intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vai trò của hội đồng trường trong quản trị đại học ở các cơ sở giáo dục đại học công lập thí điểm thực hiện cơ chế tự chủ - tự chịu trách nhiệm theo Nghị quyết số 77/NQ-CP

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

16
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Vai trò của hội đồng trường trong quản trị đại học ở các cơ sở giáo dục đại học công lập thí điểm thực hiện cơ chế tự chủ - tự chịu trách nhiệm theo Nghị quyết số 77/NQ-CP đưa ra một số kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước, với các cơ sở GDĐH nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hội đồng trường trong điều kiện tự chủ đại học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vai trò của hội đồng trường trong quản trị đại học ở các cơ sở giáo dục đại học công lập thí điểm thực hiện cơ chế tự chủ - tự chịu trách nhiệm theo Nghị quyết số 77/NQ-CP

  1. VAI TRÒ CỦA HỘI ĐỒNG TRƯỜNG TRONG QUẢN TRỊ ĐẠI HỌC Ở CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP THÍ ĐIỂM THỰC HIỆN CƠ CHẾ TỰ CHỦ - TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM THEO NGHỊ QUYẾT SỐ 77/NQ-CP Lê Trung Thành Nguyễn Bá Nhẫm Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Lời mở đầu Tự chủ, tự chịu trách nhiệm được nhìn nhận là điều kiện căn bản để các trường thực hiện theo cơ chế tự chủ, là yếu tố quyết định đến việc phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm đầu ra của cơ sở giáo dục đại học (Estermann và Nokkala, 2009). Quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học được quy định tại Luật Giáo dục Đại học sửa đổi bổ sung năm 2018; Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công; Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017, theo đó các cơ sở giáo dục đại học công lập (GDĐHCL) được quyền tự chủ toàn diện trong học thuật và hoạt động chuyên môn; tổ chức bộ máy nhân sự; tự chủ trong tài chính và tài sản. Tuy nhiên, bên cạnh việc giao quyền tự chủ càng cao thì trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục càng cao vì thế đòi hỏi hội đồng trường của các cơ sở giáo dục đại học công lập (GDĐH) cần phải nâng cao vai trò giám sát, thực hiện quyền đại diện cho chủ sở hữu, người học, xã hội và các bên liên quan đối với các quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở GDĐH. Nghị quyết 19/NQ-TW và Luật Giáo dục sửa đổi bổ sung số 34/2018 đã có hiệu lực từ 01/7/2020 đã dần khẳng Hội đồng trường là một tổ chức có quyền lực thực sự, có vai trò và vị trí quan trọng thay mặt cơ quan quản lý nhà nước về quản trị đại học trong điều kiện mới tiến tới xóa bỏ vai trò bộ chủ quản. Trên cơ sở khảo sát thực tế và tổng hợp báo cáo của 23 cơ sở GDĐH thực hiện Nghị quyết 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ, bài viết hướng đến làm rõ thêm tình hình triển khai thực hiện của hội đồng trường với vai trò là tổ chức quản trị đại học thực hiện quyền giám sát cho đại diện của sở hữu và các bên liên quan để từ đó chỉ ra kết quả đạt được, những khó khăn và vướng mắc của hội đồng trường tại các cơ sở GDĐHCL thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện, đồng thời bài viết đưa ra một số kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước, với các cơ sở GDĐH nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hội đồng trường trong điều kiện tự chủ đại học. Từ khóa: tự chủ, hội đồng trường, cơ sở giáo dục đại học, Nghị quyết 77/NQ- CP 1. Tổng quan về cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm tại các trường đại học công lập Việt Nam. