intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vai trò của giáo dục - đào tạo trong quá trình xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm hướng tới nền kinh tế tri thức ở Thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: Nguyễn Văn H | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

80
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết với nội dung tập trung khai thác đánh giá về vai trò của giáo dục - đào tạo trong quá trình xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm hướng tới nền kinh tế tri thức ở Thành phố Hồ Chí Minh. Trong bài viết này sẽ nê lên vai trò và tầm quan trọng của giáo dục - đào tạo trong việc hình thành đội ngũ nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển của thành phố trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vai trò của giáo dục - đào tạo trong quá trình xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm hướng tới nền kinh tế tri thức ở Thành phố Hồ Chí Minh

Vai trò của giáo dục . . .<br /> <br /> Nghiên cứu – Trao đổi<br /> VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG<br /> VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO NHẰM<br /> HƯỚNG TỚI NỀN KINH TẾ TRI THỨC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH<br /> <br /> <br /> Nguyễn Thị Phương Nam*<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> <br /> Theo nghiên cứu của World Bank một nền kinh tế tri thức cần dựa trên 4 cột trụ, trong đó<br /> giáo dục - đào tạo là một trong tứ trụ này và có một vai trò quan trọng trong việc tạo ra lực lượng<br /> lao động chất lượng cao góp phần hình thành một nền kinh tế dựa vào tri thức, tăng năng suất và<br /> giá trị đầu ra cho nền kinh tế. Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua đã nỗ lực phát triển<br /> và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm hướng đến nền kinh tế phát triển dựa trên tri thức, do đó lực<br /> lượng lao động chất lượng cao và có tri thức là nhu cầu cấp thiết cho mục tiêu phát triển của thành<br /> phố, trong khi đó theo báo cáo của trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao<br /> động thành phố Hồ Chí Minh cho thấy lực lượng lao động chưa qua đào tạo trên địa bàn thành phố<br /> chiếm đến 33.27%. Do đó cần có những chính sách và giải pháp nhằm thúc đẩy việc giáo dục và<br /> đào tạo nhân lực cho thành phố trong giai đoạn tới. Trong bài viết này sẽ nê lên vai trò và tầm quan<br /> trọng của giáo dục - đào tạo trong việc hình thành đội ngũ nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng<br /> mục tiêu phát triển của thành phố trong thời gian tới.<br /> Từ khoá: vai trò giáo dục - đào tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao, kinh tế tri thức,<br /> thành phố Hồ Chí Minh<br /> <br /> ROLE OF EDUCATION - TRAINING AND DEVELOPMENT DURING<br /> HIGH QUALITY HUMAN RESOURCES FOR FOUNDATION TOWARDS<br /> ECONOMIC KNOWLEDGE IN HO CHI MINH<br /> ABSTRACT<br /> According to World Bank Report, knowledge based economy needs 4 pillars, in which<br /> education and training play a vital role in generating and forging high quality manpower for<br /> the development of the economy. In recent years, HCMC had great efforts in restructuring the<br /> economy for the development toward a knowledge based economy therefore the demand for<br /> high quality human resource is essential. Whilst the Center of Forecasting Manpower Needs<br /> and Labor Market Information HCMC (FALMI) showed untrained labors account for 33.27% in<br /> the labor forcel. Hence, this paper show the role of education and training for the development<br /> of HCMC’s high quality labor force<br /> Keywords: the role of education - training, high-quality human resources, knowledge<br /> economy, Ho Chi Minh City.