intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vai trò của 18-FDG-PET/CT trong điều trị xạ trị lập thể định vị thân ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm: phân tích dựa trên ca lâm sàng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

33
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Xạ trị lập thể định vị thân được chỉ định điều trị cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm (T1-2aN0M0) không có chỉ định điều trị phẫu thuật do có bệnh kết hợp nặng hoặc bệnh nhân từ chối phẫu thuật. Bài viết bàn luận về vai trò của 18-FDG-PET/ CT trong điều trị xạ trị lập thể định vị thân ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vai trò của 18-FDG-PET/CT trong điều trị xạ trị lập thể định vị thân ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm: phân tích dựa trên ca lâm sàng

  1. NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG Vai trò của 18-FDG-PET/CT trong điều trị xạ trị lập thể định vị thân ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm: phân tích dựa trên ca lâm sàng Phạm Văn Luận1, Nguyễn Đình Tiến1, Lê Ngọc Hà2 Khoa Nội Hô hấp, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 1 2 Khoa Y học hạt nhân, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 TÓM TẮT ĐẶT VẤN ĐỀ Đặt vấn đề: Xạ trị lập thể định vị thân được chỉ Phẫu thuật là biện pháp hiệu quả nhất ở bệnh định điều trị cho bệnh nhân ung thư phổi không tế nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN) bào nhỏ giai đoạn sớm (T1-2aN0M0) không có chỉ giai đoạn sớm (T1-2aN0M0). Tuy nhiên, có định điều trị phẫu thuật do có bệnh kết hợp nặng khoảng 20% trong số bệnh nhân này không có chỉ hoặc bệnh nhân từ chối phẫu thuật. Các nghiên định phẫu thuật do có bệnh lý nặng kết hợp như cứu cho thấy hiệu quả của phương pháp này tương COPD, nhồi máu cơ tim, suy tim,… hoặc bệnh đương với phẫu thuật ở giai đoạn sớm của bệnh. Để nhân từ chối phẫu thuật [1]. Do đó, một biện điều trị xạ trị lập thể cho bệnh nhân ung thư phổi pháp điều trị triệt căn không xâm lấn thay thế cho không tế bào nhỏ cần đánh giá đúng giai đoạn sớm phẫu thuật là hết sức quan trọng và cần thiết. Xạ của bệnh, lập kế hoạch điều trị chính xác và cần lựa trị lập thể định vị thân (Stereotactic body radiation chọn phương pháp đánh giá đáp ứng sau điều trị. therapy - SBRT) là một biện pháp hữu hiệu để Mục tiêu: Bàn luận về vai trò của 18-FDG-PET/ thay thế trong trường hợp này. SBRT được coi là CT trong điều trị xạ trị lập thể định vị thân ở bệnh một phẫu thuật không xâm lấn, kỹ thuật này đã nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm. khắc phục được các nhược điểm của kỹ thuật xạ trị Kết luận: 18-FDG-PET/CT có vai trò quan thông thường, cho phép nâng liều điều trị tại khối trọng trong đánh giá chính xác giai đoạn ung thư u và giảm liều chiếu đối với các tổ chức lành xung phổi không tế bào nhỏ, lập kế hoạch xạ trị lập thể quanh, do đó làm tăng khả năng kiểm soát khối u định vị định vị thân và đánh giá đáp ứng sau điều trị đồng thời làm giảm các tai biến, biến chứng đối xạ trị lập thể định vị thân ở bệnh nhân ung thư phổi với tổ chức lành. Các nghiên cứu đã cho thấy kỹ không tế bào nhỏ giai đoạn sớm. thuật này cho kết quả điều trị tốt hơn xạ trị thông Từ khóa: Xạ trị lập thể định vị thân, ung thư thường và tương đương với phẫu thuật ở các bệnh phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm, 18-FDG- nhân UTPKTBN giai đoạn sớm với tỷ lệ kiểm soát PET/CT. tại chỗ từ 88 – 94%, thời gian sống thêm sau 2 – 3 Ngày nhận bài: 18/11/2020 Ngày phản biện: 21/12/2020 Ngày chấp nhận đăng: 29/12/2020 TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 21/20210 121
