KHOA HOÏC KYÕ THUAÄT 23<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
SỐ 02 NĂM 2018<br />
Vai trò của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với hoạt động đổi mới,<br />
sáng tạo khoa học công nghệ và sản xuất kinh doanh<br />
TS. NGUYỄN THỊ HOÀNG HẠNH<br />
Trung tâm NCĐT Cục Sở hữu trí tuệ<br />
<br />
Trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, chế độ bảo hộ quyền sở hữu trí<br />
tuệ (SHTT) có mối quan hệ đặc biệt với hoạt động đổi mới, sáng tạo khoa học<br />
công nghệ và sản xuất, kinh doanh. Chế độ bảo hộ quyền SHTT là một loại cơ<br />
chế lợi ích mang tính khuyến khích và có điều tiết, có ý nghĩa và vai trò rất quan<br />
trọng đối với hoạt động đổi mới, sáng tạo khoa học công nghệ để từ đó phát<br />
triển hoạt động sản xuất nâng cao chất lượng hàng hóa và tạo uy tín cho hoạt<br />
động kinh doanh. Chính vì vai trò đặc biệt này mà nhận thức đối với việc bảo hộ<br />
quyền SHTT ngày càng được các nước coi trọng trong thời đại kinh tế tri thức.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
C<br />
hế độ bảo hộ quyền SHTT là sản phẩm học công nghệ và kinh tế, nhằm khuyến khích<br />
của sự kết hợp giữa luật pháp và khoa phát triển kinh tế nhờ ứng dụng và thương mại<br />
học công nghệ, về thực chất chính là giải hóa các kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất,<br />
quyết vấn đề đưa “trí tuệ” trở thành tài nguyên, kinh doanh. Trong hệ thống đổi mới, sáng tạo,<br />
là một cơ chế lợi ích mang tính khuyến khích và việc bảo hộ quyền SHTT là nền tảng và là yếu<br />
có điều tiết. Theo đó, thời đại kinh tế tri thức gắn tố căn bản bảo đảm quyền lợi cho các chủ thể<br />
liền với thời đại của quyền SHTT. Kinh tế tri thức sáng tạo. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống bảo<br />
là một nền kinh tế dựa vào trí tuệ, lấy khoa học hộ quyền SHTT chính là trực tiếp đáp ứng nhu<br />
công nghệ làm yếu tố sản xuất hàng đầu. Động cầu bảo vệ quyền lợi của các chủ thể có liên<br />
lực của phát triển kinh tế tri thức là hoạt động quan trong hoạt động đổi mới, sáng tạo khoa<br />
đổi mới sáng tạo khoa học công nghệ, mà hoạt học công nghệ cũng như sản xuất, kinh doanh.<br />
động đổi mới sáng tạo khoa học công nghệ lại Hệ thống bảo hộ quyền SHTT trên thế giới từ<br />
không thể phát triển nếu thiếu vắng cơ chế xác khi ra đời đến nay trải qua hàng trăm năm hình<br />
định và bảo vệ quyền tài sản đối với sản phẩm thành và phát triển đồng hành với sự ra đời và<br />
sáng tạo khoa học công nghệ. phát triển của các cuộc cách mạng công nghiệp.<br />
Chế độ bảo hộ quyền SHTT là một bộ quy Hệ thống bảo hộ quyền SHTT ra đời từ nền<br />
tắc được xác định và bảo đảm dưới hình thức văn minh công nghiệp, trong nền kinh tế trí<br />
pháp luật mà toàn xã hội phải tuân thủ, trong đó thức, hệ thống này không chỉ đáp ứng nhu cầu<br />
xác định rõ mối quan hệ về quyền lợi và nghĩa phát triển của kinh tế và khoa học công nghệ mà<br />
vụ của các chủ thể quyền. Cũng giống như chế còn thông qua cơ chế pháp luật để đẩy mạnh<br />
độ pháp luật trong các lĩnh vực khác, các quy sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ khoa học công<br />
định pháp luật về SHTT cũng xuất phát từ nhu nghệ. Đây chính là quá trình phát triển hài hòa<br />
cầu và sự phản ánh mối quan hệ kinh tế xã hội. mối quan hệ giữa khoa học kỹ thuật, kinh tế và<br />
Hoạt động đổi mới, sáng tạo khoa học công pháp luật. Pháp luật của hầu hết các quốc gia<br />