<br /> *<br /> <br /> ThS. Công ty Dịch vụ Mobifone khu vực II. M: 090 3333 079. E: nam.ntp@mobifone.vn<br /> <br /> 109<br /> <br /> Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br /> <br /> 1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Đầu thế kỷ 20 khoảng cách thu nhập bình<br /> quân giữa nước giàu nhất so với nước nghèo<br /> nhất là 10 lần, thì đầu thế kỷ 21, khoảng cách<br /> đó là 400 lần. Không cập nhật tri thức mới<br /> trong quá trình lão hóa tri thức tăng tốc, bất<br /> cập với công nghệ mới, công nghệ cao là yếu<br /> tố hàng đầu dẫn tới sự phân hóa phát triển kém phát triển. Khoảng 30 năm trở lại đây,<br /> lượng kiến thức nhân loại thu được từ khoa<br /> học và công nghệ bằng tổng số kiến thức trong<br /> hai ngàn năm trước đó. Theo dự báo, đến năm<br /> 2020, những tri thức khoa học sẽ tăng khoảng<br /> 4 lần so với năm 2000. Với xu thế hội nhập<br /> hiện nay vai trò của tri thức ngày càng trở nên<br /> quan trọng, nó trở thành động lực của tăng<br /> trưởng kinh tế, cũng vì lẽ đó mà ra đời thuật<br /> ngữ “kinh tế tri thức”. Theo Ngân hang thế<br /> giới (World Bank) đưa ra khái niệm về kinh tế<br /> tri thức vào năm 1999 như sau: “Là nền kinh<br /> tế sử dụng hiệu quả tri thức cho sự phát triển<br /> kinh tế và xã hội, bao gồm việc thu nhận và<br /> khai thác nguồn tri thức toàn cầu cũng như<br /> thích ứng và sáng tạo tri thức để dùng cho<br /> các nhu cầu riêng”. Theo Tổ chức hợp tác<br /> và phát triển kinh tế (OECD) “kinh tế tri thức<br /> là nền kinh tế được xây dựng trên cơ sở sản<br /> xuất phân phối và sử dụng tri thức thông tin”.<br /> Tri thức có vai trò to lớn đối với việc tăng<br /> năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản<br /> phẩm… Phát triển kinh tế tri thức sẽ tiết kiệm<br /> được tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu ô<br /> nhiễm môi trường, giảm bớt nặng nhọc trong<br /> lao động. Vì vậy, hiện nay, các nước đều dành<br /> sự quan tâm hàng đầu cho việc xây dựng và<br /> thực hiện chiến lược quốc gia về tri thức và<br /> phát triển đội ngũ trí thức. Ở đâu có nhiều tri<br /> thức hơn, ở đó có nền kinh tế phát triển hơn;<br /> những công ty, đơn vị nào có nhiều tri thức sẽ<br /> phát triển mạnh hơn; những cá nhân nào có<br /> <br /> tri thức, có trình độ sẽ nhận được việc làm tốt<br /> hơn, thu nhập cao hơn. Phát triển kinh tế tri<br /> thức là xu thế tất yếu của mọi quốc gia, phù<br /> hợp với quy luật vận động và phát triển của<br /> xã hội.<br /> Hiện nay cuộc cách mạng khoa học công<br /> nghệ phát triển như vũ bão đã tác động sâu<br /> sắc đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.<br /> Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và quá trình<br /> toàn cầu hoá có ảnh hưởng sâu rộng đến sự<br /> phát triển của tất cả các quốc gia trên thế giới.<br /> Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới<br /> đều có chiến luợc phát triển kinh tế tri thức<br /> theo những cách thức riêng phù hợp với điều<br /> kiện cụ thể của từng nước. Các nước phát<br /> triển tập trung thu hút lao động trí tuệ, và<br /> thành tựu khoa học công nghệ ở nhiều nước<br /> khác, nghiên cứu sâu vào lĩnh vực năng lượng<br /> mới, vật liệu mới, hoá sinh học, khám phá vũ<br /> trụ… để phát triển nền kinh tế. Các nước đang<br /> phát triển chọn hướng đi tắt, tạo động lực phát<br /> triển nhanh nhằm rút ngắn khoảng cách đối<br /> với các nước phát triển.