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về đổi mới giáo dục đại học (GDĐH) là trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm xã hội cho các trường đại học công lập trong hệ thống giáo dục Việt Nam là một yêu cầu cấp thiết đảm bảo đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Kinh nghiệm cải cách giáo dục đại học của các nước có nền giáo dục đại học phát triển là 109
  2. Chính phủ tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính cho các trường đại học. Từ năm 2002 Chính Phủ đã ban hành Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 về chế độ tài chính áp dụng cho các đơn vị sự nghiệp có thu, trong đó có hệ thống các trường đại học công lập đã tạo ra nhiều chuyển biến đáng kể trong công tác quản lý tài chính ở các đơn vị này. Tuy nhiên, Nghị định 10 mới chỉ dừng lại ở mức trao quyền tự chủ về tài chính cho các đơn vị này, ngoài ra các đơn vị vẫn còn phải chịu nhiều các dàng buộc khác bởi các quy định của Nhà nước. Chính vì vậy, năm 2006 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/NĐ-CP ngày 25/04/2006 quy định về tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Theo đó, quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp này được giao đầy đủ hơn so với Nghị định 10/2002/NĐ-CP cả về mặt tổ chức bộ máy, biên chế, tài chính đồng thời gắn chặt với tính tự chịu trách nhiệm của các đơn vị. Thực hiện chủ trương đó, từ năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thí điểm giao quyền tự chủ toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên cho 4 trường đại học theo quyết định số1331/QĐ-BGDĐT ngày 26/3/2008 gồm Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Trường Đại học Kinh tế Thành Phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Ngoại Thương, Trường Đại học Hà Nội. Để tiếp tục tăng quyền tự chủ cho các cơ sở GDĐH một cách toàn diện hơn, ngày 24/10/2014 Chính phủ ban hành Nghị quyết 77/2014/NQ-CP “Thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sởGDĐHCL giai đoạn 2014-2017”,theo đó các cơ sở GDĐHCL thí điểm thực hiện tự chủ tài chính cả chi thường xuyên và chi đầu tư được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm một cách đầy đủ toàn diện trên các mặt: (i) Tự chủ thực hiện các nhiệm vụ đào tạo nghiên cứu khoa học: quyết định mở ngành, chuyên ngành, chỉ tiêu tuyển sinh, chương trình giảng dạy, phương pháp giảng dạy đảm bảo điều kiện chuẩn đầu ra và kiểm định chất lượng; quyết định liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước trên cơ sở các chương trình liên kết được kiểm định chất lượng; quyết định định hướng nghiên cứu, khuyến khích thương mại hóa kết quả nghiên cứu, quyết định tham gia các nhiệm vụ nghiên cứu, tổ chức hội thảo, hội nghị, sử dụng tài sản, cơ sở vật chất, thương hiệu tham gia liên doanh liên kết trong hoạt động khoa học phù hợp với chuyên môn. (ii) Tự chủ tổ chức, bộ máy nhân sự: quyết định cơ cấu tổ chức bộ máy, thành lập mới, sát nhập, giải thể, chia tách, quy định chức năng nhiệm vụ của các đơn vị trực thuộc; giao kết hợp đồng lao động với giảng viên, nhà khoa học, chuyên gia là người nước ngoài trong hoạt động đào tạo, nghiên cứu. (iii) Tài chính tài sản: quyết định mức học đối với từng ngành nghề, chương trình đào tạo theo nhu cầu người học và chất