intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TƯỢNG GỖ TẠC BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM, ĐẠI THẾ CHÍ CÙNG PHẬT ADIĐÀ TRONG KHO TÀNG BIỂU TƯỢNG TÔN GIÁO VIỆT NAM

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

131
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đạo Phật là đạo tu để giải thoát, quan niệm sắc sắc, không không (hư hư, thực thực - không thực mà thực - thực mà không thực). Đã được các nghệ nhân, nghệ sĩ tạo hình Việt Nam sáng tạo lấy cái thực và hư, chân và ảo, tục và thiêng để diễn tả cái sắc sắc không không ấy. Đây là một sự sáng tạo bắt nhịp, thật là vi diệu trong việc đạo và việc đời của các thế hệ nghệ sĩ tạo hình chúng ta. Hình dáng, kích thước và sự thờ phụng các pho...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TƯỢNG GỖ TẠC BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM, ĐẠI THẾ CHÍ CÙNG PHẬT ADIĐÀ TRONG KHO TÀNG BIỂU TƯỢNG TÔN GIÁO VIỆT NAM

  1. TƯỢNG GỖ TẠC BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM, ĐẠI THẾ CHÍ CÙNG PHẬT ADIĐÀ TRONG KHO TÀNG BIỂU TƯỢNG TÔN GIÁO VIỆT NAM TƯỢNG QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT-đứng (Chùa Bà Đá-Hà Nội)
  2. Đạo Phật là đạo tu để giải thoát, quan niệm sắc sắc, không không (hư hư, thực thực - không thực mà thực - thực mà không thực). Đã được các nghệ nhân, nghệ sĩ tạo hình Việt Nam sáng tạo lấy cái thực và hư, chân và ảo, tục và thiêng để diễn tả cái sắc sắc không không ấy. Đây là một sự sáng tạo bắt nhịp, thật là vi diệu trong việc đạo và việc đời của các thế hệ nghệ sĩ tạo hình chúng ta. Hình dáng, kích thước và sự thờ phụng các pho tượng trong các ngôi chùa ở miền Bắc Việt Nam có các quy thức và ý nghĩa rõ ràng. Trong phạm vi bài viết này xin được giới thiệu hai loại tượng gồm tượng Phật và tượng Bồ tát. Đó là tượng Đức phật Adiđà và hai vị Bồ tát hai bên tả hữu là Quán Thế âm và Đại Thế Chí. Nhìn vào những pho tượng Phật bày trong chùa, lớp trên cùng ở chỗ giáp vách gần nóc chùa có ba pho tượng để ngang một dãy, khuôn khổ bằng nhau, hình dáng giống nhau gọi là Tam Thế (là hết thảy Chư Phật ở đời quá khứ, đời hiện tại và đời vị lai) Trong phạm vi bài viết chỉ giới thiệu các pho tượng ở lớp thứ 2 (kể từ trên xuống). Lớp thứ hai có ba pho tượng lớn, pho tượng ngồi ở giữa là tượng Phật Adiđà, pho tượng đứng bên tả là tượng Bồ tát Quán Thế âm, pho tượng đứng bên hữu là tượng Bồ tát Đại Thế Chí. Ba pho tượng này thờ Đức
  3. Phật và hai vị đại Bồ Tát ở Tây Phương cực lạc, chủ việc cứu độ chúng sinh. Tuy ở cõi cực lạc là cõi Phật, nhưng có duyên với cõi Sa bà là cõi trần của ta, cho nên tượng được để gần hơn lớp tượng thờ Phật Tam Thế. Các pho tượng Phật Adiđà Nhìn chung các pho tượng Phật Adiđà được bày ở khu vực Tam bảo, trong chùa thì lớp tượng Phật Adiđà thuộc loại lớn nhất. Phật tử Việt Nam khi tới chùa, chào sư tăng trụ trì người ta đọc tên ngài “A di đà Phật”, khi Phật tử hành hương, chảy hội chào nhau cũng “A di đà Phật” và