Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
ỨNG DỤNG PHẪU THUẬT NỘI SOI KẾT HỢP NAVIGATION<br />
TRONG PHẪU THUÂT U VÙNG HỐ YÊN<br />
TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI<br />
Kiều Đình Hùng *, Nguyễn Tiến Hùng *, Cao Minh Thành *, Trần Quang Trung*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị u vùng hố yên bằng phẫu thuật nội soi qua xoang bướm kết hợp với<br />
Navigation.<br />
Đối tượng nghiên cứu: gồm 36 bệnh nhân u tuyến yên và u sọ hầu được phẫu thuật tại bệnh viện Đại học<br />
Y Hà Nội từ tháng 8/2010 đến tháng 8/2012.<br />
Phương pháp nghiên cứu: dựa trên khám lâm sàng, nội tiết, cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ. Phẫu thuật<br />
gồm 2 kíp mổ, dưới sự hỗ trợ của thiết bị Navigation, kíp bác sỹ Tai Mũi Họng tiến hành nội soi đường mũi,<br />
phẫu tích qua xoang bướm vào hố yên. Kíp phẫu thuật viên thần kinh tiến hành lấy u vùng hố yên. Qua đó nhận<br />
định và phân tích các kết quả phẫu thuật.<br />
Kết quả: Tổng số có 36 bệnh nhân 17 nam 19 nữ. Độ tuổi trung bình là 41 từ 6 đến 72 tuổi. Tuổi hay gặp<br />
là từ 40 đến 60. Trong 36 bệnh nhân có 30 trường hợp u tuyến yên và 6 trường hợp u sọ hầu. Trong 30 trường<br />
hợp u tuyến yên có 20 bệnh nhân u lớn tuyến yên (macroadenoma), 10 bệnh nhân u nhỏ tuyến yên<br />
(microadenoma). Tai biến dò dich não tuỷ trong mổ là 5 trường hợp, không có dò dịch não tuỷ sau mổ, không có<br />
chảy máu sau mổ. Có một bệnh nhân tử vong do rối loạn nước điện giải. Mổ lại 1 trường hợp sau 2 năm. Tất cả<br />
bệnh nhân đều cải thiện về triệu chứng sau mổ.<br />
Kết luân: Phẫu thuật nội soi u vùng hố yên kết hợp định vị Navigation là phương pháp cho kết quả tốt và<br />
an toàn.<br />
Từ khóa: u tuyến yên, u sọ hầu, u vùng hố yên, nội soi qua xoang bướm, navigation.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
APPLICATION LAPAROSCOPIC SURGERY COMBINED WITH NAVIGATION<br />
IN PITUITARY TUMOR TREATMENT AT HANOI MEDICAL UNIVERSITY HOSPITAL<br />
Kieu Dinh Hung, Nguyen Tien Hung, Cao Minh Thanh, Tran Quang Trung<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 4 - 2012: 147 - 151<br />
Objective: To evaluate the results of pituitary tumor treatment by laparoscopy through by the sphenoid and<br />
combined with Navigation.<br />
Methods: descriptive study of 36 patients with pituitary tumors or craniopharyngeal tumor were operated at<br />
Hanoi Medical University Hospital from August 2010 to August 2012. All patients were done clinical<br />
examination, computerized tomography and magnetic resonance. Each operation was done by 2 surgery groups<br />
with the support of Navigation, ENT doctors conduct nasal endoscopy, sinus dissection through the sphenoid.<br />
Neurological surgeon cut the pituitary tumor off.<br />
Results: 36 patients with 17 males 19 females. The average age is 41 years from 6 to 72 years. Common age<br />
<br />
*Đại học y Hà Nội<br />
