Vai trò của giáo dục . . .<br />
<br />
Nghiên cứu – Trao đổi<br />
VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG<br />
VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO NHẰM<br />
HƯỚNG TỚI NỀN KINH TẾ TRI THỨC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH<br />
<br />
<br />
Nguyễn Thị Phương Nam*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
<br />
Theo nghiên cứu của World Bank một nền kinh tế tri thức cần dựa trên 4 cột trụ, trong đó<br />
giáo dục - đào tạo là một trong tứ trụ này và có một vai trò quan trọng trong việc tạo ra lực lượng<br />
lao động chất lượng cao góp phần hình thành một nền kinh tế dựa vào tri thức, tăng năng suất và<br />
giá trị đầu ra cho nền kinh tế. Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua đã nỗ lực phát triển<br />
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm hướng đến nền kinh tế phát triển dựa trên tri thức, do đó lực<br />
lượng lao động chất lượng cao và có tri thức là nhu cầu cấp thiết cho mục tiêu phát triển của thành<br />
phố, trong khi đó theo báo cáo của trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao<br />
động thành phố Hồ Chí Minh cho thấy lực lượng lao động chưa qua đào tạo trên địa bàn thành phố<br />
chiếm đến 33.27%. Do đó cần có những chính sách và giải pháp nhằm thúc đẩy việc giáo dục và<br />
đào tạo nhân lực cho thành phố trong giai đoạn tới. Trong bài viết này sẽ nê lên vai trò và tầm quan<br />
trọng của giáo dục - đào tạo trong việc hình thành đội ngũ nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng<br />
mục tiêu phát triển của thành phố trong thời gian tới.<br />
Từ khoá: vai trò giáo dục - đào tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao, kinh tế tri thức,<br />
thành phố Hồ Chí Minh<br />
<br />
ROLE OF EDUCATION - TRAINING AND DEVELOPMENT DURING<br />
HIGH QUALITY HUMAN RESOURCES FOR FOUNDATION TOWARDS<br />
ECONOMIC KNOWLEDGE IN HO CHI MINH<br />
ABSTRACT<br />
According to World Bank Report, knowledge based economy needs 4 pillars, in which<br />
education and training play a vital role in generating and forging high quality manpower for<br />
the development of the economy. In recent years, HCMC had great efforts in restructuring the<br />
economy for the development toward a knowledge based economy therefore the demand for<br />
high quality human resource is essential. Whilst the Center of Forecasting Manpower Needs<br />
and Labor Market Information HCMC (FALMI) showed untrained labors account for 33.27% in<br />
the labor forcel. Hence, this paper show the role of education and training for the development<br />
of HCMC’s high quality labor force<br />
Keywords: the role of education - training, high-quality human resources, knowledge<br />
economy, Ho Chi Minh City.<br />
*<br />
<br />
ThS. Công ty Dịch vụ Mobifone khu vực II. M: 090 3333 079. E: nam.ntp@mobifone.vn<br />
<br />
109<br />
<br />
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Đầu thế kỷ 20 khoảng cách thu nhập bình<br />
quân giữa nước giàu nhất so với nước nghèo<br />
nhất là 10 lần, thì đầu thế kỷ 21, khoảng cách<br />
đó là 400 lần. Không cập nhật tri thức mới<br />
trong quá trình lão hóa tri thức tăng tốc, bất<br />
cập với công nghệ mới, công nghệ cao là yếu<br />
tố hàng đầu dẫn tới sự phân hóa phát triển kém phát triển. Khoảng 30 năm trở lại đây,<br />
lượng kiến thức nhân loại thu được từ khoa<br />
học và công nghệ bằng tổng số kiến thức trong<br />
hai ngàn năm trước đó. Theo dự báo, đến năm<br />
2020, những tri thức khoa học sẽ tăng khoảng<br />
4 lần so với năm 2000. Với xu thế hội nhập<br />
hiện nay vai trò của tri thức ngày càng trở nên<br />
quan trọng, nó trở thành động lực của tăng<br />
trưởng kinh tế, cũng vì lẽ đó mà ra đời thuật<br />
ngữ “kinh tế tri thức”. Theo Ngân hang thế<br />
giới (World Bank) đưa ra khái niệm về kinh tế<br />
tri thức vào năm 1999 như sau: “Là nền kinh<br />