tin rằng đây là một “niệm chú”, Ngài rất hiển linh ban phát ân huệ ngay tức thì. Cõi của Ngài là tịnh độ, gọi là “Cực Lạc Quốc” ở về Phương Tây (Tây Phương Cực Lạc). Ngài có nhiều hồng danh, song phổ biến là “Phật vô lượng thọ”, “Phật vô lượng quang” ý chỉ ánh sáng của Ngài phát ra là vô tận, chiếu xuyên suốt thời gian, trải khắp không gian... Các pho tượng Adiđà bằng gỗ còn lại đến nay thì đều khá muộn, từ thời Mạc về trước chúng ta chưa tìm được một pho nào. Tượng Adiđà trong các chùa ở Miền Bắc Việt Nam chỉ có hai dạng là Adiđà đứng và Adiđà ngồi thiền bán kiết. Tượng phật Adiđà ngồi ở Chùa Thày (tên chữ là Thiên Phúc Tự - Hà Tây) còn giữ được bộ
  4. tượng Di Đà Tam Tôn thuộc loại sớm nhất và cũng rất đẹp. Tượng ngồi “kiết già” để lộ bàn chân trên lòng đùi (cao 175cm) được đặt lên một bệ gỗ toà sen (cao chừng 100cm), với nhiều hình chạm trang trí tinh vi, sắc sảo, tiêu biểu của nghệ thuật đầu thế kỷ XVII. Tượng được tạc theo một khối hình tháp khép kín, hai khuỷu tay buông xuống cân xứng như hai bờ bên của một tam giác cân, rồi thu vào trong lòng, tay kết ấn “Tam muội”, tạo cho toàn thân đăng đối, hai nửa phải trái cân nhau qua trục đối xứng, đầu tượng dài 60cm, hộp sọ nở đỉnh đầu không nổi “Nhục kháo” mà chỉ có “Bạch ngọc hào”, khuôn mặt trái xoan rất phù hợp với thân hình thon thả. Nếp áo chảy dài rất nuột, sự phối hợp giữa nếp áo đơn với nếp áo kép đã tạo cho pho tượng cảm giác có sự buông, tượng đã chứa đựng nhiều yếu tố tạo hình (ở pho tượng này lần đầu tìm thấy Phật đeo hoa tai kiểu bông sen rủ xuống). Ngực nở đầy đặn, có đeo dây anh lạc, điêu khắc tỉ mỉ, mặt tượng toát ra vẻ từ bi thánh thiện để cứu độ chúng sinh. Đây là pho tượng Adiđà ngồi, rất đặc trưng cho loại tượng này trong các ngôi chùa khác ở Miền Bắc Việt Nam. Tượng Phật Adiđà đứng So với các tượng Phật Adiđà ngồi thì tượng Phật Adiđà đứng có số lượng ít hơn. Các pho tượng này đều chung một bố cục đứng thẳng trên đài sen, hai chân mở tạo thế vững chắc, chững chạc của loại tượng có hình thượng thu hạ thách. Tượng thường tạc có kích thước lớn hơn người thực một chút, mặc áo có nếp buông dài chạm đất, hai vạt áo chéo trước bụng để hở ngực trần, tay phải tượng duỗi thẳng chỉ xuống
  5. đất biểu hiện sự chứng giám của âm phần, tay trái tượng co ngang trước bụng bàn tay ngửa, hứng viên ngọc biểu hiện nơi đây có ánh sáng Phật pháp và cũng là lối kết ấn “Cam lồ”. Đầu tượng có phần hơi thắt trên đỉnh phía trước như muốn gợi ra sự đang phát triển của “Nhục kháo” nhưng cũng có nhiều tượng khác dường như đầu tròn, tóc xoăn xoáy ốc, không quan tâm đến “Nhục kháo”, phần ngực tượng thường để trần trơn, hoặc có chữ vạn nhỏ ở chính giữa, hoặc đeo dây anh lạc đơn giản. Mặt các tượng này đôn hậu, đầy đặn, tai dài, để trơn hoặc đeo hoa nhỏ. Các chạm khắc đài sen có cánh căng đầy, khối điêu khắc khoẻ, tính trang trí cao. Tượng Adiđà đứng, thể hiện ngài đứng để tiếp độ chúng sinh đang trên đường thoát khỏi khổ đau ở cõi sa bà để đặt