Tác giả liên lạc: PGS TS BS Kiều Đình Hùng, Email: kieudinhhung2008@gmail.com<br />
<br />
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh<br />
<br />
147<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012<br />
<br />
is between 40 and 60 years. There were 30 pituitary tumors and 6 craniopharyngeal tumors. 30 patients with<br />
pituitary tumor included 20 patients with large pituitary tumors (Macro adenoma), 10 patients with small<br />
pituitary tumors (Micro adenoma). Complications due to CSF leakage in five cases. One patient died due to<br />
hydro-electrolyte disturbances. Re-oparated after 2 years in 1 case. All patients improved their symptoms after<br />
operation.<br />
Conclusion: pituitary tumor laparoscopic surgery combined with Navigation was a good results and safety<br />
methods.<br />
Keyword: pituitary tumors, craniopharyngeal tumors, laparoscopy combined with Navigation.<br />
được khám lâm sàng, chụp MRI sọ são, CT<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
scanner nền sọ, xét nghiêm nội tiết.<br />
Việc chỉ định phẫu thuật khối u xuất phát từ<br />
Phẫu thuật gồm có các bước như sau:<br />
hố yên chủ yếu phụ thuộc vào hướng phát triển<br />
Dụng cụ<br />
của khối u. Phẫu thuật mở hộp sọ có thể đươc<br />
đặt ra với những khối u vượt qua hố yên vào<br />
Gồm có giàn nội soi,với ống kính 0 độ, 30<br />
trong sọ, phát triển sang ngang, vào hố sọ trước<br />
độ, và 45 độ. Hệ thống định vị Navigation,<br />
hoặc hố sọ sau. Tuy nhiên phương pháp này<br />
khoan mài cao tốc, các dụng cụ phẫu thuật tai<br />
bây giờ ít được thực hiện do gặp nhiều tai biến<br />
mũi họng, thìa nạo vòng lấy u, kìm, ống hút,<br />
và hậu phẫu nặng nề. Ngày nay bằng phương<br />
dao điện đơn cực, lưỡng cực, các dụng cụ gắn<br />
pháp phẫu thuật qua xoang bướm, đặc biệt là<br />
định vị tai mũi họng.<br />
phẫu thuật nội soi qua xoang bướm đã và đang<br />
đuợc chỉ định rộng rãi với nhiều loại u vùng hố<br />
yên. Bằng phương pháp này các bác sỹ đã hạn<br />
chế nhiều khó khăn và biến chứng có thể xảy ra<br />
nếu sử dụng phương pháp mở hộp sọ hay vi<br />
phẫu, như chảy máu, phẫu trường hẹp, thủng<br />
hay vẹo vách ngăn mũi….vv. Sự ra đời của thiết<br />
bị định vị Neuronavigation đã hỗ trợ rất hiệu<br />
quả cho phẫu thuật. Thêm vào đó nhờ sự nhuần<br />
nhuyễn trong giải phẫu và thao tác mũi xoang,<br />
các bác sỹ Tai Mũi Họng đã tạo nên thuận lợi rất<br />
lớn trong việc mở lối vào hố yên. Chính nhờ có<br />
được trang thiết bị và sự phối hợp chặt chẽ như<br />
Hình 1: Dụng cụ định vị.<br />
trên Bệnh Viên Đại học Y Hà Nội đã tiến hành<br />
thực hiện phẫu thuật nội soi u vùng hố yên kết<br />
hợp với định vị Navigation cho 36 bệnh nhân từ<br />
8/2010 đến 8/2012. Chúng tôi thực hiện nghiên<br />
cứu này nhằm đánh giá kết quả điều trị u vùng<br />
hố yên bằng phương pháp trên.<br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Nghiên cứu thực hiện trên 36 bệnh nhân bị u<br />
