Nguyễn Thu Quỳnh<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
80(04): 31 - 36<br />
<br />
VÀI NÉT VỀ HỆ THỐNG THANH ĐIỆU TIẾNG PÀ THẺN<br />
Nguyễn Thu Quỳnh*<br />
Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Sư phạm - ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Trong mô tả về ngữ âm - âm vị học của hệ thống thanh điệu tiếng Pà Thẻn, đáng chú ý nhất là đặc<br />
trưng của những thanh có chất giọng thở hoặc hiện tượng tắc thanh hầu. Trên thực tế, một số thanh<br />
điệu tiếng Pà Thẻn không chỉ được nhận diện về âm vực và đường nét, mà còn có sự phân biệt ở<br />
chất giọng thở. Chính những tiêu chí khu biệt như kèm chất giọng thở hoặc tắc thanh hầu ở những<br />
mức độ khác nhau này đã giúp xác định được một hệ thống thanh điệu tiếng Pà Thẻn với số lượng<br />
khá phong phú: gồm 8 thanh điệu.<br />
Từ khóa: dân tộc, ngôn ngữ, Pà Thẻn, ngữ âm, thanh điệu<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ*<br />
Pà Thẻn (cũng còn có tên gọi khác là Pà<br />
Hưng, Mèo Đỏ, Mèo Hoa, Mèo Lài, Mán Pa<br />
Sèng, Mán Pa Teng, Bát Tiên Tộc...) là một<br />
trong 54 dân tộc ở nước ta, có dân số là 5.569<br />
người (Nguồn: thống kê năm 1999), cư trú<br />
chủ yếu ở hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang.<br />
Với số dân thuộc loại rất ít, lại sống xen kẽ<br />
với các dân tộc khác (Kinh, Tày, Hmông…),<br />
dân tộc Pà Thẻn hiện đang có nguy cơ mất<br />
dần những nét bản sắc trong văn hoá của<br />
mình hoặc bị pha trộn với các dân tộc khác.<br />
Tiếng Pà Thẻn cũng đứng trước tình trạng<br />
này: được sử dụng ít dần ở thế hệ trẻ, phạm vi<br />
giao tiếp có xu hướng bị thu hẹp, mức độ sử<br />
dụng ít đi, không có ngôn ngữ văn học…<br />
Chính vì vậy việc nghiên cứu tiếng Pà Thẻn<br />
có thể góp một phần giúp ngôn ngữ này thoát<br />
khỏi sự tiêu vong. Tuy nhiên, việc tìm hiểu<br />
ngôn ngữ Pà Thẻn từ trước đến nay chưa nhận<br />
được nhiều sự quan tâm đúng mức. Người<br />
đầu tiên nghiên cứu về tiếng Pà Thẻn ở Việt<br />
Nam là Nguyễn Minh Đức với bài viết Bước<br />
đầu tìm hiểu tiếng nói và chữ viết Pà Hưng<br />
(Pà Thẻn) (1972). Trong bài viết này, tác giả<br />
đó đề cập đến một vài nét về ngữ âm, từ<br />
vựng, ngữ pháp và chữ viết của ngôn ngữ Pà<br />
Thẻn. Tại hội thảo quốc tế về Việt Nam học<br />
(15 - 17/7/1998), các tác giả J. A.<br />
Edmondson, K. J. Gregerson và Nguyễn<br />
Văn Lợi cũng trình bày báo cáo với nhan đề<br />
Vài khía cạnh của ngôn ngữ các dân tộc<br />
thiểu số ở miền cực bắc Việt Nam: Dân tộc<br />
*<br />
<br />
Tel:0975459119<br />
<br />
Đồng, Thuỷ, Pà Thẻn của hai tỉnh Tuyên<br />
Quang, Hà Giang. Mục đích của nhóm tác<br />
giả báo cáo này là tìm kiếm ngôn ngữ nguyên<br />
bản của các dân tộc ở miền cực bắc Việt<br />
Nam, trong đó có dân tộc Pà Thẻn. Trong<br />
phạm vi của bài viết này, chúng tôi xin trình bày<br />
những hiểu biết ban đầu về hệ thống thanh điệu<br />
tiếng Pà Thẻn, một khía cạnh nhỏ trong ngữ âm<br />