lượng đào tạo không vượt quá giới hạn mức học phí bình quân tối đa của nhà nước quy định thực hiện công khai mức học phí cho người học trước khi tuyển sinh; quyết định những khoản thu sự nghiệp ngoài học phí theo nguyên tắc bù đắp chi phí và tích lũy hợp lý;chi trả thu nhập tăng thêm của người lao động theo quy chế chi tiêu nội bộ, ngoài tiền lương ngạch, bậc theo quy định của Nhà nước; sử dụng nguồn thu của đơn vị để chi cho các hoạt động thường xuyên, bảo đảm đạt chuẩn chất lượng đầu ra theo đúng cam kết; trích lập các quỹ sử dụng các quỹ;quyết định về đầu tư mua sắm, các dự án từ nguồn thu hợp pháp của nhà trường và nguồn thu hợp pháp khác do nhà trường huy động. Để đảm bảo đầy đủ cơ sở pháp lý về thì quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện của các cơ sở GDĐH đã được quy định rõ tại Luật Giáo dục Đại học sửa đổi bổ 110
  3. sung năm 2018, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công. Nghị quyết 19/2017/NQ-TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập. Như vậy, chủ trương tiến tới dần xóa bỏ cơ chế cơ quan chủ quản đối với các cơ sở GDĐHCL và tăng cường giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở GDĐHCLlà chủ trương đúng đắn mang tính đột phá, phù hợp với xu hướng tất yếu và được thể hiện một cách nhất quán trong các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Chính phủ. Bởi vậy, việc thành lập Hội đồng trường là tổ chức có quyền lực thực hiện vai trò giám sát trong quản trị đại học thay mặt cho chủ sở hữu nhà nước tại các cơ sở GDĐH thực hiện tự chủ theo Nghị quyết 77/QN-CP, Luật Giáo dục sửa đổi bổ sung năm 2018 là một tất yếu trong điều kiện mới đáp ứng yêu cầu trong quản trị đại học nhằm bảo toàn vốn của nhà nước và định hướng phát triển cho các trường đại học đảm bảo mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội. 2. Sự cần thiết phải thành lập Hội đồng trường để thực hiện chức năng giám sát các cơ sở giáo dục đại học công lập thực hiện tự chủ Trước tiên, việc thành lập Hội đồng trường (HĐT) thể hiện tính tuân thủ luật pháp của các cơ sở GDĐHCL. Luật Giáo dục Đại học sửa đổi bổ sung năm 2018, Điều lệ Trường đại học số 70/2017/QĐ-TTg ngày 10/12/2014, Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 đều khẳng định HĐT là một tổ chức quản lý trong cơ cấu của các cơ sở GDĐHCL, đóng vai trò đại diện chủ sở hữu cho tài sản nhà nước đã đầu tư và đảm bảo định hướng phát triển của nhà trường, gắn hoạt động của nhà trường với trách nhiệm xã hội, bảo toàn vốn nhà nước cũng như thực hiện các mục tiêu giáo dục và quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của trường theo pháp luật. Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của quản trị trường đại học trong điều kiện tự chủ đại học, đòi hỏi việc quản trị đại học phải tách ra khỏi quản lý nhà nước, bảo đảm quản trị không bị chi phối trực tiếp bởi lợi ích vật chất khi xóa bỏ cơ quan chủ quản. Các cơ sở GDĐH được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm càng cao thì trách nhiệm giải trình đối với chủ sở hữu nhà nước, đối với cơ quan quản lý và xã hội ngày càng cao để có thể tồn tại và phát triển một cách tương đối độc lập trong bối cảnh các cơ sở GDĐT phải cạnh tranh nhằm nâng cao chất lượng, tạo tuy tín thương hiệu để thu hút sinh viên, vì thế cần phải có một tổ chức có quyền lực thực sự giám sát toàn diện các hoạt động của trường phát triển theo đúng định hướng và bảo toàn vốn