  2. NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG năm từ 43 – 88% [1],[2],[3]. Để có thể chỉ định 5/2015 đi khám sức khỏe định kỳ tình cờ phát SBRT, bệnh nhân cần được đánh giá chính xác giai hiện nốt mờ thùy trên bên phải kích thước 2 cm, đoạn sớm của bệnh, được lập kế hoạch điều trị xạ không thấy tổn thương khác trên phim cắt lớp vi trị chính xác và có biện pháp đánh giá đáp ứng sau tính ngực – bụng, không có triệu chứng lâm sàng điều trị phù hợp để đưa ra hướng điều trị tiếp theo. đi trước. Bệnh nhân được soi phế quản sinh thiết PET/CT là một phương pháp không chỉ có giá trị chẩn đoán mô bệnh học ung thư biểu mô tuyến, trong chẩn đoán hình ảnh mà còn đánh giá được chụp MRI sọ não, xạ hình xương đều không có di sự thay đổi chức năng chuyển hóa của tế bào, giúp căn. Chụp PET/CT xác định kích thước u phổi là 3 phát hiện các tổn thương di căn hạch và di căn xa cm, tăng chuyển hóa FDG với giá trị SUVmax bằng dù là kích thước rất nhỏ, cho phép đánh giá đúng 10, không có tổn thương tăng chuyển hóa FDG ở vị giai đoạn bệnh [4],[5]. Bên cạnh đó PET/CT còn trí khác. Có sự chênh lệch về kích thước u phổi trên giúp cho việc xác định chính xác thể tích điều trị hình ảnh cắt lớp vi tính và PET/CT là do, PET/ trong lập kế hoạch xạ trị và theo dõi đáp ứng sau CT đánh giá cả chức năng chuyển hóa thông qua điều trị [6-8]. Mục tiêu của bài báo này là bàn luận sự bắt FDG của các tế bào ung thư. Vì vậy, trên CT về vai trò của 18-FDG-PET/CT trong điều trị xạ ngực chỉ xác định kích thước u phổi là 2 cm, nhưng trị lập thể định vị thân ở bệnh nhân ung thư phổi trên PET/CT, diện tổn thương có tăng chuyển hóa không tế bào nhỏ giai đoạn sớm thông qua một ca FDG có kích thước lớn hơn. Bệnh nhân được chẩn lâm sàng điển hình. đoán giai đoạn Ia (T1N0M0), đo chức năng hô hấp bình thường, có chỉ định phẫu thuật cắt thùy trên GIỚI THIỆU CA BỆNH phổi phải, tuy nhiên bệnh nhân từ chối phẫu thuật. Bệnh nhân H.T.L, sinh năm 1957, tiền sử hút Chúng tôi lựa chọn điều trị SBRT cho bệnh nhân thuốc lá 20 bao – năm, Gout mạn tính. Tháng với liều 3000cGy trong 1 phân liều. Hình 1,2. Hình ảnh CT, PET/CT trước điều trị và sau 3 tháng 122 TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 21/2021
  3. NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG Sau điều trị SBRT bệnh nhân không cần điều tổn thương cung sau xương sườn 5 bên phải. Do trị bổ trợ gì thêm và được theo dõi, đánh giá mỗi đó, bệnh nhân được đánh giá bệnh tiến triển. Qua 3 tháng cho đến 12 tháng, sau đó đánh giá mỗi 6 trường hợp bệnh nhân này có thể thấy, nhờ có tháng bằng CT ngực, bụng, MRI sọ não, xạ hình PET/CT, bệnh nhân ung thư phổi không tế bào xương. Ở thời điểm 3 tháng sau điều trị bệnh nhân nhỏ giai đoạn sớm điều trị bằng SBRT đã có được được chụp thêm PET/CT để đánh giá, kết quả cho chiến lược xử trí phù hợp, mang lại hiệu quả điều thấy, trên hình ảnh cắt lớp vi tính, khối u đạt bệnh trị cho người bệnh, cũng như tránh được việc chỉ ổn định theo tiêu chuẩn RECIST 1.1, nhưng trên định điều trị bổ trợ toàn thân quá sớm hoặc quá hình ảnh PET/CT, giá trị