tiếng Pà Thẻn - vấn đề mà lâu nay chưa được<br />
nhà nghiên cứu nào để tâm tìm hiểu.<br />
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br />
a. Thanh điệu và các tiêu chí khu biệt<br />
thanh điệu<br />
Trong ngữ âm học, thanh điệu được quan<br />
niệm là một âm vị siêu đoạn tính. Nó được<br />
biểu hiện trong toàn bộ âm tiết, chính xác hơn<br />
là trong toàn bộ phần thanh tính của âm tiết,<br />
là những biến đổi về độ cao của âm tiết kết<br />
hợp với các cấu âm đi kèm sự biến đổi này.<br />
Nói cách khác, thanh điệu là một đơn vị âm<br />
thanh tạo nên âm tiết, đồng thời có chức năng<br />
khu biệt ý nghĩa.<br />
Các thanh điệu có thể được phân biệt với<br />
nhau theo các tiêu chí âm vực và đường nét.<br />
Âm vực là độ cao của thanh điệu. Có nhiều<br />
cách khác nhau để xác định âm vực: dựa vào<br />
độ cao kết thúc của thanh điệu, hoặc dựa vào<br />
độ cao lúc mở đầu, hoặc căn cứ vào ấn tượng<br />
tổng quan… Đường nét là sự biến thiên của<br />
cao độ theo thời gian (còn gọi là “âm điệu”).<br />
Đường nét này có thể bằng phẳng hoặc không<br />
bằng phẳng, đi lên hoặc đi xuống.<br />
Vai trò khu biệt nghĩa của thanh điệu chủ yếu<br />
thuộc về âm vực và đường nét. Tuy nhiên, ở<br />
một số thanh còn xuất hiện thêm những cấu<br />
31<br />
<br />
Nguyễn Thu Quỳnh<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
âm bổ sung như hiện tượng nghẽn thanh hầu,<br />
kèm giọng thở… Những hiện tượng này cũng<br />
được coi là tiêu chí để khu biệt thanh điệu.<br />
Hiện tượng nghẽn thanh hầu là hiện tượng<br />
căng đặc biệt ở thanh hầu. Khi phát âm, có<br />
cảm giác tức ở thanh hầu do luồng không khí<br />
bị nghẽn lại, âm thanh đang phát ra bị mất đi,<br />
nhường chỗ cho một tiếng “rặn” nhỏ. Hiện<br />
tượng kèm giọng thở là hiện tượng xuất hiện<br />
khi gốc lưỡi nhích về phía trước một chút, tạo<br />
nên sự mở rộng khoang yết hầu cùng với tính<br />
chất sâu hơn tạo nên âm sắc trầm (hay tối,<br />
đục) và cả tiếng thì thào (hay thở, hà hơi).<br />
b. Hệ thống thanh điệu tiếng Pà Thẻn<br />
* Hệ thống thanh điệu tiếng Pà Thẻn theo<br />
những tài liệu trước đây<br />
Trong bài viết Bước đầu tìm hiểu tiếng nói<br />
và vấn đề chữ viết Pà Hưng (Pà Thẻn) in<br />
trong Tìm hiểu ngôn ngữ các dân tộc thiểu<br />
số ở Việt Nam (1972), tác giả Nguyễn Minh<br />
Đức đã dành một phần để trình bày về thanh<br />
điệu. Theo ông, tiếng Pà Thẻn gồm có năm<br />
thanh điệu như sau: thanh 1 (bằng cao) - ɲi1<br />
(đi), thanh 2 (bằng thấp) - ɲi2 (nông), thanh 3<br />
(thanh trũng) - ɲi3 (râu), thanh 4 (thanh lên)ɲi4 (nghẹn), thanh 5 (thanh xuống) -ɲi5<br />
(mang). pi1 tóc<br />
Tác giả Lí Vân Binh (Trung Quốc) cũng dành<br />
một phần nội dung trong công trình Bàn về vị<br />
trí Pà Hưng trong ngôn ngữ Mèo - Dao<br />
(1995) để nói về thanh điệu Pà Hưng (Pà<br />
Thẻn). Điều được tác giả Lí Vân Binh rút ra<br />
là: Các phương ngữ Pà Hưng cũng như các<br />