nghệ xuất phát từ mục tiêu nhất thể hóa khoa đều công nhận và có cơ chế bảo hộ quyền sở<br />
24 KHOA HOÏC KYÕ THUAÄT<br />
hữu trí tuệ của các tổ chức, cá nhân nhằm mục pháp lý an toàn bảo vệ tài sản trí tuệ thì tất yếu<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
đích khuyến khích hoạt động sáng tạo trong sẽ dẫn tới một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu.<br />
mọi lĩnh vực, bảo đảm cho việc phổ biến tiến bộ Một hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ mạnh<br />
khoa học, công nghệ, văn hóa, nghệ thuật cho và thực thi phù hợp là điều kiện tiên quyết cho<br />
mục đích phát triển xã hội mà không bị người hoạt động đầu tư vào nghiên cứu phát triển và<br />
khác đánh cắp. Hệ thống bảo hộ quyền sở hữu ứng dụng công nghệ mới. Không có sự bảo hộ<br />
trí tuệ của các nước nói chung và của Việt Nam độc quyền sáng chế thì các chủ thể sáng tạo<br />
nói riêng không ngừng hoàn thiện với mục tiêu sẽ không yên tâm bộc lộ công nghệ của mình<br />
đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng liên quan hoặc đầu tư cho phát triển công nghệ bởi bất<br />
và tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh. kỳ người nào cũng có thể tự do sử dụng nó. Hệ<br />
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nhằm thống bảo hộ độc quyền sáng chế sẽ giảm bớt<br />
khuyến khích hoạt động sáng tạo thông qua rủi ro đến từ những hành vi ăn cắp công nghệ<br />
cơ chế cấp bằng độc quyền sáng chế đó và nhờ vậy khuyến khích các doanh nghiệp,<br />
Hệ thống bảo hộ quyền SHTT là hệ thống tổ chức đưa ra các quyết định đầu tư cho phát<br />
bảo đảm quyền tài sản một cách hữu hiệu đối triển công nghệ mới.<br />
với các sản phẩm trí tuệ. Sản phẩm trí tuệ chính Một lợi ích to lớn của hệ thống bảo hộ sáng<br />
là tên gọi của các thành quả trí tuệ mang tính chế đối với xã hội là việc bộc lộ các công nghệ<br />
sáng tạo trong các lĩnh vực khoa học, công mới cho công chúng. Theo quy định của hầu hết<br />
nghệ, văn hóa, nghệ thuật, với các loại hình rất các hệ thống pháp luật về bảo hộ sáng chế của<br />
đa dạng, bởi vậy không thể áp dụng một hình các nước trên thế giới, đơn đăng ký sáng chế<br />
thái đơn nhất của quyền tài sản đối với các sản hoặc bằng độc quyền sáng chế và các tài liệu<br />
phẩm này. Thành quả sáng tạo khoa học ở đây liên quan sẽ được công bố sau những thời hạn<br />
chính là các sản phẩm trí tuệ, dưới hình thức trao nhất định. Do vậy, tất cả mọi người đều có cơ hội<br />
quyền tài sản cho cá nhân với điều kiện để được tiếp cận các giải pháp công nghệ đó. Thông tin<br />
nhận quyền đó thì chủ sở hữu phải công khai này sẽ giúp tránh nghiên cứu trùng lặp và là cơ<br />
thành quả trí tuệ để công chúng biết về các kiến sở cho các sáng tạo, cải tiến tiếp theo và những<br />
thức mới được tạo ra trong lĩnh vực đó. Quyền cải tiến như vậy có thể được cấp bằng độc quyền<br />
SHTT trao cho chủ sở hữu nhằm tạo động lực sáng chế và do vậy đây là một động lực to lớn<br />
để họ tiếp tục sáng tạo, phát triển công nghệ thúc đẩy đầu tư cho nghiên cứu và phát triển. Hệ<br />
của mình lên tầm cao hơn, từ đó đẩy nhanh sức thống bảo hộ quyền SHTT hiện nay tạo một cơ<br />
sản xuất cho toàn xã hội nhờ vào thành quả chế cho chủ sở hữu sau khi công bố các thông<br />
sáng tạo đó, đúng như tổng thống Abraham tin kỹ thuật được độc quyền thông tin đó trong<br />
Lincoln, đồng thời là một nhà sáng chế nổi tiếng phạm vi giới hạn pháp luật cho phép. Điều 27<br />