SUVmax đã giảm xuống muộn cho bệnh nhân. 5,4 so với SUVmax 10 trước điều trị và không có tổn thương mới xuất hiện. Do đó, bệnh nhân được đánh BÀN LUẬN giá đáp ứng 1 phần. Vai trò của PET/CT trong chẩn đoán chính xác giai đoạn trước điều trị SBRT 80% các trường hợp ung thư phổi được phát hiện khi đã ở giai đoạn muộn với các triệu chứng như ho có hoặc không có máu, đau ngực, khó thở, sút cân… hoặc triệu chứng của cơ quan bị di căn [1]. Vì vậy, phát hiện sớm các tổn thương phổi có vai trò rất quan trọng. Các nốt tổn thương ở phổi ở giai đoạn sớm thường được phát hiện tình cờ không có triệu chứng, một số ít có triệu chứng nhưng mờ nhạt nên dễ bị bỏ qua hoặc phát hiện khi sàng lọc Hình 2, 3. Hình ảnh tổn thương thời điểm 40 và 46 ung thư phổi ở những người có yếu tố nguy cơ cao, tháng thông qua các phương tiện chẩn đoán như Xquang Đến tháng thứ 40 sau điều trị SBRT, trên ngực chuẩn hay CT ngực. Với một nốt tổn thương hình ảnh CT ngực, kích thước của khối u to lên, ở phổi, độ nhạy, độ đặc hiệu của các phương pháp ngấm thuốc ít và không có tổn thương cơ quan chẩn đoán hình ảnh trong việc định hướng lành khác, đánh giá theo RECIST 1.1, có lẽ bệnh tiến tính hay ác tính là khác nhau. Trong PET/CT có triển tại chỗ. Tuy nhiên, trên hình ảnh PET/CT, sự kết hợp giữa PET để đánh giá về mức độ chuyển không thấy có sự tăng chuyển hóa FDG ở vị trí hóa tế bào với CT để đánh giá về mặt giải phẫu của khối u nguyên phát cũng như vị trí khác, do đó, khối u, từ đó cho phép đánh giá chính xác hơn về bệnh nhân vẫn được đánh giá đáp ứng hoàn toàn bản chất, vị trí của khối u được phát hiện. Với giá trị về chuyển hóa, không có chỉ định điều trị gì thêm. lớn nhất của nồng độ hấp phụ chuẩn (maximum 6 tháng tiếp theo, bệnh nhân có cảm giác đau tức Standard Uptake Value - SUVmax) tại 2,5 được vùng ngực lưng bên phải, không lan xuyên, không lấy làm chỉ số cut-off để phân biệt giữa tổn thương ho khạc, không khó thở, đánh giá trên CT ngực, lành tính và ác tính trên PET/CT. Độ nhạy và độ khối u không thay đổi kích thước so với tháng thứ đặc hiệu của PET/CT với nốt mờ đơn độc ở phổi 40, nhưng trên PET/CT, đã có sự tăng chuyển qua các nghiên cứu có sự khác nhau nhỏ, nhưng hóa FDG tại khối u nguyên phát, hạch nhóm 5 và nhìn chung là 95 – 97% và 82 – 85% theo lần TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 21/20210 123
  4. NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG lượt[9],[10], giá trị dự báo dương là 91%, giá trị dự báo âm là 90%. Vai trò trong đánh giá giai đoạn khối u FDG PET/CT có giá trị quan trọng trong xác định kích thước, vị trí, mức độ xâm lấn của khối ung thư phổi đối với các tổ chức xung quanh. Đặc biệt, PET/CT tỏ ra ưu thế hơn CT và MRI ngực trong việc phân biệt ranh giới giữa khối u phổi với tổ chức phổi bị xẹp do tắc nghẽn hoặc phân biệt với viêm phổi. Điều này rất quan trọng vì liên quan đến chỉ định điều trị, đặc biệt là xạ trị [4],[11],[12]. Các khuyến cáo hiện nay đều ưu tiên lựa chọn PET/ Hình 5. Trên CT có hạch nhỏ trung thất bên phải (a) CT để đánh giá giai đoạn khối u trước khi chỉ định và nghi ngờ có hạch rốn phổi phải (b). Trên PET/CT điều trị nếu có điều kiện [1]. Với bệnh nhân của các hạch này ngấm FDG mạnh hướng đến hạch ác tính chúng tôi, PET/CT đã cho kết quả kích thước nốt do di căn từ khối ung thư phổi. Do đó, bệnh nhân này tổn thương là 3 cm, lớn hơn so với kích