệt để văn hóa Việt Nam, gây tổn thất lớn lao cho điêu khắc. Trong thời chúng ta bom đạn của đế quốc Mỹ đã hủy diệt rất nhiều di tích cổ, trong đó làm biến mất hoàn toàn cả khu đền tháp Chăm-pa ở
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2