nhà nước đó là Hội đồng trường. Thứ ba, HĐT là tổ chức quản lý độc lập với tư cách là đại diện cho chủ sở hữu và các bên có lợi ích liên quan trong việc giám sát quyền cũng như trách nhiệm của các cơ sở GDĐHCL đảm bảo hài hòa lợi ích của nhà nước và các bên liên quan. Thứ tư, giám sát một cách toàn diện về tài chính tài sản đảm bảo nguyên tắc sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính; giám sát các hoạt động liên doanh, liên kết sử dụng tài sản, thương hiệu của trường.. nhằm bảo toàn vốn của nhà nước tại các cơ sở giáo dục đại học. 3. Hoạt động của hội đồng trường trong điều kiện tự chủ 3.1. Thành lập hội đồng trường Kết quả khảo sát tại 23 cơ sở GDĐHCL thí điểm tự chủ theo Nghị quyết 77/NQ- CP có 20/23 trường đã có HĐT chiếm 86,9%. Trong đó 4 trường có HĐT được thành 111
  4. lập theo Luật Giáo dục sửa đổi năm 2018, còn lại 16 trường HĐT được thành lập theo Luật Giáo dục 97/2015/QH13 và Điều lệ trường đại học theo Quyết định số 70. Kết quả khảo sát đã cho thấy hầu hết các trường đại học tự chủ đã nhận thức đầy đủ về vai trò cũng như tầm quan trọng phải thành lập HĐT để phục vụ cho vấn đề quản trị đại học trong điều kiện mới, phê chuẩn các quyết nghị, các chủ trương chính sách lớn thay cho các việc mà trường phải báo cáo cơ quan chủ quản như trước đây phê duyệt, vì thế các chủ trương lớn thường được thông qua nhanh hơn, kịp thời và triển khai hiệu quả hơn. Tuy nhiên, vẫn còn 3/23 trường tự chủ (không thuộc Bộ GDĐT) chưa thành lập được HĐT. Việc chậm thành lập HĐT ở các trường này xuất phát từ những nguyên nhân sau: Thứ nhất, chủ yếu xuất phát từ nội bộ các trường, giữa trường và bộ chủ quản chưa thống nhất được phương án nhân sự; việc cử nhân của các trường không thuộc Bộ GDĐT trong việc cử nhân sự tham gia Chủ tịch HĐT “với quy định mới của Luật Giáo dục 2017 thì người ngoài trường làm Chủ tịch HĐT thì phải chuyển về cơ hữu tại trường”; việc phân định rõ vai trò trách nhiệm trong quan hệ công tác giữa Đảng ủy - Hội đồng trường - Giám hiệu tại các trường này chưa rõ ràng. Thứ hai, thiếu một chế tài chưa đủ mạnh đối với các trường đại học tự chủ chưa thành lập HĐT. Các trường đại học khi được giao tự chủ theo Nghị quyết 77/NQ-CP thì điều kiện phải có HĐT không phải là điều kiện tiên quyết và cũng không có chế tài nào để xử lý đối với những trường sau khi được tự chủ nhưng cũng không thành lập HĐT. Nếu pháp luật quy định những trường đại học tự chủ sau 1 năm kể từ ngày được tự chủ mà chưa thành lập được HĐT thì bị thu hồi quyết định giao tự chủ hoặc một chế tài tài chính thì việc thành lập HĐT sẽ được tiến hành khẩn trương và kịp thời hơn. Thứ ba, chưa có chế tài đối với các trường tự chủ thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Giáo dục sửa đổi bổ sung năm 2018 phải thành lập lại HĐT chậm trễ trong việc triển khai thành lập lại HĐT tính từ ngày 15/02/2020 Nghị định 99/2019/NĐ có hiệu lực. 3.3. Cơ cấu thành viên của hội đồng trường Với các trường tự chủ đã thành lập HĐT, số thành viên đảm bảo theo đúng quy định là số lẻ với số tối thiểu có 15 người và tối đa là 25 người bao gồm các thành viên đương nhiên, thành viên bầu và thành viên ngoài trường đại diện cho cơ quan chủ quản và tổ chức xã hội, số thành viên trung bình là 18,95 người. Bảng 1. Cơ cấu thành viên hội đồng trường của các trường tự chủ Số TT Cơ cấu thành viên lượng Tỷ lệ % (Người) Thành viên bên trong 1. Chủ tịch Hội đồng trường 20 5,28 Là bí thư 4 1,06 Không là bí thư 16 4,22 2. Thành viên đương nhiên 101 26,65 trường Hiệu trưởng là Bí thư 6 1,58 Hiệu trưởng 13 3,43 112