ngôn ngữ khác của tiếng Hmông - Miền đều<br />
vốn có bốn thanh điệu (theo các phạm trù A,<br />
B, C, D). Sau đó, trong quá trình phát triển,<br />
phần lớn các thanh điệu đều tự phân đôi. Có<br />
thể nói, đây là một nhận xét rất quan trọng<br />
trong việc phân xuất và miêu tả các âm vị<br />
thanh điệu tiếng Pà Thẻn. Nhận xét này có ý<br />
nghĩa định hướng, đòi hỏi sự tìm tòi, phân<br />
biệt kĩ lưỡng hơn hệ thống thanh điệu tiếng<br />
Pà Thẻn ở Việt Nam mà Nguyễn Minh Đức<br />
đã đề xuất.<br />
Trong Hội thảo quốc tế lần thứ nhất về Việt<br />
Nam học tại Hà Nội (1998), các tác giả J. A.<br />
Edmondson, K. J. Gregerson và Nguyễn Văn<br />
Lợi khi trình bày: Vài khía cạnh của ngôn<br />
32<br />
<br />
80(04): 31 - 36<br />
<br />
ngữ các dân tộc thiểu số miền cực bắc Việt<br />
Nam: dân tộc Đồng, Thuỷ, Pà Thẻn của hai<br />
tỉnh Tuyên Quang, Hà Giang đã chú ý miêu<br />
tả các thanh điệu tiếng Pà Thẻn Việt trong sự<br />
so sánh với tiếng Pà Thẻn ở Sanjiang, Lao<br />
Bao, Quảng Tây. Theo các tác giả của báo<br />
cáo này, ngôn ngữ gốc của tiếng Pà Thẻn có<br />
bốn thanh điệu. Bốn thanh điệu này phân tách<br />
thành tám (tức là A trở thành thanh điệu 1 và<br />
2, B trở thành thanh điệu 3 và 4, C trở thành<br />
thanh điệu 5 và 6, D trở thành thanh điệu 7 và<br />
8). Các tác giả cũng lưu ý đến hiện tượng tắc<br />
hay thu hẹp thanh hầu xuất hiện ở cuối các<br />
thanh 1, 3, 7 và giọng thở ở các thanh 2, 4, 6,<br />
8. Có thể nói, những ý kiến rất tinh tế và xác<br />
đáng này sẽ là những gợi ý khi tìm hiểu về hệ<br />
thống thanh điệu tiếng Pà Thẻn Việt trên lát<br />
cắt đồng đại.<br />
Tuy nhiên, cũng có thể do dung lượng của một<br />
báo cáo nên phần trình bày về phần thanh điệu<br />
chưa thật sự kĩ lưỡng. Các giá trị của thanh<br />
điệu ở một đôi chỗ cũng khiến chúng ta nghi<br />
ngờ khi các tác giả cho rằng thanh 6 - thanh<br />
điệu có âm vực khá cao lại xuất hiện “giọng<br />
thở” như các thanh có âm vực thấp khác.<br />
* Những điểm cần thảo luận<br />
• Trong khuôn khổ một bài viết, hệ thống<br />
thanh điệu (cũng như các khía cạnh ngữ âm<br />
khác) chưa được Nguyễn Minh Đức khảo sát<br />
và miêu tả kĩ, các ví dụ đưa ra chưa thật sự<br />
phong phú; một số điểm cần xem xét thêm<br />
hoặc xem xét lại để có thể đưa ra giải thuyết<br />
hợp lí hơn. Chẳng hạn, thế tương liên, sự đối<br />
ứng giữa các thanh điệu của hệ thống mà<br />
Nguyễn Minh Đức trình bày chưa trọn vẹn.<br />
Nếu như thanh 1, thanh 2 (cùng là thanh điệu<br />
có đường nét bằng phẳng); thanh 4, thanh 5<br />
(cùng là thanh điệu có đường nét không bằng<br />
phẳng) có sự đối lập nhau về cao độ (thanh 1,<br />
thanh 4: âm vực cao; thanh 2, thanh 5: âm vực<br />
thấp) tạo thành hai cặp thanh điệu thì thanh 3<br />
không nằm trong thế đối xứng với thanh điệu<br />
nào. Điều đó có thể khiến cho chúng ta nghi<br />
ngờ về sự đầy đủ của hệ thống thanh điệu này.<br />
Có thể tác giả đã bỏ qua một vài đặc điểm cấu<br />