chân về cõi cực lạc Tây Phương. Các tượng bồ tát Quán Thế âm. Quán Thế âm là một vị Bồ tát rất có lòng từ bi, hay cứu khổ cứu nạn, cho nên ở đâu cũng thờ ngài và tụng niệm đến danh hiệu của ngài. Sự phiền não của các chúng sinh khi đã nhất tâm đọc đến tên Bồ tát tức thì ngài nghe âm thanh của chúng sinh đó mà độ ngay cho được giải thoát. Bởi thế gọi tên ngài là “Quán Thế âm”. (Trong dân gian còn gọi là: Đức Quan Âm) Đức Quán Thế Âm có phép thần thông quảng đại, thường hay biểu hiện
  6. ra nhiều sắc tướng để trừ phiền não, cho nên trong kinh nhà Phật có nơi nói có sáu vị Quán Thế Âm, có nơi nói có bẩy vị, lại có nơi nói có ba mươi ba vị. Nhưng thường thì chỉ xưng hô một tiếng Quán Thế Âm tức là gồm hết cả các vị Quán Thế Âm khác. Trong danh hiệu và sắc tướng của Đức Quán Thế Âm, ta nên biết mấy danh hiệu sau: 1. Quan âm Vô uý: là Quán Thế Âm đại bồ tát dùng phép bố thí vô uý cứu chúng sinh trong cơn cấp nạn, sợ hãi. 2. Nam hải Viên thông giáo chủ đại từ, đại bi Tầm thanh cứu khổ linh cảm Quán Thế Âm Bồ tát: Ngài là giáo chủ đạo viên thông ở Miền Nam hải, ngài tìm đến tiếng kêu cứu khổ, rất cảm ứng và linh thiêng. 3. Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế âm Bồ tát: ngài có thần thông quảng đại, cứu độ chúng sinh, không đâu là ngài không thấy, không việc gì là ngài không làm được. Nên ngài có sắc tướng ngàn mắt để nhìn thấy ngàn nỗi thống khổ của các chúng sinh, khi thấy rồi lại có đủ ngàn đôi bàn tay để cứu độ hết thảy ngàn nỗi thống khổ đó một cách thật linh diệu. 4. Chuẩn đề Quan âm: Ngài là một ứng thân trong sáu quan âm, theo đúng sách thì tượng của ngài được tạc phải có ba mắt và mười tám tay, mình mặc áo trắng có hoa. Biểu tượng của quyền năng cộng lực, có sức
  7. mạnh vô hạn, vô biên khi cứu độ chúng sinh. 5. Phật Bà Quan âm: Là một bậc đại bồ tát đã tu gần thành Phật, có thần thông rất lớn, chỉ vì thấy chúng sinh đau đớn, khổ sở ở trần gian mà đem lòng đại từ, đại bi phát lời nguyện ở lại để cứu độ chúng sinh”... Tất cả các chúng sinh khi nào chưa thành Phật thì con nguyện chưa thành Phật...” Các loại tượng Quán Thế âm Bồ Tát Gọi tắt là tượng Quan âm, được tạc thành tượng độc lập, dưới các dạng “Quan âm ngàn mắt ngàn tay”, “Quan âm chuẩn đề”, “Quan âm Nam Hải”, “Quan âm toạ sơn”, “Quan âm Tống Tử”... Ta còn thấy tượng quan âm tạc bộ đôi, với Bồ tát đại thế chí, bày ở hai bên tượng Phật Adiđà, để tạo thành bộ ba gọi là Di đà tam tôn (bởi tích Phật kể rằng: Trong các cuộc thuyết pháp của đức Phật Adiđà thì Quán thế âm Bồ tát luôn ở bên tả và Đại Thế Chí Bồ tát luôn ở bên hữu). Quán Thế âm có ba mươi hai phép ứng hiện, thực thi mười bốn phép công đức, ngài có thể hoá thân thành Phật, thành vua, thành dân, thành kẻ sang, người hèn v.v.. để cứu độ chúng sinh thoát khỏi sự bất công, nguy hiểm, hoạn nạn, khó khăn v.v... với các linh phép trên, tượng Quán Thế âm cũng được các nghệ nhân, nghệ sĩ thể hiện rất khác nhau, rất đa dạng phong phú... Tượng Quán Thế âm đứng.