tế sử dụng hiệu quả tri thức cho sự phát triển<br />
kinh tế và xã hội, bao gồm việc thu nhận và<br />
khai thác nguồn tri thức toàn cầu cũng như<br />
thích ứng và sáng tạo tri thức để dùng cho<br />
các nhu cầu riêng”. Theo Tổ chức hợp tác<br />
và phát triển kinh tế (OECD) “kinh tế tri thức<br />
là nền kinh tế được xây dựng trên cơ sở sản<br />
xuất phân phối và sử dụng tri thức thông tin”.<br />
Tri thức có vai trò to lớn đối với việc tăng<br />
năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản<br />
phẩm… Phát triển kinh tế tri thức sẽ tiết kiệm<br />
được tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu ô<br />
nhiễm môi trường, giảm bớt nặng nhọc trong<br />
lao động. Vì vậy, hiện nay, các nước đều dành<br />
sự quan tâm hàng đầu cho việc xây dựng và<br />
thực hiện chiến lược quốc gia về tri thức và<br />
phát triển đội ngũ trí thức. Ở đâu có nhiều tri<br />
thức hơn, ở đó có nền kinh tế phát triển hơn;<br />
những công ty, đơn vị nào có nhiều tri thức sẽ<br />
phát triển mạnh hơn; những cá nhân nào có<br />
<br />
tri thức, có trình độ sẽ nhận được việc làm tốt<br />
hơn, thu nhập cao hơn. Phát triển kinh tế tri<br />
thức là xu thế tất yếu của mọi quốc gia, phù<br />
hợp với quy luật vận động và phát triển của<br />
xã hội.<br />
Hiện nay cuộc cách mạng khoa học công<br />
nghệ phát triển như vũ bão đã tác động sâu<br />
sắc đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.<br />
Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và quá trình<br />
toàn cầu hoá có ảnh hưởng sâu rộng đến sự<br />
phát triển của tất cả các quốc gia trên thế giới.<br />
Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới<br />
đều có chiến luợc phát triển kinh tế tri thức<br />
theo những cách thức riêng phù hợp với điều<br />
kiện cụ thể của từng nước. Các nước phát<br />
triển tập trung thu hút lao động trí tuệ, và<br />
thành tựu khoa học công nghệ ở nhiều nước<br />
khác, nghiên cứu sâu vào lĩnh vực năng lượng<br />
mới, vật liệu mới, hoá sinh học, khám phá vũ<br />
trụ… để phát triển nền kinh tế. Các nước đang<br />
phát triển chọn hướng đi tắt, tạo động lực phát<br />
triển nhanh nhằm rút ngắn khoảng cách đối<br />
với các nước phát triển.<br />
Tại đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ<br />
IX năm 2001, Đảng Cộng sản Việt Nam đã<br />
đưa vào văn kiện định hướng phát triển kinh<br />
tế tri thức (KTTT) như sau: “Đi nhanh vào<br />
công nghệ hiện đại ở những ngành và lĩnh<br />
vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về công<br />
nghệ và kinh tế, tạo tốc độ tăng trưởng vượt<br />
trội ở những sản phẩm và dịch vụ chủ lực.<br />
Công nghiệp hóa (CNH) gắn với hiện đại hóa<br />
(HĐH) ngay từ đầu và trong suốt các giai<br />
đoạn phát triển. Nâng cao hàm lượng tri thức<br />
trong các nhân tố phát triển kinh tế - xã hội,<br />
từng bước phát triển KTTT ở nước ta”. Việc<br />
phát triển KTTT tiếp tục được làm rõ và được<br />
xem như một yếu tố cấu thành nên đường lối<br />
CNH và HĐH đất nước tại đại hội Đảng lần<br />
thứ X năm 2006, với những luận điểm như<br />
110<br />
<br />
Vai trò của giáo dục . . .<br />
<br />
sau: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh<br />
quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước<br />
ta để rút ngắn quá trình CNH-HĐH đất nước<br />
theo định hướng phát triển KTTT, coi KTTT<br />
là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNHHĐH. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm<br />
kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào<br />
tri thức; kết hợp việc sử dụng vốn tri thức của<br />
con người Việt Nam với tri thức mới nhất<br />
của nhân loại”. Năm 2011 tại Đại hội XI, với<br />
định hướng chiến lược cơ cấu lại nền kinh tế,<br />
chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu<br />
phát triển theo chiều rộng, sang phát triển hợp<br />
lý giữa các chiều rộng và sâu, chú trọng nâng<br />
cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững, Đảng<br />
Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định vai<br />
trò của KTTT cho quá trình phát triển của đất<br />
nước: “phát triển mạnh khoa học, công nghệ<br />
làm động lực đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH,<br />
phát triển KTTT, góp phần tăng nhanh năng<br />
suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của<br />
nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của<br />
đất nước”.<br />
Do quá trình phát triển của lịch sử và do<br />
điều kiện tự nhiên, Sài Gòn - Gia Định (thành<br />
phố Hồ Chí Minh) ngày nay đã là một trung<br />
tâm kinh tế và giao lưu quốc tế của khu vực<br />
Đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông<br />
Nam Bộ, sự phát triển của Thành phố đã gắn<br />
kết với sự phát triển của cả địa bàn kinh tế<br />
phía Nam. Từ năm 1982 đến nay, Bộ Chính<br />
trị đã có 3 lần ban hành nghị quyết về thành<br />
phố Hồ Chí Minh (TPHCM): Nghị quyết 01NQ/TW ngày 14/9/1982, Nghị quyết 20-NQ/<br />
TW ngày 18/11/2002 và Nghị quyết 16-NQ/<br />
TW ngày 10/8/2012. Thành phố Hồ Chí Minh<br />
được xác định là hạt nhân trọng điểm của phía<br />
Nam bao gồm 8 địa phương: TPHCM, Bà<br />
Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Bình<br />
Phước, Tây Ninh, Long An và Tiền Giang. Từ<br />
<br />
lâu sự phát triển của TPHCM gắn liền với sự<br />
phát triển của Vùng kinh tế trọng điểm phía<br />
Nam trên cả 4 lĩnh vực phân bố lực lượng<br />
sản xuất; kết cấu hạ tầng giao thông; đào tạo<br />
nguồn nhân lực, thị trường lao động và bảo vệ<br />
môi trường.<br />
Trong 30 năm thực hiện CNH-HĐH và<br />
phát triển đô thị, vị trí vai trò của thành phố<br />
Hồ Chí Minh ngày càng được khẳng định và<br />
nâng cao. Nếu năm 1991, TPHCM đóng góp<br />
khoảng 15% GDP của cả nước chiếm 6,4%<br />
dân số và 5,3% lao động thì đến năm 2013<br />
con số tương ứng là 20,8%, 8,8% và 7,7%.<br />
So với năm 1991 quy mô dân số Thành phố<br />
đã tăng gần 2 lần nhưng nhờ sự tăng trưởng<br />
nhanh về kinh tế nên tổng sản phẩm nội địa<br />
tính theo đầu người đã tăng gần 8 lần (Trần<br />
Du Lịch, 2015). Năm 2016, TPHCM đề ra<br />
12 chỉ tiêu chủ yếu phát triển KTXH. Một số<br />
chỉ tiêu quan trọng như: Tốc độ tăng trưởng<br />
tổng sản phẩm nội địa trên địa bàn (GRDP)<br />
đạt 8%; tạo việc làm mới cho 125.000 người<br />
lao động, tỉ lệ thất nghiệp đô thị dưới 4,5%;<br />
giảm 1% tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn Chương<br />
trình “Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 2020” (Văn phòng UBND Thành phố Hồ Chí<br />
Minh, 2016). Điều này đòi hỏi thành phố cần<br />
có nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng<br />
được nhu cầu phát triển và đạt được các mục<br />
tiêu theo kế hoạch phát triển của thành phố.<br />
Vai trò của nguồn lực con người được<br />
khẳng định là một yếu tố cơ bản cho sự phát<br />
triển. Trong các nguồn lực như: vốn, tài<br />
nguyên, vị trí địa lý, nguồn lực nước ngoài và<br />
nguồn lực con người, các nguồn lực khác đều<br />
phụ thuộc và thông qua hoạt động thực tiễn<br />
của con người, bởi con người là nguồn lực duy<br />
nhất biết tư duy, biết sáng tạo, có ý tri thức và<br />
ý chí, chỉ có con người mới có thể gắn kết các<br />
nguồn lực khác tạo thành sức mạnh tổng hợp<br />
111<br />
<br />
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br />
<br />
nhằm đạt đến một mục tiêu nhất định. Do đó,<br />
nguồn lực con người là quan trọng nhất trong<br />
sự phát triển của mỗi quốc gia1.<br />
Trong xu thế phát triển tri thức ngày nay,<br />
giáo dục - đào tạo được xem là chính sách,<br />
biện pháp quan trọng hàng đầu để phát triển<br />
ở nhiều quốc gia trên thế giới và Việt Nam<br />
không phải là ngoại lệ. Giáo dục – đào tạo<br />
góp phần nâng cao dân trí ở mọi quốc gia,<br />
dân tộc. Ngày nay, giáo dục - đào tạo còn góp<br />