âm bổ sung khi phân biệt thanh điệu khiến hệ<br />
thống này chỉ gồm năm thanh chăng?<br />
<br />
Nguyễn Thu Quỳnh<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
• Nhóm tác giả J. A. Edmondson, K. J.<br />
Gregerson, Nguyễn Văn Lợi đã đề xuất hệ<br />
thống gồm tám thanh điệu tiếng Pà Thẻn,<br />
nhiều hơn ba thanh trong nghiên cứu của<br />
Nguyễn Minh Đức. Sự khác nhau này có lẽ là<br />
do nhóm tác giả J. A. Edmondson đã phát<br />
hiện ra những hiện tượng cấu âm bổ sung như<br />
tắc hoặc thu hẹp thanh hầu, chất giọng thở<br />
xuất hiện kèm theo những tiêu chí âm vực và<br />
đường nét.<br />
Những hiện tượng cấu âm bổ sung này thực<br />
chất thuộc hiện tượng ngữ âm đã được gọi là<br />
“phonation”. Phonation là khái niệm dùng để<br />
chỉ những đặc trưng: hạ thấp thanh quản kèm<br />
theo sự mở rộng của lỗ mũi, co hẹp (hay mở<br />
rộng) thanh quản, dây thanh căng (hay không<br />
căng, chùng), lưỡi nhích lên phía trước (hay<br />
lùi lại phía sau), tăng cường (hay làm yếu đi)<br />
sự cộng hưởng ở khoang miệng, thuần chất<br />
(hay hà hơi), hiện tượng khép chặt hay tắc<br />
khe thanh (tắc họng, tắc thanh quản)…<br />
Những đặc trưng cấu âm này thường được<br />
thực hiện chủ yếu ở khoang thanh hầu và<br />
phần ngay trên của khoang yết hầu với sự<br />
tham gia của dây thanh, gốc lưỡi và khẩu<br />
mạc. ấn tượng về sự nghẽn giọng (tắc thanh<br />
hầu) có cơ sở cấu âm là hai dây thanh khép<br />
hẳn lại rồi bật mở, không cho luồng hơi thoát<br />
qua tự do. Hiện tượng kèm chất giọng thở<br />
xuất hiện khi gốc lưỡi nhích về phía trước<br />
một chút, tạo nên tính chất sâu và sự mở rộng<br />
của khoang yết hầu. Trên thực tế, tiếng thở<br />
(thì thào) trong khoang yết hầu xuất hiện khi<br />
phát âm các thanh điệu có cao độ thấp. Sự<br />
tăng cường thể tích của khoang yết hầu làm<br />
cho các thanh điệu này càng trở nên thấp hơn.<br />
Theo nhóm tác giả J. A. Edmondson, hiện<br />
tượng nói trên (cụ thể là tắc thanh hầu và<br />
giọng thở) được xem là một tiêu chí để khu<br />
biệt thanh điệu. Các tác giả đã chỉ ra ba thanh<br />
điệu có hiện tượng tắc thanh hầu và bốn thanh<br />
điệu có kèm giọng thở. Đây là một việc làm<br />
có ý nghĩa và hết sức cần thiết bởi có thể, có<br />
các thanh điệu cùng tiêu chí cao độ và đường<br />
nét, chỉ khác nhau ở hiện tượng tắc hay không<br />
tắc thanh hầu, có hay không có giọng thở.<br />
Tuy nhiên trong hệ thống thanh điệu của J. A.<br />
Edmondson, thanh 5 (55) không thấy được<br />
<br />
80(04): 31 - 36<br />
<br />
nhắc đến cùng với những đặc trưng cấu âm<br />
này. Điều đó cũng có thể khiến chúng ta băn<br />
khoăn: Liệu có sự đối lập giữa những nét ngữ<br />
âm: tắc thanh hầu/ không tắc thanh hầu, kèm<br />
giọng thở/ không kèm giọng thở trong hệ<br />
thống thanh điệu tiếng Pà Thẻn? Ngoài ra, hệ<br />
thống thanh điệu mà nhóm J. A. Edmondson<br />
trình bày có một số thanh gần gũi nhau không<br />
chỉ về đường nét, âm vực mà còn cùng có<br />