  8. Đây là loại tượng Bồ tát đứng, có rất nhiều dạng khác nhau (hiện chỉ còn từ thế kỷ XVII trở về sau). Những bộ tượng sớm thì người xưa tạc Đại Thế Chí Bồ tát và Quán Thế âm Bồ tát giống nhau, rất khó phân biệt khi để độc lập. Ta chỉ nhận ra khi đã được xếp đặt và an vị trên Phật điện, nhờ vào vị trí ở bên phải hay bên trái của pho tượng đức Phật Adiđà. Với nhau bộ tượng muộn (thường thuộc thời Nguyễn) thì tượng đã tạc khác nhau rõ rệt, mỗi bồ tát có một đặc trưng riêng. Thường là các tượng Quán Thế âm Bồ tát được tạc bằng người thực trên chất liệu gỗ (cao khoảng 152cm, đầu dài 25cm, mình chiếm bằng 6 đầu, phù hợp với cơ thể phụ nữ Việt Nam). Tượng đứng trên đài sen cao 18cm, tay kết ấn “Liên hoa hợp chưởng”, khuôn mặt trái xoan, mũi dọc dừa, miệng ẩn một nụ cười nhân hậu, mắt khép hờ, tai đeo hoa dài chấm vai, đầu đội mũ thiên quan, có hình những cánh hoa sen, hoa cúc cách điệu đặt cạnh nhau che lấy đỉnh đầu, thành mũ ở phía trước cao hơn, cùng hai bên có hình hào quang của Đức Phật ngồi trên toà sen, một dải tóc mai vắt qua tai, tới vai chia thành ba lọn chảy xuôi theo cánh tay đến tận khuỷu. Mặc áo dài ngoài chùm đến tận chân, ngực mở ra, cổ đeo dây anh lạc (hoặc để lộ yếm trơn), các nếp áo chạy dọc, cùng hai tay chắp ngực, tạo thế cân đối, đa dạng cho pho tượng. Cũng có tượng tạc tay phía trong gấp ngang trước ngực, tay phía ngoài gấp đứng, như vậy tay phải và tay trái đã hoàn đổi tư thế cho nhau, các ngón tay thì kết ấn “Chuyển pháp luân” để hội tụ sinh lực khí khi cứu độ chúng sinh. Cũng
  9. có những pho tượng đứng, áo khoác ngoài để trần vai, tay tròn lẳn, cổ tay đeo vòng, với những ngón tay thon thả quí phái. ở chùa Tây Phương - Hà Tây ngoài tượng mười tám vị La Hán ra còn có bộ ba tượng Phật Adiđà, Đại Thế Chí Bồ tát và Quán Thế âm Bồ tát mang phong cách nghệ thuật thời Tây Sơn (cuối TK XVIII) nằm trong loạt tượng thành công nhất của điêu khắc cổ Việt Nam. Thời Nguyễn cũng có loạt tượng Quán Thế âm tạc đứng, hai tay nâng bình nước cam lồ, tạo được đặc điểm riêng mang dấu ấn thời đại (tượng ở chùa La Phù - Hà Tây là điển hình). Tượng Quán Thế âm ngồi: Đây là cặp tượng bộ của hai vị Bồ tát Quán Thế âm và Đại Thế Chí Bồ tát ngồi hai bên tượng Phật Adiđà. Đức Quan âm Bồ tát ngồi bán kiết trên toà sen, tương tự như tượng Phật (ở thế tay). Song có khác là tóc dài chải ngược búi lên đỉnh đầu rồi đội mũ, riêng tóc mai có thế buộc thành lọn chảy xuống vai. Cũng có pho tượng ngồi như Quan âm toạ sơn, một chân co gấp ngang, chân kia duỗi thẳng xuống, tà áo phủ dài kín bệ tượng, tay nắm lại để trên đùi, tay kia ngửa trên lòng. Đầu đội mũ thiên quan, tóc chảy xuống vai (như tượng Quan âm ở tư thế đứng) phong cách này thuộc thế kỷ XVII (ví dụ như các pho tượng Quan thế âm Bồ tát ở Chùa Thày - Hà Tây). Đại thế chí Bồ tát