tuyến yên và u sọ hầu phát triển xuống sàn hố<br />
yên đã được phẫu thuật nội soi kết hợp với định<br />
vị Navigation tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ<br />
tháng 8/2010 đến tháng 8/2012. Các bệnh nhân<br />
<br />
148<br />
<br />
Hình 2: Kíp phẫu thuật, hệ thống nội soi và định vị<br />
<br />
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
bằng kìm Kerisson. Đốt niêm mạc xoang.<br />
- Thao tác tương tự mũi bên đối diện để mở<br />
rộng đường vào<br />
- Mở rộng các thành xoang bướm tuỳ theo vị<br />
trí u trong hố yên.<br />
- Mở vào hố yên bằng máy mài thành trên<br />
xoang bướm tương ứng với vị trí u.<br />
<br />
Hình 3: MRI bệnh nhân U sọ hầu.<br />
<br />
Kíp phẫu thuật viên Thần kinh mở màng<br />
cứng bằng dao điện. Tiếp đó dùng thìa nạo<br />
vòng thao tác lấy u theo các hướng và đến<br />
hoành yên.<br />
<br />
Đánh giá kết quả dựa vào những điểm sau<br />
Sự cải thiện các triệu chứng lâm sàng, cận<br />
lâm sàng theo các mức :<br />
- Tốt: Triệu chứng lâm sàng cải thiện, xét<br />
nghiệm nội tiết giảm trên 50%. Phim chụp kiểm<br />
tra u nhỏ đi hoặc hết u, không có biến chứng<br />
sau mổ.<br />
- Trung bình: Triệu chứng lâm sàng, cải<br />
thiện không đáng kể, không có biến chứng<br />
nặng.<br />
- Kém: Tử vong hoăc biến chứng nặng, chụp<br />
lại kiểm tra u tái phát nhanh.<br />
Hình 4: Hình ảnh định vị<br />
<br />
Chuẩn bị bệnh nhân<br />
<br />
Ngoài ra cũng đánh giá về thời gian phẫu<br />
thuật, các tai biến như chảy máu, dò dịch não<br />
tuỷ trong mổ.<br />
<br />
Bệnh nhân nằm ngửa, gây mê nội khí quản,<br />
vệ sinh mũi, quanh mũi bằng cồn trắng, đặt<br />
meche tẩm Naphazolin hoặc Coli B co mạch,<br />
chống phù nề. Lắp và cài đặt hệ thống định vị<br />
tai mũi họng vào vùng trán của bệnh nhân, sau<br />
đó cho đĩa CLVT navi vào máy định vị theo<br />
phần mềm sọ não, sau đó ra khỏi phần mềm<br />
này và dụng phần mềm tai mũi họng để cài đặt<br />
dụng cụ và đăng ký.<br />
<br />
KẾT QUẢ<br />
<br />
Tiến hành<br />
<br />
Tất cả 36 bệnh nhân đều được chụp MRI<br />
trước mổ và có 20 trường hợp có phim chụp CT<br />
scan nền sọ giúp đánh giá cấu trúc xương mũi<br />
xoang và hố yên.<br />
<br />
Kíp bác sỹ TMH sử dụng ống nội soi. Có thể<br />
thao tác trên 1 hoặc 2 mũi.<br />
- Xác định đường đến xoang bướm nhờ hình<br />
ảnh định vị.<br />
- Tìm lỗ thông xoang bướm. Phẫu tích vào<br />
xoang bướm và mở thông sang bên đối diện<br />
<br />
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh<br />
<br />
Qua phân tích số liệu chúng tôi có các kết<br />
quả sau: Trong 36 bệnh nhân có 17 bn nam và 19<br />
bn nữ, tuổi thấp nhất là 6 cao nhất là 72 tuổi,<br />
trong số 36 bệnh nhân có 30 trường hợp u tuyến<br />
yên và 6 bệnh nhân u sọ hầu. 20 bệnh nhân u<br />
tăng tiết, 10 bệnh nhân u không tăng tiết. Có 18<br />
trường hợp là marcoadenoma, 12 trường hợp<br />