hiện tượng tắc thanh hầu hay giọng thở,<br />
chẳng hạn thanh 4 và thanh 8, thanh 3 và<br />
thanh 7. Theo chúng tôi, có thể các thanh điệu<br />
này của tiếng Pà Thẻn còn có sự phân biệt<br />
khác nữa, chẳng hạn về cách thức tắc thanh<br />
hầu và chất lượng giọng thở kèm theo hiện<br />
tượng xiết chặt hay chặt vừa của dây thanh,<br />
hoặc hiện tượng dây thanh tách ra hầu như<br />
toàn bộ chiều dài hay chỉ một đoạn.<br />
• Khi miêu tả về hệ thống thanh điệu tiếng Pà<br />
Thẻn, cả Nguyễn Minh Đức và nhóm J. A.<br />
Edmondson đều dựa vào tiêu chí về âm vực<br />
và đường nét. Sự khác nhau của các tác giả là<br />
ở chỗ: Theo Nguyễn Minh Đức, thanh điệu<br />
tiếng Pà Thẻn có sự phân biệt về đường nét<br />
bằng phẳng hay không bằng phẳng; còn theo<br />
J. A. Edmondson, đường nét của các thanh<br />
điệu đều bằng phẳng (đi lên, đi xuống hoặc đi<br />
ngang). Xuất phát từ quan niệm của mình,<br />
Nguyễn Minh Đức đã miêu tả thanh 3 là một<br />
thanh “trũng”, xuất phát cao hơn thanh 4, đi<br />
xuống thấp nhất so với các thanh điệu khác<br />
rồi lại tiếp tục đi lên. Cao độ kết thúc của<br />
thanh 3 xấp xỉ với điểm xuất phát của thanh 4.<br />
Trên thực tế, ấn tượng về đường nét “trũng”<br />
của Nguyễn Minh Đức có thể do hiện tượng<br />
tắc thanh hầu đem lại. Khi phát âm âm tiết có<br />
âm này, khe thanh có giai đoạn khép lại nhưng<br />
không quá chặt ở một âm vực không quá thấp,<br />
sau đó mở ra để lại ấn tượng về một sự diễn<br />
tiến thoáng qua của âm vực cao (J.A.<br />
Edmondson gọi đây là hiện tượng “nhả âm thứ<br />
sinh”). Có thể đây là cơ sở để Nguyễn Minh<br />
Đức hình dung thanh này có tính chất “trũng”.<br />
* Miêu tả và phân loại hệ thống thanh điệu<br />
tiếng Pà Thẻn<br />
Miêu tả các thanh điệu tiếng Pà Thẻn:<br />
Bằng cảm thụ thính giác và dựa trên kết quả<br />
nghiên cứu bằng máy của nhóm tác giả<br />
33<br />
<br />
Nguyễn Thu Quỳnh<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Nguyễn Văn Lợi, có thể nhận thấy, các thanh<br />
điệu tiếng Pà Thẻn có những biểu hiện về cao<br />
độ (âm vực) và diễn biến cao độ (đường nét)<br />
theo thời gian như sau:<br />
• Thanh 1: xuất phát ở cao độ rất cao, đường<br />
nét đi ngang và kết thúc ở cao độ tương tự<br />
như lúc xuất phát; trường độ tương đối dài; có<br />
thể được kí hiệu bằng các số 55. Ví dụ: ta33<br />
pi55 (rận); ɡwi55 (móng); kɛ55 te55 (cánh); ʔa43<br />
ʔo55 (anh); vɔ21 βɯ55 (chúng tao); ʑɯ55 (gạo);<br />
zɛ55 (thuốc); kɔ55 (cháo)…<br />
• Thanh 2: xuất phát ở cao độ trung bình,<br />
đường nét đi ngang và kết thúc ở cao độ<br />
tương tự như lúc xuất phát; trường độ dài; có<br />
thể được kí hiệu bằng các số 33. Ví dụ:tɤ33<br />
kɔ33 (sừng); tɤ33 ɬɯ33 ŋa33 (ngà); phĩ33 tɕɯ33<br />
(mỏ); ʔa33 khuŋ33 mĩ24 (mắt); ve33 ɡɛ33 (lợi);<br />
bo33 (lúa); di33 (vải); li33 (cày); pɤ33 (hoa)…<br />
Đường nét bằng phẳng của thanh 2 gần giống<br />
như thanh 1, sự đối lập còn lại ở đây là cao<br />
