intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

U nội mô mạch máu giả cơ ở sơ sinh: Báo cáo trường hợp bệnh

Chia sẻ: ViStockholm2711 ViStockholm2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

41
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

U nội mô mạch máu giả cơ (pseudomyogenic hemangioendothelioma)là một loại u trung mô ác tính rất hiếm gặp ở trẻ em, với biểu hiện lâm sàng phức tạp và chẩn đoán dựa trên giải phẫu bệnh học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: U nội mô mạch máu giả cơ ở sơ sinh: Báo cáo trường hợp bệnh

Bệnh viện Trung ương Huế<br /> <br /> <br /> U NỘI MÔ MẠCH MÁU GIẢ CƠ Ở SƠ SINH:<br /> BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP BỆNH<br /> <br /> Hồ Trung Cường1, Trần Tuyến1, Trương ĐìnhKhải1<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Mục đích: U nội mô mạch máu giả cơ (pseudomyogenic hemangioendothelioma)là một loại u trung mô<br /> ác tính rất hiếm gặp ở trẻ em, với biểu hiện lâm sàng phức tạp và chẩn đoán dựa trên giải phẫu bệnh học.<br /> Chúng tôi báo cáo một trường hợp u nội mô mạch máu giả cơ xuất hiện ở trẻ sơ sinh, là trường hợp đầu<br /> tiên được báo cáo về loại u này ở trẻ sơ sinh.<br /> Đối tượng nghiên cứu: Bé gái 40 ngày tuổi nhập viện với sang thương ở vùng má bên phải xuất hiện từ<br /> lúc sinh, biểu hiện giống u máu nhưng kích thước tăng nhanh theo thời gian. Khám lâm sàng cùng hình ảnh<br /> học (siêu âm và chụp cắt lớp vi tính) gợi ý chẩn đoán là sarcoma sợi. Bệnh nhi được tiến hành phẫu thuật<br /> cắt rộng u, bảo tồn sự toàn vẹn của thần kinh mặt. Kết quả giải phẫu bệnh và hóa mô miễn dịch có nhiều<br /> tính chất phù hợp u nội mô mạch máu giả cơ. Bệnh nhi đang trong quá trình hồi phục và được theo dõi.<br /> Kết luận: U nội mô mạch máu giả cơ rất hiếm gặp ở trẻ sơ sinh. Nhà lâm sàng cần nghĩ đến khi tiếp cận<br /> trẻ có khối u bất thường, đặc biệt ở các vị trí ít gặp, để có kế hoạch điều trị phù hợp.<br /> Từ khóa: U nội mô mạch máu giả cơ, sarcoma dạng biểu mô, mặt, thần kinh mặt.<br /> <br /> <br /> ABSTRACT<br /> PSEUDOMYOGENIC HEMANGIOENDOTHELIOMA IN NEONATE: CASE REPORT<br /> Ho Trung Cuong1, Tran Tuyen1, Truong Đinh Khai1<br /> <br /> <br /> Objectives: Pseudomyogenic hemangioendothelioma (PH) is amalignant mesenchymal tumor which<br /> is extremely rare in neonate. We report an unusual case with PH on cheek in a neonate, which is the first<br /> case published till date.<br /> Case study: A 40-day-old female infant presented to hospital with a lesion on her right cheek appearing<br /> right after delivery, mimicking a hemangioma but rapidly increasing in size over the time. Clinical examination<br /> along with radiography (ultrasound and computed tomography) suggested diagnosis of fibrosarcoma. The<br /> patient was taken to surgery to resect the tumor along withconserve facial nerve branches. Histology and<br /> immunohistochemistry results were suitable with PH diagnosis. The patient is in recovery period and is<br /> followed up.<br /> Conclusion: PH is extremely rare in children. Clinicians should consider this diagnosis when<br /> approaching an abnormal mass occurring in children, especially in unusual locations, to achieve the best<br /> plan in treatment.<br /> Keywords: Pseudomyogenic hemangioendothelioma, epithelioid sarcoma, face, facial nerve.