microadenoma.<br />
<br />
Có 30 bệnh nhân phẫu thuật lần đầu, 6 bệnh<br />
nhân u tái phát sau phẫu thuật bằng phương<br />
pháp vi phẫu, 1 bệnh nhân tái phát sau xạ phẫu<br />
<br />
149<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012<br />
<br />
Gama knife 2 năm.<br />
Phẫu thuật qua 1 mũi là 8 bệnh nhân, 2 mũi<br />
là 28 bệnh nhân.<br />
Thời gian phẫu thuật trung bình là 2 giờ.<br />
Ngắn nhất là 1h30 phút, dài nhất là 3h.<br />
Chảy máu nhiều trong mổ (khoảng 130 ml)<br />
có 1 trường hợp.<br />
Chảy dịch não tuỷ trong mổ là 5 trường hợp,<br />
các trường hợp này được trám mỡ bụng, keo<br />
sinh học, sau mổ không bị rò dịch não tuỷ.<br />
Thời gian nằm viện sau mổ trung bình là 3<br />
ngày.<br />
Không có nhiễm trùng sau mổ.<br />
Có 1 bệnh nhân u sọ hầu sau mổ có biến<br />
chứng đái tháo nhạt, rối loạn điện giải nặng gia<br />
đình xin về.<br />
Khám lại sau 1 tháng ra viện các bệnh nhân<br />
đều cải thiện triệu chứng (đau đầu, nhìn mờ).<br />
Xét nghiệm lại hormon sau 1 tháng của tất<br />
cả các bệnh nhân đều ổn định hoặc cải thiện tốt.<br />
Có 1 bệnh nhân mổ lại sau 2 năm (bệnh<br />
nhân nữ 54 tuổi mổ tháng 8/2010 mổ lại tháng<br />
6/2012)<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Phẫu thuật nội soi u tuyến yên qua mũi lần<br />
đầu tiên được Jankowski và cộng sự thực hiện ở<br />
3 bệnh nhân vào năm 1992, ông cho rằng sử<br />
dụng hai mũi dễ dàng hơn khi lấy u. Có một số<br />
tác giả như Shikani, Kelly, Gamea, SEthi,<br />
Pillay… sử dụng van mỏ vịt và đường mổ<br />
xuyên vách mũi để mở vào xoang bướm(1,2).<br />
Griffith, Veerapen là người tiên phong sử dụng<br />
đường mổ trong mũi (endonasal approach) tiếp<br />
cận xoang bướm. Tại Việt Nam, Nguyễn Phong<br />
và cộng sự đã thông báo sử dụng nội soi hỗ trợ<br />
trong mổ tuyến yên nhưng vẫn sử dụng kính vi<br />
phẫu trong khi lấy u(3). Đồng Văn Hệ và cộng sự<br />
đã thông báo phẫu thuật được thực hiện trong<br />
mũi không cần gây tê niêm mạc mũi mà chỉ cần<br />
đặt gạc con tẩm dung dịch co mao mạch của<br />
niêm mạc mũi. Chúng tôi sử dụng đường mổ<br />
trong mũi chỉ sử dụng nội soi kết hợp với<br />
<br />
150<br />
<br />
Navigation để phẫu thuật 36 bệnh nhân trong<br />
nghiên cứu này, chúng tôi phối hợp hai kíp mổ,<br />
kíp bác sĩ tai- mũi- họng và kíp bác sỹ phẫu<br />
thuật thần kinh. Bắt đầu phẫu thuật bằng cách<br />
đẩy cuống mũi giữa và dưới sang bên, tạo<br />
đường mổ rộng hơn, xác định ngách xoang<br />
bướm bằng nội soi, khi khó khăn sẽ phối hợp<br />
Navigation để tìm lỗ thông xoang bướm nhìn<br />
chung không khó khăn lắm để tìm vị trí lỗ<br />
thông, sau khi vào xoang bướm qua lỗ thông sẽ<br />
dùng kerisson gặm thành trước xoang bướm,<br />
đối với những trường hợp xương dày chúng tôi<br />
sử dụng khoan mài để mở thành trước xoang<br />
bướm. Sau khi vào được qua một bên chúng tôi<br />
tiếp tục tìm đường vào qua mũi bên đối diện,<br />