độ. Thanh 2 có cao độ thấp hơn. Giá trị âm vị<br />
học của đặc trưng này được khẳng định trong<br />
các cặp từ tối thiểu có thanh 1 và thanh 2 như<br />
sau: ko55(cũ) ∼ ko33(xa), pɤ55 (nằm) pɤ33(hoa),<br />
ka43 tɕɔ55 (năm) ∼ ʔa33 tɕɔ33 (cái nồi)…<br />
• Thanh 3: xuất phát ở cao độ xấp xỉ thanh 1,<br />
đường nét đi ngang khi mới xuất phát sau đó<br />
đi xuống ở cao độ xấp xỉ như thanh 2 kèm<br />
theo hiện tượng tắc thanh hầu ở cuối giai<br />
đoạn phát âm; trường độ tương đối dài; có thể<br />
được kí hiệu bằng các số 53. Ví dụ: ta33 kɯ53<br />
(ếch); ta33 kɯ33 lũ53(dòi); ta33 ɬɯ53 (rết); ɲi53<br />
(khâu, may); tɕa53 (cười); lɔ53 (lột); dã53 (đan);<br />
tɕe53 (nhớ)…<br />
Thanh 1 và thanh 3 có các đường nét cao độ<br />
tương tự nhưng thanh 3 đi xuống còn thanh 1<br />
bằng phẳng. Giá trị âm vị học của đặc trưng<br />
này được khẳng định trong các cặp từ tối<br />
thiểu có thanh 1 và thanh 3 như sau: tɤ55 (ra)<br />
∼ ʔa43 tɤ53 (bà ngoại), ʔa43 thɛ55 (than) ∼ thɛ53<br />
hĩ53 (thường)…<br />
• Thanh 4: xuất phát ở cao độ thấp, đường<br />
nét lúc đầu bằng phẳng đi ngang, sau đó đi<br />
lên và kết thúc ở cao độ cao hơn cao độ kết<br />
thúc của thanh 2 và thanh 3; trường độ dài; có<br />
thể được kí hiệu bằng các số 24. Ví dụ: ta33<br />
ɡɛ33 kwɔ24(gấu); ta33 ɸe24 (tê tê); ta33 mũ24<br />
(chim); pi33 mĩ24 (lông mày); ɕũ43 ʑa43 βje24<br />
(xương sườn); kho24 (khố); ʔa33 ɸi24 (lược)…<br />
34<br />
<br />
80(04): 31 - 36<br />
<br />
• Thanh 5: xuất phát ở cao độ tương đối cao,<br />
thấp hơn thanh 1 và thanh 3 một chút, đường<br />
nét hơi đi xuống thoai thoải, kết thúc ở cao độ<br />
thấp hơn thanh 2 và thanh 3 một chút, có hiện<br />
tượng tắc nhẹ ở thanh hầu ở cuối giai đoạn<br />
phát âm; trường độ ngắn hơn thanh 3 một<br />
chút; có thể được kí hiệu bằng các số 42. Ví<br />
dụ: m53 hĩ42 (hôm nay); kɛ55 hĩ42 (hôm qua);<br />
tɤ33 pa42 (thân cây); ʔa33 tɕhɤ42 pa42 (gốc); ʔa33<br />
la43 tɔ42 (sống dao); pja42 (năm - 5)…<br />
• Thanh 6: xuất phát ở cao độ xấp xỉ thanh 5<br />
một chút, đường nét thoạt đầu bằng phẳng sau<br />
đó hơi đi xuống, kết thúc ở cao độ xấp xỉ với<br />
cao độ lúc xuất phát, kèm theo tiếng nghẽn ở<br />
thanh hầu ở cuối giai đoạn phát âm; trường độ<br />
ngắn; có thể được kí hiệu bằng các số 43. Ví<br />
dụ: ʔa43 ɕi43 (tro); pĩ43 (gỗ); ka43 te55 (buổi<br />
sáng); tɕo43 bo33 (bông lúa); pje43 tɕɤ55 (cà);<br />
ta33 kwɤ43 (diều hâu); tɤ33 tɤ43 (đuôi)…<br />
Thanh 3 và thanh 6 cùng có cao độ kết thúc<br />
và cùng có tắc thanh hầu. Sự đối lập ở đây là<br />
ở cao độ xuất phát: thanh 3 có cao độ xuất<br />
phát cao hơn. Giá trị âm vị học của đặc trưng<br />
này được khẳng định trong các cặp từ tối<br />
thiểu có thanh 3 và thanh 6 như sau: ʔa43 tɤ53<br />
(bà ngoại) ∼ tɤ33 tɤ43 (đuôi), ta33 ka53 (con dúi)<br />
∼ʑo43 ka43 (nôn)...<br />
Sự thể hiện của thanh 5 và thanh 6 gần giống<br />
nhau. Nét khác nhau cơ bản để phân biệt giữa<br />