<br /> 1. Bộ môn Ngoại Nhi, Đại học Y Dược - Ngày nhận bài (Received): 25/6/2019; Ngày phản biện (Revised): 30/7/2019;<br /> TPHCM - Ngày đăng bài (Accepted): 26/8/2019<br /> - Người phản hồi (Corresponding author): Hồ Trung Cương<br /> - Email:hotrungcuong1992@gmail.com; Sđt: 0762778755<br /> <br /> <br /> Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 55/2019 205<br /> U nội mô mạch máu giả cơ ở sơ sinh:Bệnh<br /> Báo viện<br /> cáo trường<br /> Trung ương<br /> hợp bệnh<br /> Huế<br /> <br /> I. MỞ ĐẦU định là một loại u hoàn toàn khác biệt. U thường<br /> U nội mô mạch máu giả cơ (pseudomyogenic xuất hiện ở người lớn, cực kì hiếm gặp ở trẻ em, đặc<br /> hemangioendothelioma - PH, hay epithelioid biệt là trẻ sơ sinh[1].<br /> sarcoma-like hemangioendothelioma - u nội mô Chúng tôi báo cáo và bàn luận về một trường<br /> mạch máu giống sarcoma dạng biểu mô) là một loại hợp u nội mô mạch máu giả cơxuất hiện ở trẻ sơ<br /> u phần mềm rất hiếm gặp. Ban đầu, u này được coi sinh, ở vùng má bên phải – vị trí ít được ghi nhận<br /> là sarcoma dạng biểu mô nhưng sau đó được xác trong y văn.<br /> <br /> II. BỆNH ÁN<br /> Bé gái sinh đủ tháng với một thai kì bình thường,<br /> cân nặng lúc sinh 3000g. Sau sinh, bé có một sang<br /> thương kích thước khoảng 1,5 cm ở má phải, màu<br /> đỏ, giống u máu. Kích thước khối sang thương lớn<br /> nhanh trong 2 tuần với những nốt sần ở bề mặt.<br /> Siêu âm thời điểm 40 ngày tuổi ghi nhận vùng<br /> má bên phải có cấu trúc echo kém, không đồng nhất,<br /> có đóng vôi, kích thước 24x21mm, bên trong có<br /> tưới máu. Chụp cắt lớp điện toán ghi nhận mô mềm<br /> má phải có khối dạng mô đặc không đồng nhất, có<br /> đóng vôi, bắt thuốc cản quang mạnh (nhiều mạch<br /> máu), kích thước 27x28x25mm, không thấy tổn<br /> thương xương. Siêu âm tim, chức năng gan thận,<br /> chức năng tuyến giáp (TSH, FT3, FT4) không ghi<br /> nhận bất thường. Siêu âm khảo sát vùng đầu mặt cổ<br /> chưa ghi nhận có hạch. Dựa trên biểu hiện lâm sàng<br /> và hình ảnh học, chẩn đoán ban đầu là sarcoma sợi<br /> bẩm sinh. Với kích thước tăng nhanh và nhiều dấu<br /> hiệu ác tính, bệnh nhi được tiến hành phẫu thuật lúc<br /> 45 ngày tuổi (hình 1).<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 1: Khối u trước phẫu thuật Hình 2: Hình khối u đã được cắt bỏ<br /> <br /> <br /> 206 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 55/2019<br /> Bệnh viện Trung ương Huế<br /> <br /> Khối u được cắt rộng, cách rìa khối 5mm (hình 2). Cách nhánh thần kinh mặt được bộc lộ và bảo tồn tối<br /> đa (hình 3). Diện phẫu thuật sau cắt bỏ u rộng và sâu, chúng tôi tiến hành ghép da dày từ da vùng gáy bên<br /> phải (hình 4),<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 3:Thần kinh mặt được bảo tồn (mũi tên đen) Hình 4: Hình ảnh sau phẫu thuật<br /> Quan sát đại thể cho thấy u tương đối chắc, sượng, kích thước khoàng 3x3x2cm, nằm ở mô dưới da, mặt<br /> cắt trắng nhầy được gửi giải phẫu bệnh và hóa mô miễn dịch.<br /> dạng biểu mô, có thể là sarcoma nội mô mạch máu.<br /> Kết quả hóa mô miễn dịch với các kháng nguyên:<br /> VIM, CK, CD34, CD31 như sau:<br /> VIM: (+++)<br /> CK: (+) rải rác.<br /> CD31: (+) rải rác.<br /> CD34: (-)<br /> <br /> Kết quả hóa mô miễn dịch phù hợp với u nội mô<br /> mạch máu giả cơ.