phần tạo ra hệ thống giá trị xã hội mới. Trong<br />
nền kinh tế tri thức hiện nay, tri thức là sản<br />
phẩm của giáo dục - đào tạo, đồng thời là tài<br />
sản quý giá nhất của con người và xã hội. Sở<br />
hữu tri thức trở thành sở hữu quan trọng nhất<br />
được các nước thừa nhận và bảo hộ. Nguồn<br />
lực phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia,<br />
dân tộc từ tài nguyên, sức lao động cơ bắp là<br />
chính chuyển sang nguồn lực con người có<br />
tri thức là cơ bản nhất. Do đó Nhà nước cần<br />
xem “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Việc<br />
đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay<br />
đang là mối quan tâm của các cấp, ngành, các<br />
nhà khoa học và toàn xã hội. Chọn khoa học<br />
và giáo dục làm khâu đột phá cho phát triển.<br />
Chọn giáo dục làm tiền đề, làm xương sống<br />
của phát triển bền vững là xác định đúng đắn<br />
và khoa học2.<br />
2. NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT<br />
LƯỢNG CAO<br />
Theo Liên Hợp Quốc, “Nguồn nhân lực là<br />
tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm,<br />
năng lực và tính sáng tạo của con người có<br />
quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và<br />
của đất nước”. Ngân hàng thế giới cho rằng:<br />
nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người bao<br />
<br />
gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp…<br />
của mỗi cá nhân. Như vậy, ở đây nguồn lực<br />
con người được coi như một nguồn vốn bên<br />
cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền tệ,<br />
công nghệ, tài nguyên thiên nhiên. Dưới góc<br />
độ của Kinh tế - Chính trị có thể hiểu: nguồn<br />
nhân lực là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại<br />
trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của<br />
một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống<br />
và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân<br />
tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra<br />
của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu<br />
cầu hiện tại và tương lai của đất nước.<br />
Tóm lại, nguồn nhân lực chất lượng cao<br />
là lực lượng lao động có học vấn, có trình độ<br />
chuyên môn cao, nhất là có khả năng đáp ứng<br />
các yêu cầu phức tạp và luôn thay đổi của công<br />
việc để tạo ra năng suất và hiệu quả cao, đóng<br />
góp cho sự tăng trưởng và phát triển của mỗi<br />
đơn vị nói riêng và toàn xã hội nói chung3.<br />
Thứ nhất, nguồn nhân lực chất lượng cao<br />
là nguồn lực chính quyết định quá trình tăng<br />
trưởng và phát triển kinh tế- xã hội. Nguồn<br />
nhân lực, nguồn lao động là nhân tố quyết<br />
định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái<br />
tạo các nguồn lực khác. Thứ hai, nguồn nhân<br />
lực chất lượng cao là một trong những yếu tố<br />
quyết định sự thành công của sự nghiệp CNH,<br />
HĐH; là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn<br />
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã<br />
hội, từ sử dụng lao động thủ công là phổ biến<br />
sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động<br />
được đào tạo cùng với công nghệ tiên tiến,<br />
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện<br />
đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.<br />
Đối với nước ta đó là một quá trình tất yếu<br />
để phát triển kinh tế thị trường định hướng<br />
XHCN. Thứ ba, nguồn nhân lực chất lượng<br />
cao là điều kiện để rút ngắn khoảng cách<br />
<br />
1 Nguyễn Đức Khiêm, (2016). Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn<br />
nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.<br />
http://caodangvinhphuc.edu.vn/vi/news/Doi-tac/Cac-nhan-toanh-huong-den-nguon-nhan-luc-cho-phat-trien-kinh-te-xa-hoio-nuoc-ta-hien-nay-209/<br />
2 Trần Duy (2015), Vai trò của giáo dục và đào tạo đối với<br />