của Hoa Kỳ đã đánh giá về vai trò của hệ thống Tuyên ngôn Nhân quyền thế giới tuyên bố, bảo<br />
bằng độc quyền sáng chế: “Hệ thống bằng độc hộ tài sản trí tuệ do con người tạo ra và chia sẻ<br />
quyền sáng chế đổ thêm dầu lợi ích vào ngọn các thành quả của tiến bộ khoa học đều là các<br />
lửa thiên tài”1. quyền cơ bản của con người, hai yếu tố này<br />
Hệ thống bảo hộ quyền SHTT mang lại cho không loại trừ lẫn nhau. Pháp luật quốc tế và<br />
các chủ thể sáng tạo cơ hội để có thu nhập. Phần quốc gia đều công nhận quyền sở hữu trí tuệ là<br />
thưởng cho họ là lợi ích về tài chính và được quyền cá nhân, tuy nhiên phải trong phạm vi hài<br />
thúc đẩy để lặp lại quy trình sáng tạo, đầu tư hòa với các lợi ích công cộng và khuyến khích<br />
một phần thu nhập của mình cho hoạt động phát triển khoa học công nghệ. Việc bảo hộ và<br />
nghiên cứu và triển khai để tạo ra thành quả hạn chế quyền SHTT đối với tài sản trí tuệ là đề<br />
sáng tạo mới. Một xã hội không tạo ra hành lang cập đến lợi ích của các chủ thể khác nhau, các<br />
nước căn cứ vào rất nhiều yếu tố như trình độ<br />
1<br />
Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO): “Sở hữu trí tuệ - Một<br />
công cụ đắc lực để phát triển kinh tế”, NXB Bản đồ, 2005,<br />
phát triển kinh tế xã hội, khoa học công nghệ và<br />
trang 78 nhận thức công chúng... của nước mình để lựa<br />
KHOA HOÏC KYÕ THUAÄT 25<br />
chọn xây dựng một chế độ bảo hộ quyền SHTT trò kinh tế của các hợp đồng chuyển giao quyền<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
SỐ 02 NĂM 2018<br />
đáp ứng các nghĩa vụ quốc tế nhưng phải cân là sự thỏa thuận khai thác có điều kiện các công<br />
bằng lợi ích công cộng của quốc gia. Bởi vậy, nghệ của chủ sở hữu quyền. Quy định về giao<br />
sáng chế đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ sẽ dịch quyền sở hữu trí tuệ chính là các quy tắc<br />
được cấp bằng độc quyền và có thời hạn nhất để điều chỉnh phân phối quyền lợi giữa những<br />
định tùy theo pháp luật của từng quốc gia. Đây người tạo ra tài sản trí tuệ, với nhà sản xuất, sử<br />
là một giới hạn hợp lý quyền tài sản đối với chủ dụng tài sản trí tuệ đó nhằm đạt được lợi ích tối<br />
sở hữu quyền nhằm mục đích cân bằng lợi ích ưu trong phát triển tiến bộ khoa học kỹ thuật<br />
giữa chủ thể quyền và công chúng xã hội, đảm và tăng trưởng kinh tế. <br />
bảo cho công chúng trong xã hội có cơ hội tiếp Một điều hiển nhiên là trong nền kinh tế thị<br />
cận và sử dụng sản phẩm trí tuệ đó. Điều này trường, các nhà sản xuất, kinh doanh nắm giữ<br />
cũng đồng nghĩa với việc một bằng độc quyền độc quyền đối với công nghệ và có các chỉ dẫn<br />
sáng chế chỉ có giá trị ở nước đăng ký và khi thương mại có uy tín thì sẽ chiếm ưu thế trong<br />
một sáng chế đã hết thời hạn bảo hộ thì bất kỳ hoạt động sản xuất, kinh doanh. Quyền SHTT<br />
ai trong xã hội cũng sẽ được sử dụng mà không trao cho họ sự độc quyền để khai thác và thương<br />
phải xin phép hoặc trả phí cho chủ sở hữu bằng mại hóa các công nghệ mới, tạo ra các sản phẩm<br />
độc quyền sáng chế đã hết thời hạn bảo hộ đó. mới đáp ứng nhu cầu của xã hội, đồng thời độc<br />
Các nhà sản xuất ở các nước đang và kém phát quyền sẽ là công cụ để họ chống lại các hành vi<br />
triển cần quan tâm đến quy định này để có thể xâm phạm quyền, giả mạo, ăn cắp bản quyền<br />
đưa vào áp dụng những công nghệ còn có giá trị công nghệ. Bảo hộ quyền SHTT không chỉ bảo<br />
sử dụng mà không cần phải trả phí bản quyền. vệ lợi ích của chủ thể quyền mà còn đảm bảo lợi<br />