<br /> <br /> Hình 5: Hình ảnh đại thể khối u<br /> III. BÀN LUẬN<br /> Kết quả giải phẫu bệnh<br /> U nội mô mạch máu giả cơ (UNMMMGC) đầu<br /> tiên được mô tả vào năm 2003 bởi Billings và cộng<br /> sự, loại u mạch máu này được vào mức độ ác tính<br /> trung bình. Danh pháp “u nội mô mạch máu giống<br /> sarcoma dạng biểu mô” được nhấn mạnh bởi vì nhiều<br /> đặc điểm tương đồng với sarcoma dạng biểu mô, và<br /> 6/7 bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu của Billings<br /> được chẩn đoán trước phẫu thuật là sarcoma dạng<br /> biểu mô [2]. Kết quả giải phẫu bệnh ban đầu trong<br /> Hình 6: Hình ảnh giải phẫu bệnh trường hợp của chúng tôi cũng có kết luận tương tự.<br /> Hình ảnh quan sát được ghi nhận: Trên sinh thiết Năm 2011, Hornick và Fletcher đã sử dụng danh<br /> có nhiều nốt giới hạn rõ, cấu tạo bởi các tế bào dạng pháp “u nội mô mạch máu giả cơ” để nhấn mạnh đặc<br /> biểu mô hình đa diện, nhân dị dạng, có ổ hoại tử điểm giống cơ của loại u này [1], [4]. Đến năm 2013,<br /> trung tâm. Giữa các nốt là các tế bào hình thoi, gần u nội mô mạch máu giả cơ đã được công nhận trong<br /> giống tế bào sarcoma sợi. Kết luận: Sarcoma tế bào bảng phân loại u mô mềm và xương của WHO [1].<br /> <br /> Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 55/2019 207<br /> U nội mô mạch máu giả cơ ở sơ sinh:Bệnh<br /> Báo viện<br /> cáo trường<br /> Trung ương<br /> hợp bệnh<br /> Huế<br /> <br /> U nội mô mạch máu giả cơ chủ yếu xuất hiện ở U nội mô mạch máu<br /> Sarcoma dạng biểu mô<br /> người lớn 30-40 tuổi, đăc biệt là nam giới. Loại u giả cơ<br /> này thường ở phần xa của chi dưới nhưng một số CK + CK +<br /> báo cáo cũng ghi nhận những vị trí khác như dương CD31 + CD31 -<br /> vật, môi, ngực, da đầu [1], [5]. UNMMMGC có thể<br /> Fli-1 + Fli-1 -<br /> xâm lấn ở nhiều độ sâu khác nhau, từ thượng bì, bì<br /> CD34 - CD34 + (50-60%)<br /> cho đến sâu hơn trong cân cơ với nhiều kích thước<br /> Vim + Vim +<br /> khác nhau từ vài milimet đến vài centimet. Hầu hết<br /> bệnh nhân biểu hiện là một khối dưới da, không Trường hợp bệnh của chúng tôi là trường hợp<br /> đầu tiên báo cáo về u nội mô mạch máu giả cơ xuất<br /> đau, to dần theo thời gian [3].<br /> hiện ở trẻ sơ sinh.<br /> Về mặt giải phẫu bệnh lý, u chứa các tế bào hình<br /> Vì dạng ung thư này rất hiếm gặp ở trẻ em nên<br /> thoi với bào tương ưa acid và một số đặc điểm khác<br /> chưa có khuyến cáo điều trị chung, chúng tôi lựa<br /> giống như sarcoma dạng biểu mô. Chính vì thế, các<br /> chọn điều trị theo hướng xử lý u ác ở mô mềm. Chẩn<br /> chẩn đoán phân biệt của UNMMMGC bao gồm:<br /> đoán trước mổ là sarcoma sợi bẩm sinh – một dạng<br /> sarcoma dạng biểu mô, ung thư vỏ bao thần kinh<br /> u trung mô khác, đôi khi có biểu hiện giống u máu.<br /> ngoại biên, sarcoma cơ vân [3]. Lựa chọn xạ trị trước phẫu thuật được đưa ra nhưng<br /> Về mặt hóa mô miễn dịch, chính vì những đặc bệnh nhân còn quá nhỏ tuổi, tiềm ẩn nhiều bất lợi<br /> tính mô học của UNMMMGC có nét tương đồng nên chúng tôi quyết định trì hoãn và tiến hành phẫu<br /> với sarcoma dạng biểu mô nên dễ gây nhầm lẫn. thuật trước.<br /> Kết quá hóa mô miễn dịch, hầu hết các u loại này Bệnh nhi được tiến hành phẫu thuật sớm nhằm<br /> đều dương tính với keratin AE1/AE3, ERG, FLI1, cắt trọn u, xác định giải phẫu bệnh, đồng thời hạn<br /> FOSB. CD31 dương tính trong khoảng 50% ở chế tối đa sự xâm lấn các cấu trúc vùng mặt của<br /> nghiên cứu của Hornick và Fletcher. Keratin MNF, bệnh nhi bởi diễn tiến rất nhanh của u. Với vị trí<br /> desmin, CD34, podoplanin (D2-40), S100, MyoD1, u chiếm gần hết phần má cùng với nguyên tắc cắt<br /> CD68, p63, yếu tố XIII thường âm tính [2]. rộng, thách thức lớn nhất của chúng tôi là bảo tồn<br /> So sánh với sarcoma dạng biểu mô các cấu trúc giải phẫu quan trọng ở vùng này, đặc<br /> Chẩn đoán phân biệt quan trọng nhất của biệt là thần kinh mặt.