thước trên không thể điều trị bằng SBRT [5] phim CT ngực trước đó là 2 cm. Điều này rất quan trong trong việc lập kế hoạch điều trị, bởi nếu vẽ các Về kích thước hạch, một nghiên cứu phân tích đường thể tích điều trị theo phim CT ngực sẽ có gộp 20 nghiên cứu với 3028 bệnh nhân UTPKTBN vùng tổn thương bị bỏ sót, không nhận được liều đã cho thấy, với hạch 16 mm UTPKTBN, so sánh giữa giá trị của PET/CT và trên CT nhưng không ngấm FDG trên PET/CT, do CT trong đánh giá hạch rốn phổi trung thất cho kết đó số bệnh nhân này phải được sinh thiết hạch qua quả độ nhạy và độ đặc hiệu lần lượt là 83% (66 – nội soi trung thất hoặc nội soi lồng ngực[4]. Các 100%) và 92% (81 – 100%) cho PET/CT, trong khuyến cáo hiện nay với hạch rốn phổi trung thất khi đó CT lần lượt là 59% (20 – 81%) và 78% (44 dù có tăng chuyển hóa FDG hay không tăng chuyển – 100%), độ chính xác cũng được báo cáo là PET/ hóa nhưng nghĩ nhiều đến ác tính đều nên được CT cao hơn so với CT (p0,05)[4]. và chọc hút xuyên thành phế quản qua nội soi phế 124 TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 21/2021
  5. NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG quản siêu âm – EBUS-TBNA để có chẩn đoán xác xác định một khối tổn thương ở tuyến thượng thận định giai đoạn trước điều trị [1],[5]. Với sự kết hợp là lành tính hay ác tính so với việc xác định trên CT. của nhiều biện pháp chẩn đoán, cơ hội để bệnh Đã có nhiều nghiên cứu xác định tổn thương di căn nhân có thể lựa chọn các biện pháp điều trị triệt căn tuyến thượng thận từ ung thư phổi bằng PET/CT, bằng phẫu thuật hoặc SBRT tăng lên, bên cạnh đó, kết quả thu được hầu như không có sự khác biệt cũng làm giảm tỉ lệ các trường hợp chỉ định điều trị nhiều với độ nhạy là 94 – 97% và độ đặc hiệu là 82 - triệt căn khi thực tế đã giai đoạn muộn. 86% [15]. Một nghiên cứu khác đưa ra độ chính xác Vai trò trong đánh giá di căn xa của PET/CT đối với di căn tuyến thượng thận là Với các bệnh nhân giai đoạn sớm được chẩn 95%, giá trị dự báo dương là 95%, giá trị dự báo âm đoán bằng các biện pháp chẩn đoán hình ảnh khác là 94% [39]. Hiện nay, PET/CT được lựa chọn thay như CT, MRI, xạ hình xương, việc xác định có hay thế cho CT để đánh giá di căn ở tuyến tượng thận không các tổn thương di căn xa là rất quan trọng. 2 bên hơn là MRI ổ bụng, do cùng 1 lúc có thể xác Viney và cộng sự nghiên cứu đánh giá vai trò của định được cả tổn thương vị trí khác [4][15]. PET/CT trong đánh giá giai đoạn sớm ở bệnh Đối với tổn thương di căn não và gan, vai trò nhân UTPKTBN cho 183 bệnh nhân, trong đó của PET/CT lại bị giới hạn ở não, bởi tế bào não có 92 bệnh nhân chỉ sử dụng các biện pháp chẩn là một loại tế bào sử dụng rất mạnh chất Glucose, đoán thường quy, 91 bệnh nhân được kết hợp giữa do đó rất khó để xác định tổn thương tăng chuyển các biện pháp thường quy với PET/CT thì thấy, kết hóa FDG (bản chất cũng là một loại Glucose) để quả của PET/CT làm thay đổi chiến thuật điều trị hướng đến ác tính hay lành tính, độ nhạy với di căn ở 26% bệnh nhân, trong đó có 11 bệnh nhân không não của PET/CT chỉ là 46% [5]. Do đó, với di căn có chỉ định phẫu thuật, 13 bệnh nhân được chỉ định não, PET/CT không phải là lựa chọn mà thay vào hóa chất tiền phẫu và điều trị hóa xạ trị kết hợp[4]. đó MRI sọ não có giá trị rất tốt. Cũng tương tự như Hiệp hội các nhà phẫu thuật ung thư Hoa Kỳ đã đưa ở não thì đối với tổn