<br /> Tại đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ<br /> IX năm 2001, Đảng Cộng sản Việt Nam đã<br /> đưa vào văn kiện định hướng phát triển kinh<br /> tế tri thức (KTTT) như sau: “Đi nhanh vào<br /> công nghệ hiện đại ở những ngành và lĩnh<br /> vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về công<br /> nghệ và kinh tế, tạo tốc độ tăng trưởng vượt<br /> trội ở những sản phẩm và dịch vụ chủ lực.<br /> Công nghiệp hóa (CNH) gắn với hiện đại hóa<br /> (HĐH) ngay từ đầu và trong suốt các giai<br /> đoạn phát triển. Nâng cao hàm lượng tri thức<br /> trong các nhân tố phát triển kinh tế - xã hội,<br /> từng bước phát triển KTTT ở nước ta”. Việc<br /> phát triển KTTT tiếp tục được làm rõ và được<br /> xem như một yếu tố cấu thành nên đường lối<br /> CNH và HĐH đất nước tại đại hội Đảng lần<br /> thứ X năm 2006, với những luận điểm như<br /> 110<br /> <br /> Vai trò của giáo dục . . .<br /> <br /> sau: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh<br /> quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước<br /> ta để rút ngắn quá trình CNH-HĐH đất nước<br /> theo định hướng phát triển KTTT, coi KTTT<br /> là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNHHĐH. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm<br /> kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào<br /> tri thức; kết hợp việc sử dụng vốn tri thức của<br /> con người Việt Nam với tri thức mới nhất<br /> của nhân loại”. Năm 2011 tại Đại hội XI, với<br /> định hướng chiến lược cơ cấu lại nền kinh tế,<br /> chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu<br /> phát triển theo chiều rộng, sang phát triển hợp<br /> lý giữa các chiều rộng và sâu, chú trọng nâng<br /> cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững, Đảng<br /> Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định vai<br /> trò của KTTT cho quá trình phát triển của đất<br /> nước: “phát triển mạnh khoa học, công nghệ<br /> làm động lực đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH,<br /> phát triển KTTT, góp phần tăng nhanh năng<br /> suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của<br /> nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của<br /> đất nước”.<br /> Do quá trình phát triển của lịch sử và do<br /> điều kiện tự nhiên, Sài Gòn - Gia Định (thành<br /> phố Hồ Chí Minh) ngày nay đã là một trung<br /> tâm kinh tế và giao lưu quốc tế của khu vực<br /> Đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông<br /> Nam Bộ, sự phát triển của Thành phố đã gắn<br /> kết với sự phát triển của cả địa bàn kinh tế<br /> phía Nam. Từ năm 1982 đến nay, Bộ Chính<br /> trị đã có 3 lần ban hành nghị quyết về thành<br /> phố Hồ Chí Minh (TPHCM): Nghị quyết 01NQ/TW ngày 14/9/1982, Nghị quyết 20-NQ/<br /> TW ngày 18/11/2002 và Nghị quyết 16-NQ/<br /> TW ngày 10/8/2012. Thành phố Hồ Chí Minh<br /> được xác định là hạt nhân trọng điểm của phía<br /> Nam bao gồm 8 địa phương: TPHCM, Bà<br /> Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Bình<br /> Phước, Tây Ninh, Long An và Tiền Giang. Từ<br /> <br /> lâu sự phát triển của TPHCM gắn liền với sự<br /> phát triển của Vùng kinh tế trọng điểm phía<br /> Nam trên cả 4 lĩnh vực phân bố lực lượng<br /> sản xuất; kết cấu hạ tầng giao thông; đào tạo<br /> nguồn nhân lực, thị trường lao động và bảo vệ<br /> môi trường.