hai thanh điệu này là ở chất lượng của hiện<br />
tượng tắc thanh hầu. Thanh 6 dây thanh có<br />
hiện tượng xiết chặt tạo ra hiện tượng tắc<br />
nghẽn hoàn toàn. Thanh 5 tắc thanh hầu nhẹ,<br />
dây thanh khép chưa thật chặt, chưa đến mức<br />
tắc hoàn toàn. Giá trị âm vị học của đặc trưng<br />
này được khẳng định trong các cặp từ tối<br />
thiểu có thanh 5 và thanh 6 như sau: ʔa33 hĩ42<br />
(mặt trời) ∼ pa43 hĩ43 (ná), ʔa33 tɕɤ42 (giỏ) ∼<br />
tɕɤ43 (rượu), ʔa43 ɬɔ42 (óc) ∼ lɔ43 (ngắn)...<br />
• Thanh 7: xuất phát ở cao độ thấp xấp xỉ<br />
thanh 4, đường nét đi xuống khá bằng phẳng<br />
với độ dốc vừa phải; trường độ ngắn; kết thúc<br />
ở cao độ rất thấp có kèm chất giọng thở; có<br />
thể được kí hiệu bằng các số 21. Ví dụ: ʔa43<br />
ko21 pa42 (cành); ta33 nĩ21 (chuột); ta33 kĩ21<br />
(chuồn chuồn); βe33 ta33 ma21 (mật ong); tɤ33<br />
pɯ21 (tay); ʔa33 tɕo21 (cối); tɕĩ21 (lạnh)...<br />
• Thanh 8: xuất phát ở cao độ trung bình, xấp<br />
xỉ cao độ xuất phát của thanh 2, đường nét đi<br />
<br />
Nguyễn Thu Quỳnh<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
xuống khá bằng phẳng với độ dốc vừa phải;<br />
trường độ dài; kết thúc ở cao độ rất thấp có<br />
kèm chất giọng thở; có thể được kí hiệu bằng<br />
các số 31. Ví dụ: mã31 hĩ42 (mùa); ʔa33 βjɔ31 pa42<br />
(ngọn); ʔa43 βje31 (ớt); ko31 pe33 (đùi); ʔa33 pɔ31<br />
(búa); ʔa33 mɔ31 (lưới); ʔa33 kɔ31 ʑi31(cái ghế)…<br />
Thanh 7 và thanh 8 có sự thể hiện gần giống<br />
nhau. Cùng là thanh có âm vực rất thấp có<br />
kèm giọng thở. Hai thanh này chỉ phân biệt ở<br />
cao độ xuất phát (thanh 8 cao hơn thanh 7<br />
một chút) và ở chất lượng giọng thở. Trong<br />
thanh 8, dây thanh tách ra một đoạn ngắn,<br />
lưỡi hơi nhích về phía trước. Thanh 7 cấu âm<br />
sâu hơn khi dây thanh tách ra hầu như toàn bộ<br />
chiều dài, lưỡi nhích lên phía trước nhiều hơn<br />
khiến giọng thở của thanh 7 sâu hơn, rõ rệt<br />
hơn. Trong trường hợp này, hiện tượng kèm<br />
giọng thở là một tiêu chí quan trọng để khu<br />
biệt thanh điệu. Giá trị âm vị học của đặc<br />
trưng này được khẳng định trong các cặp từ<br />
tối thiểu có thanh 7 và thanh 8 như sau: tɛ21<br />
ɕi43 (mồ côi) ∼ ʔa33 tɛ31 (cái bát), tɤ21 (củi)<br />
∼ tɤ31 tɕɤ43(dâng rượu)...<br />
Phân loại thanh điệu tiếng Pà Thẻn:<br />
Từ những mô tả ở trên, các thanh điệu tiếng<br />
Pà Thẻn có thể được khu biệt theo những tiêu<br />
chí khác nhau: hoặc theo âm vực, hoặc theo<br />
âm điệu, hoặc theo hiện tượng tắc thanh hầu,<br />
hoặc theo hiện tượng kèm giọng thở.<br />
Về âm vực, có thể phân biệt hai loại thanh<br />
căn cứ vào những nét khu biệt: thanh điệu có<br />
âm vực cao: thanh 1, thanh 3, thanh 4; thanh<br />
điệu có âm vực thấp: thanh 2, thanh 5, thanh<br />
6, thanh 7, thanh 8.<br />
Về đường nét, có thể phân biệt hai loại thanh<br />
căn cứ vào những nét khu biệt: thanh điệu<br />
bằng đi ngang: thanh 1, thanh 2, thanh điệu<br />
bằng đi lên hoặc đi xuống: thanh 3, thanh 4,<br />