  10. Là một vị Bồ tát cùng Quán Thế âm Bồ tát giúp đức Phật Adiđà cứu độ chúng sinh. Ngài tu phép niệm Phật Tam muội, thu cả lục căn (là Nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý), định tâm chuyên nhất về việc niệm Phật, bởi Thế tâm khai, ngộ đạo viên thông, được danh hiệu Đại Thế Chí (cũng có khi gọi tắt là Thế Chí). Đại Thế Chí là vị Bồ tát tiêu biểu cho trí tuệ, Ngài có linh lực rộng lớn đến cùng cực, dùng trí lực sáng suốt chiếu rọi khắp mười phương, để giúp chúng sinh giải thoát khỏi khổ đau, ngài luôn cùng với Quán Thế âm Bồ tát tạo thành cặp đôi, đi theo đức Phật Adiđà, tiếp dẫn chúng sinh về Tây Phương cực lạc Tượng Đại Thế Chí Bồ tát đứng: Tượng đứng của đức Đại Thế Chí Bồ tát cũng được các nghệ nhân, nghệ sĩ tạc rất phong phú, có nhiều dạng khác nhau (hiện còn từ thế kỷ XVII trở về sau). Như trên đã nói, những bộ tượng sớm, hai vị Bồ tát này tạc rất giống nhau về hình tướng và kích thước bằng nhau. Ta chỉ lấy ngài đứng ở bên tả hay bên hữu tượng Đức phật Adiđà, mà nhận ra đâu là Đức Quán thế âm Bồ tát hay đức Đại thế chí Bồ tát. Sang thời Nguyễn, Bộ tượng Quán Thế âm và Đại Thế Chí không làm giống nhau hoàn toàn nữa, tượng Đại Thế Chí tóc mai cũng chải ngược lên, mặt bình thản, tai dài vừa phải, mặc áo dài rộng, ống tay rủ đến tận gấu áo, áo dài diễn tả theo lối tả thực (như thật) hai tay ôm cuốn kinh
  11. sách nhà Phật. Dạng này ta thấy có ở nhiều chùa. Đây là đặc thù khác hẳn, nên khi vào chùa ta nhìn thấy và nhận ra ngay. Tượng Đại Thế Chí Bồ tát ngồi Tượng được tạc ngài ngồi bán kiết trên toà sen, hai tay kết ấn “Mật phùng”, tư thế nghiêm túc như tượng đức Phật Thế Tôn. Tóc mai từ vành mũ chảy xuống vai, rồi chia thành năm ngọn, tách đều chảy xuống bả vai - đặc biệt trên thân của ngài có cuốn những chuỗi hạt hình tròn và hình bầu dục, to nhỏ khác nhau, kèm theo những bông hoa cúc mãn khai, để tăng vẻ uy linh pháp tướng của ngài. Các pho tượng Đại Thế Chí thuộc thế kỷ XVII có hình tướng tả thực rất gần với đời thường, rất hợp với Pháp tu tịnh độ (tức là Nhất tâm niệm lục tự hồng danh của Đức Phật: “Nam mô Adiđà Phật”, tu để được giải thoát về cõi Tây Phương cực lạc - cõi của đức Phật Adiđà mà có sự độ giúp trực tiếp của hai ngài Quán Thế âm Bồ tát và Đại Thế Chí Bồ tát. Kết luận: Đạo Phật là đạo tu để giải thoát, quan niệm sắc sắc, không không (hư hư, thực thực - không thực mà thực - thực mà không thực). Đã được các nghệ nhân, nghệ sĩ tạo hình Việt Nam sáng tạo lấy cái thực và hư, chân và ảo, tục và thiêng để diễn tả cái sắc sắc không không ấy. Đây là một sự sáng tạo bắt nhịp, thật là vi diệu trong việc đạo và việc đời của các thế hệ nghệ sĩ tạo hình chúng ta. Các bức tượng Phật và Bồ tát của cổ nhân còn lại, đang hiện diện trong các ngôi chùa, là niềm tự hào và là tài sản vô giá của nền mỹ thuật tạo
  12. hình Việt Nam. Đinh Lực
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2