thương gan, PET/CT cũng ra độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự báo dương tính không phải là lựa chọn ưu tiên vì mặc dù độ đặc và giá trị dự báo âm tính của PET/CT đối với di hiệu cao, tuy nhiên độ nhạy của PET/CT đối với căn M1 lần lượt là 83%, 90%, 36% và 99%[4]. Với tổn thương ở gan lại thấp [4]. mỗi cơ quan di căn xa, PET/CT có vai trò trong xác Bảng 1. Tác động của PET/CT đến thay đổi giai đoạn định nguy cơ ác tính khác nhau. và việc quản lý ung thư phổi không tế bào nhỏ qua một Đối với di căn xương: PET/CT có hiệu quả cao số nghiên cứu [5] trong xác định tổn thương di căn xương trong ung thư phổi. Một nghiên cứu phân tích gộp từ 17 nghiên Thay đổi Tác động cứu có kết quả độ nhạy và độ đặc hiệu của PET/CT Số bệnh Nghiên cứu giai đoạn đến quản lý đối với di căn xương là 92% và 98% theo lần lượt, nhân (%) (%) cao hơn so với tỉ lệ 86% và 88% của biện pháp xạ Bury et al. 109 34 25 hình xương. Do đó, PET/CT là lựa chọn thay thế tốt nhất cho xạ hình xương bằng 99mTc trong xác Saunders et al 97 27 37 định di căn xương ở bệnh nhân UTPKTBN. Hicks et al. 153 43 35 Đối với di căn tuyến thượng thận: giống như di Takeuchi et al. 592 28,7 37,2 căn xương, PET/CT có hiệu quả tốt hơn trong việc TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 21/20210 125
  6. NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG Vai trò trong điều trị SBRT ở bệnh nhân khác [12]. Nếu như tiêu chuẩn đánh giá đáp ứng UTPKTBN giai đoạn sớm: của khối u với điều trị bằng CT (RECIST 1.1) chỉ Lập kế hoạch xạ trị: dừng lại ở việc đánh giá sự thay đổi việc giải phẫu, Xạ trị là một biện pháp điều trị phổ biến đối thì bằng việc đánh giá sự thay đổi về chuyển hóa với UTPKTBN. Mục tiêu của xạ trị có thể là điều diễn ra trong khối u, tiêu chuẩn PERCIST (PET trị triệt căn, điều trị tiền phẫu hay điều trị giảm Response Criteria in Solid Tumors) chính xác nhẹ (điều trị triệu chứng). Tuy nhiên, một trong hơn. Bởi, sự thay đổi về chuyển hóa thường diễn những mối quan tâm nhất của bác sĩ xạ trị với các ra sớm hơn so với sự thay đổi về giải phẫu, và đôi biện pháp xạ trị khác nhau đó là làm sao để tăng khi khối u dù không thấy có sự thay đổi về giải hiệu quả điều trị tại khối u nhưng giảm thiểu tối phẫu sau điều trị thậm chí tăng về kích thước sau đa tác dụng không mong muốn của xạ trị đối với điều trị, nhưng có sự thay đổi giảm đi về chuyển tổ chức lành xung quanh khối u. Muốn giảm thiểu hóa vẫn cho thấy sự đáp ứng với biện pháp điều được tác dụng đó, việc xác định chính xác diện tổn trị đó. Đặc biệt, PET/CT rất có giá trị trong việc thương của khối u, ranh giới giữa tổ chức lành tính phân biệt giữa tổn thương xơ sau điều trị với tiến và ác tính để đưa ra được đích bắn hợp lý khi mô triển tại chỗ của tổn thương nguyên phát, cái mà phỏng xạ trị là hết sức quan trọng. Với ưu thế vượt nếu trên CT ngực dù là có tiêm thuốc cản quang trội trong xác định chính xác ranh giới lành – ác của rất dễ đánh giá rằng khối u đã to lên và bệnh tiến khối u, mức độ xâm lấn của khối u đối với cơ quan triển. Các tổn thương xơ không làm tăng chuyển lân cận như rốn phổi, trung thất, thành ngực… hóa FDG, do đó, PET/CT phản ánh chính xác cũng như các tổn thương thứ phát, PET/CT ngày tình trạng đáp ứng của khối u nguyên phát. Đánh nay được sử dụng như một phương tiện hữu ích giá đáp ứng điều trị bằng PET/CT được sử dụng trong lập