thanh 5, thanh 6, thanh 7, thanh8.<br />
Trong thanh điệu bằng đi lên hoặc đi xuống,<br />
có thể phân biệt: thanh điệu có kèm hiện<br />
tượng tắc thanh hầu: thanh 3, thanh 5, thanh<br />
6; thanh điệu không kèm hiện tượng tắc thanh<br />
hầu: thanh 4, thanh 7, thanh 8<br />
Dựa vào tiêu chí tắc thanh hầu nhẹ hoặc<br />
mạnh, có thể tiếp tục phân biệt thanh 5 và<br />
thanh 6. Dựa vào tiêu chí kèm giọng thở sâu<br />
và không sâu, kết hợp với âm vực, có thể<br />
phân biệt thanh 7 và thanh 8.<br />
<br />
80(04): 31 - 36<br />
<br />
KẾT LUẬN<br />
Nếu như ngữ điệu là đặc trưng của câu, trọng<br />
âm là đặc trưng của từ thì thanh điệu là đặc<br />
trưng của âm tiết. Không phải ngôn ngữ nào<br />
cũng có thanh điệu. Thanh điệu có chức năng<br />
khu biệt ý nghĩa nên thanh điệu tiếng Pà Thẻn<br />
được xem là âm vị chân thực. Hệ thống thanh<br />
điệu tiếng Pà Thẻn gồm có 8 thanh. Các thanh<br />
được khu biệt theo các tiêu chí: âm vực, âm<br />
điệu, hiện tượng kèm giọng thở hoặc hiện<br />
tượng tắc thanh hầu; trong đó đáng chú ý là<br />
hiện tượng kèm giọng thở. Thanh có dây<br />
thanh tách ra hầu như toàn bộ chiều dài, lưỡi<br />
nhích lên về phía trước nhiều hơn sẽ có cấu<br />
âm và chất giọng thở sâu hơn thanh được phát<br />
âm với dây thanh chỉ tách ra một đoạn ngắn<br />
và lưỡi hơi nhích về phía trước. Ở những<br />
thanh cùng có hiện tượng tắc thanh hầu thì sự<br />
phân biệt là ở chỗ: thanh được phát âm với<br />
dây thanh khép chưa thật chặt, chưa đến mức<br />
tắc hoàn toàn là thanh tắc thanh hầu nhẹ;<br />
thanh có dây thanh xiết chặt là thanh tắc<br />
thanh hầu hoàn toàn. Từ kết quả nghiên cứu,<br />
bước đầu tác giả bài viết đề nghị hệ thống<br />
thanh điệu tiếng Pà Thẻn gồm 8 thanh: Thanh<br />
1(55), Thanh 2 (33), Thanh 3 (53ʔ), Thanh 4<br />
(24), Thanh 5 (42ʔ), Thanh 6 (43ʔ), Thanh 7<br />
(21), Thanh 8 (31).<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1]. Lí Vân Binh (1995), Bàn về vị trí Pà Hưng<br />
trong ngôn ngữ Mèo Dao, Luận văn thạc sĩ Đại<br />
học Dân tộc trung ương, Trung Quốc.<br />
[2]. Nguyễn Văn Chỉnh (1971), Từ điển Mèo Việt, Nxb KHXH, H.<br />
[3]. Hoàng Cao Cương (2002), “Bước đầu tìm<br />
hiểu về biểu diễn âm vị học tiếng Việt”, Những<br />
vấn đề ngôn ngữ học (Kỉ yếu Hội nghị khoa học<br />
2001), Phòng Thông tin Ngôn ngữ học, H, tr. 37 48.<br />
[4]. Khổng Diễn, Bùi Minh Đạo (chủ biên) (2003),<br />
Dân tộc học Việt Nam - thế kỉ XX và những năm<br />
đầu thế kỉ XXI, Nxb KHXH, H.<br />
[5]. Trần Trí Dõi (1999), Nghiên cứu ngôn ngữ<br />
các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb ĐHQG, H.<br />
[6]. Lê Duy Đại, Triệu Đức Thanh (chủ biên)<br />
(2004), Các dân tộc ở Hà Giang, Nxb Thế giới Trung tâm Thông tin văn hoá các dân tộc, H.<br />
[7]. Edmondson J. A., Gregerson K. J., Nguyễn<br />
Văn Lợi (2001), “Vài khía cạnh của ngôn ngữ các<br />
dân tộc thiểu số miền cực bắc Việt Nam: Dân tộc<br />
<br />
35<br />
<br />