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nhằm thúc ích người tiêu dùng, góp phần duy trì trật tự thị<br />
đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh, bảo trường, giúp cho các hoạt động sản xuất, kinh<br />
đảm trật tự thị trường doanh được thực hiện trong môi trường cạnh<br />
Mục đích của thiết lập hệ thống pháp luật tranh lành mạnh. Để quy phạm hóa, đảm bảo<br />
SHTT là để giới hạn các quyền có liên quan, trật tự thị trường, pháp luật SHTT của các nước<br />
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của chủ đều đưa ra các chế tài xử lý hành vi xâm phạm<br />
thể sáng tạo, đồng thời tạo lập quy chuẩn cho quyền SHTT. Ở hầu hết các quốc gia hiện nay<br />
giao dịch quyền tài sản thúc đẩy việc phổ biến pháp luật SHTT ngày càng chặt chẽ với các hành<br />
rộng rãi và sử dụng các kiến thức và công nghệ vi xâm phạm quyền, các chế tài xử phạt và bồi<br />
mới. Theo lý luận về cung cầu của kinh tế học, thường được điều chỉnh phù hợp với thực tiễn<br />
hoạt động sáng tạo khoa học công nghệ cũng phát triển khoa học công nghệ và mức độ tinh<br />
là một loại hoạt động sản xuất. Trong hoạt động vi của hành vi xâm phạm quyền nhằm xử phạt<br />
sáng tạo khoa học công nghệ, tạo ra sản phẩm nghiêm minh các hành vi xâm phạm quyền<br />
công nghệ mới là một khâu quan trọng và cũng SHTT gây nguy hại tới trật tự thị trường.<br />
là mục đích cơ bản của hoạt động thị trường. Doanh nghiệp Việt Nam với hoạt động<br />
Một sáng chế được hoàn thành nếu không sớm bảo hộ quyền SHTT<br />
đưa vào áp dụng thì một thời gian sau cũng sẽ Hệ thống bảo hộ quyền SHTT ở Việt Nam<br />
bị một công nghệ khác tiên tiến hơn thay thế và mới được hình thành, thời gian phát triển tuy<br />
như vậy sẽ lãng phí công sức và tiền bạc để tạo không dài nhưng phát triển tương đối nhanh.<br />
ra sáng chế đó bởi sáng chế đó sẽ không còn có Về cơ bản, hiện nay hệ thống pháp luật cũng<br />
giá trị về kinh tế. Giao dịch quyền tài sản trong như hệ thống các cơ quan SHTT của Việt Nam<br />
lĩnh vực này thể hiện ở việc cho phép người khác đã đầy đủ và phù hợp với đặc thù cũng như<br />
sử dụng quyền đối với tài sản trí tuệ của mình điều kiện phát triển của Việt Nam, đồng thời<br />
và đổi lại chủ sở hữu tài sản trí tuệ sẽ nhận được đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của một hệ thống<br />
một khoản phí chuyển giao quyền sử dụng. Vai bảo hộ quyền SHTT đảm bảo các nghĩa vụ cam<br />
26 KHOA HOÏC KYÕ THUAÄT<br />
kết quốc tế. Theo đó, các quyền SHTT được bảo - Xác định các loại tài sản trí tuệ mà doanh<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
hộ ở Việt Nam bao gồm ba lĩnh vực, đó là quyền nghiệp mình có (bản quyền, sáng chế, kiểu dáng<br />
tác giả và quyền liên quan, quyền sở hữu công công nghiệp, nhãn hiệu, bí mật kinh doanh, tên<br />
nghiệp và quyền đối với giống cây trồng mới. thương mại, giống cây trồng...) và cân nhắc lựa<br />
Trong đó, các đối tượng được bảo hộ quyền sở chọn hình thức bảo hộ và bảo đảm rằng đối với<br />
hữu công nghiệp là sáng chế/giải pháp hữu các đối tượng xác lập quyền thông qua đăng ký<br />
ích, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn thì phải được tiến hành đăng ký kịp thời, tránh<br />
hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bí mật để mất vào tay các đối thủ cạnh trạnh. Đối với<br />
kinh doanh. Đây là các đối tượng của quyền sở các doanh nghiệp xuất khẩu, cần sớm tiến hành<br />