kế hoạch xạ trị. Cụ thể, mô phỏng xạ trị với các trường hợp điều trị hóa chất, xạ trị, điều bằng PET/CT giúp thu nhỏ trường chiếu so với sử trị đích, điều trị miễn dịch. Trong đó, đối với xạ dụng CT đơn thuần do thay đổi tổng thể tích khối u trị, theo dõi đáp ứng điều trị bằng PET/CT là rất [6],[7]. Một nghiên cứu điều trị xạ trị cho 21 bệnh quan trọng. Giá trị SUVmax tại khối u nguyên phát nhân UTPKTBN, khi so sánh mô phỏng bằng CT sẽ giảm xuống ở các bệnh nhân có đáp ứng điều trị và PET/CT cho kết quả, tổng thể tích khối u giảm hoặc bệnh được kiểm soát. Nếu giá trị SUVmax từ 13,7 ± 3,8cm3 xuống còn 9,8 ± 4,0cm3 [12]. về giá trị bình thường, khối u được xác định đáp Đánh giá đáp ứng điều trị: ứng hoàn toàn và bệnh nhân có tiên lượng tốt hơn Khối u phổi sau khi điều trị bằng các biện pháp [8],[9]. Giá trị của PET/CT trong đánh giá đáp điều trị có thể thay đổi theo các hình thái: xóa hết, ứng sau xạ trị thể hiện rất rõ trong trường hợp xóa 1 phần và để lại tổn thương xơ, viêm, hoặc bệnh nhân của chúng tôi, nhất là ở thời điểm đánh tăng lên. Việc đánh giá đáp ứng của khối u đó với giá đáp ứng sau điều trị 3 tháng và đánh giá tiến biện pháp điều trị rất quan trọng, là cơ sở để đưa ra triển ở thời điểm 40 tháng và 46 tháng như chúng quyết định tiếp tục hay chuyển biện pháp điều trị tôi đã trình bày trong phần giới thiệu ca bệnh. Bảng 2. Tiêu chuẩn PERCIST 1.0 đánh giá đáp ứng điều trị với khối u [10] Đáp ứng chuyển hóa toàn bộ Biến mất tất cả các khối u có tăng hoạt tính chuyển hóa ở thời điểm đánh giá và giá trị SUVmax giảm xuống tương đương phông. 126 TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 21/2021
  7. NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG Đáp ứng chuyển hóa một phần Giảm ≥ 30% giá trị SUVmax giữa tổn thương có tăng chuyển hóa cao nhất trước và sau điều trị. Bệnh tiến triển về chuyển hóa Tăng ≥ 30% giá trị SUVmax hoặc xuất hiện thêm tổn thương mới. Bệnh ổn định Không đủ tiêu chuẩn cho bệnh tiến triển về chuyển hóa hoặc tiêu chuẩn đáp ứng chuyển hóa toàn bộ hoặc một phần. KẾT LUẬN PET/CT có vai trò rất quan trọng trong điều trị xạ trị lập thể định vị thân ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ. Vai trò đó được thể hiện ở khả năng đánh giá chính xác giai đoạn trước điều trị, mô phỏng lập kế hoạch điều trị trên PET/CT và đánh giá đáp ứng điều trị sau xạ trị. ABSTRACT The role of 18-FDG-PET/CT in stereotactic body radiation therapy for early stage non-small cell lung cancer patients: analyze based on clinical case Objective: Stereotactic body radiation therapy (SBRT) was indicated to treatment for early stage non-smal cell lung cancer patients (T1-2aN0M0) who were not indicated for surgery due to the severity comorbidities diseases or patients disagree to surgery. Studies demonstrate the efficacy of this method was similar surgery for early stage of disease. For SBRT for non-small cell lung cancer patients, it is necessary to properly assess the early stage of the disease, make an accurate treatment plan and select a post-treatment response assessment. Purpose: Discuss the role of 18-FDG-PET/CT in the treatment of stereotactic body radiation therapy in early stage non-small cell lung cancer patients. Conclusion: 18-FDG-PET/CT plays an important role in accurately assessing stage of non-small cell lung cancer, SBRT planning and evaluate the response after SBRT in early stage non-small cell lung cancer patients. Key word: Stereotactic body radiation therapy, early stage non-small cell lung cancer, 18-FDG-PET/CT. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. NCCN Clinical Practice Guidelines in Oncology (2020), Non-small cell lung cancer, Version 3. 2. Onishi H., Araki T., Shirato H., et al (2004), Stereotactic hypofractionated high-dose irradiation for stage I nonsmall cell lung carcinoma: clinical outcomes in 245 subjects in a Japanese multiinstitutional study, Cancer ;101:1623-31. 3. Pia Baumann, Jan Nyman, Morten Hoyer et al (2009), Outcomes in a Prospective Phase II Trial of Medically Inoperable Stage I Non-Small Cell Lung Cancer Patients treated with Stereotactic Body Radiotherapy, Lung Cancer Vol 27, No20, pp 3290-3295. 4. Jeramy J. Erasmuc, Febg-Ming (Spring) Kong, Homer A.Macapinlac (2018), Positron Emission TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 21/20210 127
  8. NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG Tomography imaging of lung cancer, IASLC Thoracic Oncology, Second edition, pp 219 – 232. 5. Sara Volpi1, Jason M. Ali1, Angela Tasker, Adam Peryt et al (2018), The role of positron emission tomography in the diagnosis, staging and response assessment of non-small cell lung cancer, Ann Transl Med, Volume 6, pp 95. 6. Dirk De Ruysscher (2010), PET scans in radiotherapy planning of lung cancer, Radiotherapy & Oncology 96:2010, pp 335-338. 7. E. J. Somer (2012), Recommendations for the use of PET and PET-CT for radiotherapy planning in research projects, The British Journal of Radiology, 85:e544-e548. 8. Clarke K., Taremi M., Dahele M., et al (2012), Stereotactic body radiotherapy (SBRT) for non-small cell lung cancer (NSCLC): is FDG-PET a predictor of outcome?, Radiother Oncol;104:62–6. 9. Kim S.K., Allen-Auerbach M., Goldin J et al (2007), Accuracy of PET/CT in characterization of solitary pulmonary lesions, J Nucl Med, Volume 48, pp 214 – 220. 10. D. Groheuxa, G. Querec, E. Blanca et al (2016), FDG PET-CT for solitary pulmonary nodule and lung cancer: Literature review, Diagnostic and Interventional Imaging, Volume 97, pp 1003 – 1017. 11. Bennett S. Greenspan (2017), Role of PET/CT for precision medicine in lung cancer: perspective of the Society of Nuclear Medicine and Molecular Imaging, The Transl Lung Cancer Res, Volume 6, pp 617 – 620. 12. Kazuhiro Kitajima1, Hiroshi Doi, Tomonori Kanda et al (2016), Present and future roles of FDGPET/CT imaging in the management of lung cancer, Jpn J Radiol, Volume 34, pp 387 – 399. 13. Takeda A., Naoko Sanuki, Hirofumi Fujii et al (2014), Maximum Standardized Uptake on FDG- PET is a strong predictor of overal and disease-free survival for non-small-cell lung cancer patients after stereotactic body radiotherapy, J Thorac Oncol; 9: 65 – 73. 14. Ricard L.Wahl (2009), From RESIST to PERCIST: Evolving considerations for PET Response Criteria in solid tumors, J Nucl Med; 50: 122S-150S. 15. Brady M.J., Thomas J., Wong T.Z., et al (2009), Adrenal nodules at FDG PET/CT in patients known to have or suspected of having lung cancer: a proposal for an efficient diagnostic algorithm, Radiology, Volume 250, pp 523 – 530. 128 TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM | SỐ 21/2021
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2