<br /> UNMMMGC là sarcoma dạng biểu mô. Hai dạng Bệnh nhi được phẫu thuật cắt rộng khối u cách<br /> ung thư này có chung một số đặc điểm: xảy ra ở rìa khoảng 5mm vì đặc điểm dễ tái phát tại chỗ cũng<br /> như di căn của chẩn đoán sarcoma dạng biểu mô<br /> người trẻ tuổi, xuất hiện ở đầu xa của chi, có tế bào<br /> trước mổ. Ở các bệnh nhân có sarcoma dạng biểu<br /> hình thoi và biểu hiện của keratin lan tỏa. So với<br /> mô ở chi, một số trường hợp cần phải đoạn chi để<br /> UNMMMGC, sarcoma dạng biểu mô có mức độ<br /> đảm bảo diện phẫu thuật R0 và giảm thiểu khả năng<br /> ác tính cao hơn với khuynh hướng tái phát tại chỗ<br /> tái phát tại chỗ. Thần kinh mặt được bộc lộ và bảo<br /> và di căn xa. Trong những nghiên cứu lớn nhất về<br /> tồn tối đa.<br /> sarcoma dạng biểu mô thì tỉ lệ tái phát tại chỗ là<br /> Bệnh nhi đang trong giai đoạn khôi phục, vết<br /> 77% và di căn xa đến 45% trường hợp. Vì vậy, phẫu thương diễn tiến lành tương đối tốt. Việc theo dõi<br /> thuật sarcoma dạng biểu mô đòi hỏi phải cắt rộng u, lâu dài rất quan trọng để đánh giá chức năng vận<br /> đôi khi cần phải đoạn chi cùng với hóa trị hỗ trợ. Về động vùng mặt, cũng như khả năng tái phát tại chỗ<br /> mặt hóa mô miễn dịch [1], [2] và di căn của dạng u này.<br /> <br /> <br /> 208 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 55/2019<br /> Bệnh viện Trung ương Huế<br /> <br /> IV. KẾT LUẬN khác nhau. Chẩn đoán xác định u nội mô mạch<br /> U nội mô mạch máu giả cơ là một dạng ung máu giả cơ chủ yếu dựa vào giải phẫu bệnh và<br /> thư hiếm gặp, thường xảy ra ở nam trẻ và ở đầu hóa mô miễn dịch. Tiên lượng của bệnh này tùy<br /> chi, bệnh đặc biệt hiếm ở trẻ em. Dù hiếm gặp thuộc vào chẩn đoán và điều trị. Với khả năng tái<br /> nhưng người làm lâm sàng cần phải thận trọng vì phát tại chỗ và di căn vùng khá cao, phẫu thuật<br /> ngày càng có nhiều báo cáo về những dạng lạ với viên cần phải cắt rộng u đồng thời theo dõi sát<br /> những độ tuổi khác nhau và vị trí sang thương sau đó.<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1. Al-Qaderi A., Mansour A. T. (2019), “Pseudo- 4. Hornick J. L., Fletcher C. D. (2011),<br /> myogenic Hemangioendothelioma”, Archives “Pseudomyogenic hemangioendothelioma:<br /> of Pathology & Laboratory Medicine, 143 (6). a distinctive, often multicentric tumor with<br /> 763-767. indolent behavior”, The American journal of<br /> 2. Billings S. D., Folpe A. L., Weiss S. W. (2003), surgical pathology, 35 (2). 190-201.<br /> “Epithelioid sarcoma-like hemangioendothelio- 5. IdeY.-H., TsukamotoY., Ito T., et al. (2015), “Penile<br /> ma”, The American journal of surgical pathol-<br /> pseudomyogenic hemangioendothelioma/<br /> ogy, 27 (1). 48-57.<br /> epithelioid sarcoma-like hemangioendothelioma<br /> 3. Fan C., Yang L., Lin X., et al. (2015),<br /> with a novel pattern of SERPINE1-FOSB<br /> “Pseudomyogenic hemangioendothelioma/<br /> fusion detected by RT-PCR–Report of a case”,<br /> epithelioid sarcoma-like hemangioendothelioma<br /> Pathology-Research and Practice, 211 (5).<br /> of the lower limb: report of a rare case”,<br /> Diagnostic pathology, 10 (1). 150. 415-420.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 55/2019 209<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2