hữu trí tuệ gắn liền với hoạt động sản xuất, kinh đăng ký xác lập quyền ở các thị trường xuất<br />
doanh của doanh nghiệp. Có thể nói, các quy khẩu tiềm năng.<br />
định pháp luật đầy đủ và rõ ràng đã góp phần<br />
- Bên cạnh việc xây dựng, đăng ký và sử<br />
tạo lập một môi trường kinh doanh lành mạnh<br />
dụng nhãn hiệu của riêng mình, cần cân nhắc<br />
cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước.<br />
sử dụng các lợi thế từ việc sử dụng các nhãn<br />
Tuy nhiên, một số vụ việc tranh chấp về quyền<br />
hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận hoặc chỉ<br />
SHTT trong thời gian qua cho thấy các doanh<br />
dẫn địa lý cho các sản phẩm đặc thù, đặc sản<br />
nghiệp Việt Nam vẫn chưa quan tâm đúng mức<br />
địa phương.<br />
tới vấn đề SHTT.<br />
Một doanh nghiệp làm chủ công nghệ, - Xác định các thông tin cần bảo mật và áp<br />
độc quyền các công nghệ cốt lõi sẽ có ưu thế dụng các biện pháp bảo mật cần thiết để tránh<br />
hơn trong hoạt động sản xuất so với các doanh mất quyền do sơ ý để lộ thông tin.<br />
nghiệp khác chỉ biết sao chép hoặc phải mất phí - Sử dụng các thông tin sáng chế sẵn có<br />
bản quyền mới có được các công nghệ đó. Tuy trong các cơ sở dữ liệu thông tin sáng chế để<br />
nhiên, theo số liệu thống kê của Cục Sở hữu trí xây dựng hướng phát triển cho hoạt động sản<br />
tuệ thì số lượng đơn đăng ký sáng chế và giải xuất, đặc biệt là tận dụng các công nghệ còn có<br />
pháp hữu ích của người Việt Nam còn khiêm tốn, giá trị nhưng hết thời hạn bảo hộ.<br />
chỉ chiếm khoảng 10% tổng số đơn được nộp - Lựa chọn cơ chế phù hợp khi các quyền<br />
vào Cục. Điều này cho thấy doanh nghiệp sản SHTT của mình bị xâm phạm.<br />
xuất của Việt Nam sẽ còn phụ thuộc rất nhiều<br />
Có thể thấy rằng, không có một mô hình<br />
vào công nghệ của nước ngoài. Ngoài ra, các<br />
chuẩn mực về việc xây dựng chiến lược bảo hộ<br />
doanh nghiệp Việt Nam còn chưa nhận thức<br />
và khai thác quyền sở hữu tuệ để áp dụng cho<br />
rõ được vai trò của các chỉ dẫn thương mại, cụ<br />
thể là nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại các doanh nghiệp. Những yếu tố trên chỉ mang<br />
trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp tính định hướng, các doanh nghiệp cần căn cứ<br />
chưa có những chiến lược xây dựng và quản lý vào quy mô, lĩnh vực và phạm vi hoạt động để<br />
hữu hiệu các thành quả uy tín thương mại của sử dụng tối ưu công cụ sở hữu trí tuệ giúp doanh<br />
mình, đặc biệt là chưa biết cách bảo vệ quyền sở nghiệp đạt được những mục tiêu của chiến lược<br />
hữu trí tuệ của mình trong hoạt động xuất khẩu. kinh doanh.<br />
Thực tế, các tài sản trí tuệ chỉ có giá trị thực Bảo hộ sở hữu trí tuệ là công cụ cạnh tranh<br />
sự khi nó được gắn liền với hoạt động kinh hữu hiệu cho doanh nghiệp cũng như nền kinh<br />
doanh. Bởi vậy để có thể khai thác và sử dụng tế quốc gia. Đối với mỗi quốc gia, mỗi doanh<br />
hiệu quả các tài sản trí tuệ, các doanh nghiệp nghiệp, năng lực sở hữu trí tuệ là một trong<br />
cần nắm bắt, hiểu rõ bản chất của từng loại tài những năng lực nội sinh quan trọng hàng đầu<br />
sản trí tuệ, phạm vi bảo hộ và giới hạn quyền để phát triển bền vững. Quốc gia, doanh nghiệp<br />
đối với các tài sản đó và gắn liền với chiến lược nào có được càng nhiều quyền sở hữu trí tuệ thì<br />
kinh doanh của doanh nghiệp. Các nội dung cụ năng lực cạnh tranh của quốc gia, của doanh<br />
thể mà doanh nghiệp cần quan tâm bao gồm: nghiệp đó càng cao./.<br />