<br /> Trong 30 năm thực hiện CNH-HĐH và<br /> phát triển đô thị, vị trí vai trò của thành phố<br /> Hồ Chí Minh ngày càng được khẳng định và<br /> nâng cao. Nếu năm 1991, TPHCM đóng góp<br /> khoảng 15% GDP của cả nước chiếm 6,4%<br /> dân số và 5,3% lao động thì đến năm 2013<br /> con số tương ứng là 20,8%, 8,8% và 7,7%.<br /> So với năm 1991 quy mô dân số Thành phố<br /> đã tăng gần 2 lần nhưng nhờ sự tăng trưởng<br /> nhanh về kinh tế nên tổng sản phẩm nội địa<br /> tính theo đầu người đã tăng gần 8 lần (Trần<br /> Du Lịch, 2015). Năm 2016, TPHCM đề ra<br /> 12 chỉ tiêu chủ yếu phát triển KTXH. Một số<br /> chỉ tiêu quan trọng như: Tốc độ tăng trưởng<br /> tổng sản phẩm nội địa trên địa bàn (GRDP)<br /> đạt 8%; tạo việc làm mới cho 125.000 người<br /> lao động, tỉ lệ thất nghiệp đô thị dưới 4,5%;<br /> giảm 1% tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn Chương<br /> trình “Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 2020” (Văn phòng UBND Thành phố Hồ Chí<br /> Minh, 2016). Điều này đòi hỏi thành phố cần<br /> có nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng<br /> được nhu cầu phát triển và đạt được các mục<br /> tiêu theo kế hoạch phát triển của thành phố.<br /> Vai trò của nguồn lực con người được<br /> khẳng định là một yếu tố cơ bản cho sự phát<br /> triển. Trong các nguồn lực như: vốn, tài<br /> nguyên, vị trí địa lý, nguồn lực nước ngoài và<br /> nguồn lực con người, các nguồn lực khác đều<br /> phụ thuộc và thông qua hoạt động thực tiễn<br /> của con người, bởi con người là nguồn lực duy<br /> nhất biết tư duy, biết sáng tạo, có ý tri thức và<br /> ý chí, chỉ có con người mới có thể gắn kết các<br /> nguồn lực khác tạo thành sức mạnh tổng hợp<br /> 111<br /> <br /> Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br /> <br /> nhằm đạt đến một mục tiêu nhất định. Do đó,<br /> nguồn lực con người là quan trọng nhất trong<br /> sự phát triển của mỗi quốc gia1.<br /> Trong xu thế phát triển tri thức ngày nay,<br /> giáo dục - đào tạo được xem là chính sách,<br /> biện pháp quan trọng hàng đầu để phát triển<br /> ở nhiều quốc gia trên thế giới và Việt Nam<br /> không phải là ngoại lệ. Giáo dục – đào tạo<br /> góp phần nâng cao dân trí ở mọi quốc gia,<br /> dân tộc. Ngày nay, giáo dục - đào tạo còn góp<br /> phần tạo ra hệ thống giá trị xã hội mới. Trong<br /> nền kinh tế tri thức hiện nay, tri thức là sản<br /> phẩm của giáo dục - đào tạo, đồng thời là tài<br /> sản quý giá nhất của con người và xã hội. Sở<br /> hữu tri thức trở thành sở hữu quan trọng nhất<br /> được các nước thừa nhận và bảo hộ. Nguồn<br /> lực phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia,<br /> dân tộc từ tài nguyên, sức lao động cơ bắp là<br /> chính chuyển sang nguồn lực con người có<br /> tri thức là cơ bản nhất. Do đó Nhà nước cần<br /> xem “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Việc<br /> đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay<br /> đang là mối quan tâm của các cấp, ngành, các<br /> nhà khoa học và toàn xã hội. Chọn khoa học<br /> và giáo dục làm khâu đột phá cho phát triển.<br /> Chọn giáo dục làm tiền đề, làm xương sống<br /> của phát triển bền vững là xác định đúng đắn<br /> và khoa học2.