sự phát triển, http://nxbhanoi.com.vn/chi_tiet_tin/tabid/204/<br />
cateID/4/artilceID/15531/language/vi-VN/Default.aspx<br />
<br />
3 Nguyễn Tiến Dzũng & Nguyễn Phan Thu Hằng (2011), Phát<br />
triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại Thành phố Hồ Chí<br />
Minh, Tạp chí Phát triển KH-CN, 14(1), Tr.101-111.<br />
<br />
112<br />
<br />
Vai trò của giáo dục . . .<br />
<br />
tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy<br />
nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nhằm<br />
phát triển bền vững. Thứ tư là, nguồn nhân<br />
lực chất lượng cao là điều kiện hội nhập kinh<br />
tế quốc tế<br />
3. PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC<br />
CHẤT LƯỢNG CAO HƯỚNG TỚI NỀN<br />
KINH TẾ TRI THỨC Ở THÀNH PHỐ<br />
HỒ CHÍ MINH<br />
Theo WB (2007) nền kinh tế tri thức<br />
cần được xây dựng dựa trên 4 trụ cột: (1) cơ<br />
chế kinh tế và thể chế; (2) Giáo dục; (3) Hệ<br />
thống đổi mới sáng tạo và (4) Cơ sở hạ tầng<br />
về thông tin và truyền thông. Hiện nay một<br />
số các nghiên cứu liên quan đến kinh doanh<br />
cũng có những mô hình sử dụng các thành<br />
phần tương tự như 4 trụ cột này.<br />
Cơ chế kinh tế và thể chế: bao gồm các<br />
chính sách và thể chế cho phép việc huy động<br />
và phân bổ nguồn lực hiệu quả, khuyến khích<br />
tinh thần doanh nghiệp, thúc đẩy sự sáng tạo,<br />
phổ biến, và sử dụng hiệu quả tri thức. Giáo<br />
dục: là đào tạo những lao động có trình độ và<br />
tay nghề cao, có khả năng cập nhật kiến thức<br />
và kĩ năng liên tục để sáng tạo và sử dụng tri<br />
thức một các hiệu quả. Hệ thống giáo dục đào tạo bao gồm trường tiểu học, trung học,<br />
trường nghề, cao đẳng, đại học, và cơ chế<br />
học tập trọn đời. Học tập trọn đời đang ngày<br />
càng đóng vai trò quan trọng trong bối cảnh<br />
cuộc cách mạng tri thức hiện nay, khi tri thức<br />
mới liên tục được tạo ra, nó đòi hỏi con người<br />
<br />
luôn hoàn thiện theo tốc độ phát triển tri thức<br />
của nhân loại. Hệ thống đổi mới sáng tạo:<br />
bao gồm các công công ty, viện nghiên cứu,<br />
trường đại học, và các tổ chức khá mà có thể<br />
tiếp cận và theo kịp các công nghệ, kĩ thuật,<br />
tri thức mới để tiếp thu và sử dụng nguồn tri<br />
thức này phục vụ cho nhu cầu cụ thể của tổ<br />
chức doanh nghiệp. Hỗ trợ cho sự đổi mới,<br />
khoa học, và công nghệ bao gồm một loạt các<br />
yếu tố từ cơ sở hạ tầng đến thể chế, từ sự phổ<br />
biến của công nghệ cơ bản đến các hoạt động<br />
nghiên cứu tiên tiến.<br />
Cơ sở hạ tầng về thông tin và truyền<br />
thông: cơ sở hạ tầng về thông tin và truyền<br />
thông hiện đại và hoàn chỉnh sẽ tạo điều kiện<br />
cho việc trao đổi, xử lý, và phổ biến thông tin<br />
hiệu quả. Công nghệ truyền thông bao gồm<br />
mạng điện thoại, truyền hình, phát thanh,<br />
internet là cơ sở hạ tầng thiết yếu của nền kinh<br />
tế toàn cầu dựa trên thông tin trong thế kỉ 21.<br />
Những cơ sở hạ tầng này có thể giảm dáng kể<br />
chi phí giao dịch bằng cách cung cấp sự tiếp<br />
cận thông tin mọi lúc mọi nơi. Các chính sách<br />
liên quan đến công nghệ thông tin bao gồm<br />
quy định về viễn thông cũng như các khoản<br />
đầu tư cần thiết để xây dựng và khai thác công<br />
nghệ thông tin và truyền thông trong nền kinh<br />
tế và xã hội thông qua các ứng dụng điện tử<br />
như chính phủ điện tử (e-government), kinh<br />
doanh điện tử (E-business), học tập điện tử<br />
(E-learning)…<br />
<br />
Bảng 1: Bước tiến về bốn trụ cột hướng đến nền kinh tế tri thức của VN<br />
Chỉ số về cơ chế kinh tế và thể chế<br />
Chỉ số về giáo dục<br />
Chỉ số về đổi mới sáng tạo<br />
Chỉ số về công nghệ thông tin và truyền thông<br />
<br />
113<br />
<br />
2012<br />
2,8<br />
2,99<br />
2,75<br />
5,05<br />
<br />
2000<br />
1995<br />
2,74<br />
2,64<br />
2,82<br />
2,28<br />
2,4<br />
2,34<br />
2,92<br />
4,5<br />
Nguồn: Nguyễn Trọng Hoài 2013<br />
<br />