phần lớn bệnh nhân được mổ qua hai bên mũi.<br />
Tuy dụng cụ mổ và ống nội soi có thể đưa cùng<br />
bên mũi, tuy nhiên nếu đưa 3 dụng cụ cùng lúc<br />
sẽ rất khó khăn, khi thực hiện phẫu thuật qua<br />
một mũi duy nhất, chúng tôi sử dụng tối đa một<br />
dụng cụ và một ống nội soi, điều này gây khó<br />
khăn cho phẫu thuật. Chúng tôi thực hiện phẫu<br />
thuật hai bên mũi ở 28 bệnh nhân và như vậy có<br />
thể sử dụng 3 hoặc 4 dụng cụ qua hai mũi. Khi<br />
so sánh với thực hiện phẫu thuật một bên mũi<br />
thì phẫu thuật qua hai mũi dễ dàng hơn.<br />
Thường là bên mũi phải đặt ống nội soi, bên<br />
mũi trái là dụng cụ mổ như máy hút, thìa, dao,<br />
kéo… khi đó, dụng cụ di chuyển dễ dàng,<br />
không bị vướng, nhất là ống nội soi hiếm khi bị<br />
mờ do máu dính vào đầu ống. Chúng tôi cho<br />
rằng, phẫu thuật qua hai bên mũi có ưu điểm là<br />
không bị cắt xuyên vách mũi, dụng cụ đưa vào<br />
dễ dàng và ống nội soi sạch hơn. Chính vì vậy,<br />
những bệnh nhân sau này, chúng tôi luôn sử<br />
dụng hai mũi để phẫu thuật. Khi đó, ống nội soi<br />
đặt bên mũi phải, máy hút và dụng cụ mổ (dao,<br />
kìm, thìa nạo…) đưa vào bên mũi trái. Trong<br />
trường hợp đường mổ một bên rộng u dễ lấy<br />
hoặc u sọ hầu hoặc có loại camera liền với máy<br />
hút có thể chỉ cần đi một bên mũi cũng đủ để<br />
lấy u.<br />
Để mở sàn hố yên chủ yếu chúng tôi sử<br />
dụng khoan mài với mũi kim cương thông<br />
thường đường kính lỗ mở khoảng 0,8-1cm đủ để<br />
<br />
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012<br />
currett vòng quay được dễ dàng để lấy u. Khi<br />
rạch màng cứng, lấy u, cầm máu dưới ánh sáng<br />
nội soi rất rõ, xác định được khối u còn hay đã<br />
hết. Trong trường hợp macroadenoma ống nội<br />
soi đưa vào trong khối u đã lấy một phần, ánh<br />
sáng ống nội soi 30 độ cho phép xem được phần<br />
khối u còn lại, điều mà phẫu thuật bằng kính vi<br />
phẫu không có được.<br />
Hệ thống định vị Navigation là bước phát<br />
triển vượt bậc trong công nghệ y học, đặc biệt<br />
trong chuyên ngành phẫu thuật thần kinh. Nó<br />
có thể xác định chính xác vị trí khối u trong mổ,<br />
khoảng cách giữa khối u với xoang tĩnh mạch<br />
hang, động mạch cảnh… cho biết khả năng lấy<br />
u. Trong phẫu thuật nội soi tuyến yên, nhờ thiết<br />
bị này các bác sĩ Tai Mũi Họng và bác sĩ phẫu<br />
thuật thần Kinh có thể xác định dễ dàng đường<br />
đến xoang bướm, hố yên đặc biệt là những<br />
trường hợp dị dạng cấu trúc mũi xoang và<br />
những trường hợp khối u xâm lấn làm thay đổi<br />
giải phẫu bình thường. Nhờ vậy rút ngắn đáng<br />
kể thời gian phẫu thuật (4,5).<br />
Trong số 36 những bệnh nhân được phẫu<br />
thuật chúng tôi gặp hai trường hợp không lấy<br />
được u mà chỉ làm được sinh thiết. Trong đó có<br />
một trường chảy máu rất nhiều khi mở vào hố<br />
yên nên phải dừng cuộc mổ, trường hợp còn lại<br />
u xơ dai currett vòng không lấy được u, đây là<br />