<br /> 2. NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT<br /> LƯỢNG CAO<br /> Theo Liên Hợp Quốc, “Nguồn nhân lực là<br /> tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm,<br /> năng lực và tính sáng tạo của con người có<br /> quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và<br /> của đất nước”. Ngân hàng thế giới cho rằng:<br /> nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người bao<br /> <br /> gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp…<br /> của mỗi cá nhân. Như vậy, ở đây nguồn lực<br /> con người được coi như một nguồn vốn bên<br /> cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền tệ,<br /> công nghệ, tài nguyên thiên nhiên. Dưới góc<br /> độ của Kinh tế - Chính trị có thể hiểu: nguồn<br /> nhân lực là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại<br /> trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của<br /> một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống<br /> và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân<br /> tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra<br /> của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu<br /> cầu hiện tại và tương lai của đất nước.<br /> Tóm lại, nguồn nhân lực chất lượng cao<br /> là lực lượng lao động có học vấn, có trình độ<br /> chuyên môn cao, nhất là có khả năng đáp ứng<br /> các yêu cầu phức tạp và luôn thay đổi của công<br /> việc để tạo ra năng suất và hiệu quả cao, đóng<br /> góp cho sự tăng trưởng và phát triển của mỗi<br /> đơn vị nói riêng và toàn xã hội nói chung3.<br /> Thứ nhất, nguồn nhân lực chất lượng cao<br /> là nguồn lực chính quyết định quá trình tăng<br /> trưởng và phát triển kinh tế- xã hội. Nguồn<br /> nhân lực, nguồn lao động là nhân tố quyết<br /> định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái<br /> tạo các nguồn lực khác. Thứ hai, nguồn nhân<br /> lực chất lượng cao là một trong những yếu tố<br /> quyết định sự thành công của sự nghiệp CNH,<br /> HĐH; là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn<br /> diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã<br /> hội, từ sử dụng lao động thủ công là phổ biến<br /> sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động<br /> được đào tạo cùng với công nghệ tiên tiến,<br /> phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện<br /> đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.<br /> Đối với nước ta đó là một quá trình tất yếu<br /> để phát triển kinh tế thị trường định hướng<br /> XHCN. Thứ ba, nguồn nhân lực chất lượng<br /> cao là điều kiện để rút ngắn khoảng cách<br /> <br /> 1 Nguyễn Đức Khiêm, (2016). Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn<br /> nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.<br /> http://caodangvinhphuc.edu.vn/vi/news/Doi-tac/Cac-nhan-toanh-huong-den-nguon-nhan-luc-cho-phat-trien-kinh-te-xa-hoio-nuoc-ta-hien-nay-209/<br /> 2 Trần Duy (2015), Vai trò của giáo dục và đào tạo đối với<br /> sự phát triển, http://nxbhanoi.com.vn/chi_tiet_tin/tabid/204/<br /> cateID/4/artilceID/15531/language/vi-VN/Default.aspx<br /> <br /> 3 Nguyễn Tiến Dzũng & Nguyễn Phan Thu Hằng (2011), Phát<br /> triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại Thành phố Hồ Chí<br /> Minh, Tạp chí Phát triển KH-CN, 14(1), Tr.101-111.<br /> <br /> 112<br /> <br /> Vai trò của giáo dục . . .<br /> <br /> tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy<br /> nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nhằm<br /> phát triển bền vững. Thứ tư là, nguồn nhân<br /> lực chất lượng cao là điều kiện hội nhập kinh<br /> tế quốc tế<br /> 3. PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC<br /> CHẤT LƯỢNG CAO HƯỚNG TỚI NỀN<br /> KINH TẾ TRI THỨC Ở THÀNH PHỐ<br /> HỒ CHÍ MINH<br /> Theo WB (2007) nền kinh tế tri thức<br /> cần được xây dựng dựa trên 4 trụ cột: (1) cơ<br /> chế kinh tế và thể chế; (2) Giáo dục; (3) Hệ<br /> thống đổi mới sáng tạo và (4) Cơ sở hạ tầng<br /> về thông tin và truyền thông. Hiện nay một<br /> số các nghiên cứu liên quan đến kinh doanh<br /> cũng có những mô hình sử dụng các thành<br /> phần tương tự như 4 trụ cột này.<br /> Cơ chế kinh tế và thể chế: bao gồm các<br /> chính sách và thể chế cho phép việc huy động<br /> và phân bổ nguồn lực hiệu quả, khuyến khích<br /> tinh thần doanh nghiệp, thúc đẩy sự sáng tạo,<br /> phổ biến, và sử dụng hiệu quả tri thức. Giáo<br /> dục: là đào tạo những lao động có trình độ và<br /> tay nghề cao, có khả năng cập nhật kiến thức<br /> và kĩ năng liên tục để sáng tạo và sử dụng tri<br /> thức một các hiệu quả. Hệ thống giáo dục đào tạo bao gồm trường tiểu học, trung học,<br /> trường nghề, cao đẳng, đại học, và cơ chế<br /> học tập trọn đời. Học tập trọn đời đang ngày<br /> càng đóng vai trò quan trọng trong bối cảnh<br /> cuộc cách mạng tri thức hiện nay, khi tri thức<br /> mới liên tục được tạo ra, nó đòi hỏi con người<br /> <br /> luôn hoàn thiện theo tốc độ phát triển tri thức<br /> của nhân loại. Hệ thống đổi mới sáng tạo:<br /> bao gồm các công công ty, viện nghiên cứu,<br /> trường đại học, và các tổ chức khá mà có thể<br /> tiếp cận và theo kịp các công nghệ, kĩ thuật,<br /> tri thức mới để tiếp thu và sử dụng nguồn tri<br /> thức này phục vụ cho nhu cầu cụ thể của tổ<br /> chức doanh nghiệp. Hỗ trợ cho sự đổi mới,<br /> khoa học, và công nghệ bao gồm một loạt các<br /> yếu tố từ cơ sở hạ tầng đến thể chế, từ sự phổ<br /> biến của công nghệ cơ bản đến các hoạt động<br /> nghiên cứu tiên tiến.<br /> Cơ sở hạ tầng về thông tin và truyền<br /> thông: cơ sở hạ tầng về thông tin và truyền<br /> thông hiện đại và hoàn chỉnh sẽ tạo điều kiện<br /> cho việc trao đổi, xử lý, và phổ biến thông tin<br /> hiệu quả. Công nghệ truyền thông bao gồm<br /> mạng điện thoại, truyền hình, phát thanh,<br /> internet là cơ sở hạ tầng thiết yếu của nền kinh<br /> tế toàn cầu dựa trên thông tin trong thế kỉ 21.<br /> Những cơ sở hạ tầng này có thể giảm dáng kể<br /> chi phí giao dịch bằng cách cung cấp sự tiếp<br /> cận thông tin mọi lúc mọi nơi. Các chính sách<br /> liên quan đến công nghệ thông tin bao gồm<br /> quy định về viễn thông cũng như các khoản<br /> đầu tư cần thiết để xây dựng và khai thác công<br /> nghệ thông tin và truyền thông trong nền kinh<br /> tế và xã hội thông qua các ứng dụng điện tử<br /> như chính phủ điện tử (e-government), kinh<br /> doanh điện tử (E-business), học tập điện tử<br /> (E-learning)…<br /> <br /> Bảng 1: Bước tiến về bốn trụ cột hướng đến nền kinh tế tri thức của VN<br /> Chỉ số về cơ chế kinh tế và thể chế<br /> Chỉ số về giáo dục<br /> Chỉ số về đổi mới sáng tạo<br /> Chỉ số về công nghệ thông tin và truyền thông<br /> <br /> 113<br /> <br /> 2012<br /> 2,8<br /> 2,99<br /> 2,75<br /> 5,05<br /> <br /> 2000<br /> 1995<br /> 2,74<br /> 2,64<br /> 2,82<br /> 2,28<br /> 2,4<br /> 2,34<br /> 2,92<br /> 4,5<br /> Nguồn: Nguyễn Trọng Hoài 2013<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2