trường hợp bệnh nhân bị u tuyến yên tái phát<br />
sau xạ phẫu gammaknife. Nhiều tác giả cho<br />
rằng các khối u tái phát sau xạ trị rất khó khăn<br />
nếu phải mổ mở do tổ chức u bị xơ hoá đây<br />
cũng chính là một trong những hạn chế của xạ<br />
trị và xạ phẫu.<br />
Có 5 trường hợp bị dò dịch não tuỷ trong<br />
mổ được trám bằng mỡ bụng, keo sinh học,<br />
trước đây có một số tác giả cho rằng đây là biến<br />
chứng của phẫu thuật nhưng ngày nay đa số các<br />
phẫu thuật viên coi rò dịch não tuỷ trong mổ<br />
không phải là biến chứng. Trong 5 trường hợp<br />
này sau mổ không bị rò dịch não tuỷ, chỉ có một<br />
<br />
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
trường hợp sốt vài ngày sau mổ nhưng không<br />
có dấu hiệu của viêm màng não. Đồng Văn Hệ<br />
gặp một số trường hợp rò dịch não tuỷ sau mổ<br />
và được đặt dẫn lưu dịch não tuỷ ở tuỷ sống<br />
thắt lưng sau đó bệnh nhân hết rò (3).<br />
Đối với u sọ hầu chúng tôi chỉ mổ nội soi<br />
qua đường dưới khi u phát triển xuống sàn hố<br />
yên, trong khi mổ phải để lại vỏ bao chỉ lấy<br />
phần u đặc. Trong 6 trường hợp u sọ hầu sau<br />
mổ chúng tôi bị một trường hợp suy tuyến yên,<br />
rối loạn điện giải nặng, bệnh nhân hôn mê thẩm<br />
thấu gia đình bệnh nhân xin về. Thời gian nằm<br />
viện sau mổ trung bình là 3 ngày. Nó đủ đánh<br />
giá về những biến chứng sớm có thể xảy ra như<br />
chảy máu, dò dich não tuỷ, nhiễm trùng. Trong<br />
nghiên cứu của chúng tôi không có trường hợp<br />
nào bị nhiễm trùng mũi xoang hay viêm não,<br />
màng não.<br />
<br />
KẾT LUẬN<br />
Phẫu thuật nội soi kết hợp định vị<br />
Navigation u vùng hố yên là một phẫu thuật<br />
cho kết quả tốt, an toàn. Điểm quan trọng là có<br />
sự kết hợp chặt chẽ giữa các bác sỹ Phẫu Thuật<br />
Thần Kinh và các bác sỹ Tai Mũi Họng cùng hệ<br />
thống trang thiết bị phẫu thuật hiện đại gồm<br />
giàn máy nội soi và hệ thống định vị<br />
Navigation.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1.<br />
<br />
2.<br />
3.<br />
<br />
4.<br />
<br />
5.<br />
<br />
Abuzayed B et al (2009). Endoscopic endonasal, transsphenoidal<br />
approach to the sellar region: result of endosopic dissection on 30<br />
cadavers, Turkish Neurosurgery, 19, 3, 237-244.<br />
Aust MR, McCaffrey TV Atkinson J. (1998). Transnasal endosopic<br />
approach to the sella turcia. Am J Rhinol; 12, 4: 283-7<br />
Đồng Văn Hệ, Lý Ngọc Liên, Nguyễn Đức Hiệp và CS(2011).<br />
Phẫu thuật nội soi u tuyến yên. Y học thực hành, số 7 (774), 141143<br />
Kiều Đình Hùng, Nguyễn Thanh Xuân(2010) Đánh giá kết quả<br />
phẫu thuật u tuyến yên qua đường xoang bướm tại BV Việt Đức,<br />
Tạp chí Y Học lâm sàng, 52, trang 24-28.<br />
Kiều Đình Hùng, Nguyễn Tiến Hùng(2011) Ứng dụng nội soi<br />
trong phẫu thuật u tuyến yên tại BV Đại học Y Hà Nội. Tạp chí Y<br />
học thực hành, 12, 63-66<br />
<br />
151<br />
<br />