  5. Phó Hiệu trưởng 53 13,98 Chủ tịch Công đoàn 13 3,43 Bí thư Đoàn Thanh niên 16 4,22 3. Thành viên bầu đại diện giảng viên 154 40,63 Lãnh đạo Phòng/ban/khoa/viện/BM 152 40,11 Giảng viên không giữ chức vụ quản lý 2 0,53 Thành viên bên 4. Thành viên đại diện bên ngoài 104 27,44 ngoài trường Đại diện cơ quan chủ quản 20 5,28 Đại diện cơ quan QLNN 11 2,90 Đại diện DN, tổ chức XH 73 19,26 Tổng cộng 379 100,00 Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Website 20 trường đại học tự chủ Trong cơ cấu HĐT, tỷ lệ thành viên thuộc trường là 72,56%, trong đó tỷ lệ thành viên đương nhiên là 31,9% (5,01% hiệu trưởng, Bí thư Đảng ủy;phó Hiệu trưởng 13,58%; Chủ tịch công đoàn 3,43% và 4,22% Bí thư Đoàn Thanh niên); đại biểu bầu đại diện giảng viên được bầu chiếm 40,6% (vẫn chủ yếu là Hiệu phó, lãnh đạo phòng ban, khoa/viện/bộ môn, chỉ có 02 giảng viên không giữ chức vụ quản lý). Nhìn chung về tỷ lệ đại biểu bầu đại diện cho giảng viên các trường tự chủ đều đảm bảo tỷ lệ theo quy định tối thiểu là 25%. Trong khi đó tỷ lệ thành viên bên ngoài trường là 27,44%; thành viên là đại diện cơ quan chủ quản là 5,28%; thành viên đại diện các, doanh nghiệp, tổ chức xã hội 22,16%. Tỷ lệ thành viên ngoài trường chưa đảm bảo tỷ lệ theo quy định tối thiểu là 30%. Cơ cấu thành viên 22% 32% TV đương nhiên 5% TV bầu đại diện giáo viên TV đại diện cơ quan QLNN 41% TV đại diện tổ chức XH, DN Hình 3.1 Cơ cấu thành viên hội đồng trường của các trường tự chủ Với cơ cấu và thành phần thành viên của HĐT của các trường có thể thấy: (i) Thành viên trong trường chiếm tỷ lệ khá lớn 72,56% lại là hiệu trưởng, bí thư đảng ủy, hiệu phó, chủ tịch công đoàn, lãnh đạo các phòng ban/khoa viện, lãnh đạo các 113
  6. bộ môn đang nắm giữ các vị trí quản lý ở các đơn vị của trường trong các lĩnh vực tổ chức, tài chính, tài sản, khoa học đào tạo bởi vậy mà rất khó tách bạch khi thực hiện các nhiệm vụ của thành viên HĐT trong các quyết sách của HĐT. Những thành viên này khó có thể đem đến những ý kiến hay tiếng nói khách quan trong các cuộc họp của HĐT. (ii) Các thành viên ngoài trường nếu được lựa chọn từ các cơ quan bên ngoài đối với các thành viên cơ quan quản lý chủ quản chủ yếu quản lý, đảm nhận những chức vụ quan trọng lại tham gia thành viên ở nhiều trường nên cũng hạn chế về mặt thời gian cho hoạt động của HĐT.Các thành viên ở các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cơ quan quản lý thường có sự hiểu biết hạn chế về trường và mức độ tâm huyết với hoạt động của HĐT không cao, vai trò khá mờ nhạt. Tuy nhiên, một số thành viên từ các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp được mời tham gia có thể mang lại những lợi ích cho nhà trường (như cơ hội mở rộng cơ sở vật chất, các mối quan hệ hay nguồn vốn ưu đãi, môi trường cho sinh viên thực hành và các cơ hội công việc), các thành viên này chủ yếu là lãnh đạo các doanh nghiệp, tập đoàn lớn, cựu sinh viên là những người thành đạt, có ảnh hưởng, uy tín đối với xã hội nên họ rất ít thời gian để tham gia vào chiến lược phát triển trường và họ cũng không bị ràng buộc bởi lợi ích cũng như trách nhiệm trong HĐT. Việc phân bổ thời gian tham gia các cuộc họp của HĐT đối với các thành viên ngoài trường còn hạn chế gây khó khăn cho việc tổ chức họp HĐT. Nhìn chung cơ cấu HĐT của các trường tự chủ đều được thành lập đã bám sát theo các quy định của Luật Giáo dục đại học và điều lệ trường đại học. Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức HĐT hiện nay chưa có bộ máy giúp việc riêng mà các công việc chủ yếu do thư ký và các đơn vị của trường hỗ trợ, các thành viên chủ yếu là kiêm nhiệm, các HĐT chưa có Ban kiểm soát hoặc bộ phận chuyên trách giám sát các hoạt động của nhà trường trên các lĩnh vực tự chủ như tổ chức bộ máy, nhân sự,tự chủ về đào tạo, nghiên cứu khoa học đặc biệt là giám sát toàn diện về tự chủ về tài chính, tài sản nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính và bảo toàn vốn của nhà nước vì thế mà hoạt động giám sát của HĐT vẫn chưa đem lại hiệu quả. Đại diện của các thành viên bên ngoài tham gia vào HĐT là 27,% còn thấp hơn quy định tối thiểu 30%, đại diện cơ quan chủ quản tại HĐT chưa thực sự là cầu nối giữa nhà trường và đơn vị chủ quản vì đơn vị chủ quản cũng chưa có những hướng dẫn cụ thể cho các đại diện của mình tham gia các HĐT. Tỷ lệ các thành phần đương nhiên còn lớn do phần lớn các HĐT của các trường đang hoạt động đều được thành lập theo Luật Giáo dục 97/2015/QH13 và điều lệ trường đại học 70/2014, trong đó đại diện đương nhiên bao gồm toàn bộ Ban giám hiệu, Bí thư cũng là nguyên nhân dẫn đến tính phản biện của HĐT chưa mạnh mẽ. 3.2. Chủ tịch Hội đồng trường Trong số 23 trường đại học tự chủ đã có 20 trường thành lập HĐT, tỷ lệ Chủ tịch HĐT là thành viên trong trường chiếm 75,%; thành viên bên ngoài thuộc cơ quan chủ quản là 25% (trong đó có 20,% chủ tịch HĐT hiện là Bí thư Đảng ủy, phó bí thư Đảng ủy; còn lại 80,0% chủ tịch HĐT không là Bí thư nhưng chủ yếu vẫn đang kiêm nhiệm vị trí quản lý như lãnh đạo các phòng ban/khoa viên các đơn vị trực thuộc trường). Do việc thành lập và hoạt động của HĐT mới thực sự bắt buộc từ khi các trường tự chủ theo Nghị quyết 77/NQ-CP, Luật Giáo dục sửa đổi bổ sung năm 2018, do đó thời gian hoạt động chưa nhiều, HĐT chưa thể hiện được vai trò là tổ chức quyền lực của 114
  7. trường đại học, hiệu quả hoạt động chưa thực sự rõ ràng vì thế không dễ dàng tìm được nhân sự đáp ứng các yêu cầu theo Luật Giáo dục và điều lệ trường đại học lại vừa có tầm và tâm huyết với trường từ bỏ vị trí quản lý để đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch HĐT. Bởi vậy, một số trường Chủ tịch HĐT chưa có nhiều kinh nghiệm quản lý so với Ban giám hiệu, một số vẫn còn đang nắm giữ một vị trí quản lý nào đó và được trường trả lương theo ngạch bậc và nhiệm vụ dẫn đến việc điều hành hoạt động HĐT thường thiếu tính khách quan. Một số trường muốn bổ nhiệm lãnh đạo bộ chủ quản làm Chủ tịch HĐT thiếu linh hoạt bị vướng quy định Chủ tịch HĐT phải có học vị tiến sĩ trở lên, phải chuyển về cơ hữu tại trường. Điều này gây khó khăn cho các trường trực thuộc UBND tỉnh, liên đoàn, tổng công ty hoặc các cơ sở giáo dục định hướng thực hành. 3.3. Hoạt động của Hội đồng trường Tất cả các trường ĐH tự chủ đã thành lập HĐT và ban hành quy chế tổ chức hoạt động của HĐT để triển khai thực hiện. Quy chế đã quy định cụ thể chức năng nhiệm vụ, mối quan hệ công tác giữa HĐT với Đảng ủy, HĐT với Ban giám hiệu vì thế trong quá trình triển khai thực hiện HĐT phần lớn đã thực hiện khá tốt và phát huy được vai trò là tổ chức quản trị đại học với chức năng thực hiệngiám sát việc điều hành và quản lý của ban giám hiệu thực hiện theo kế hoạch do HĐT theo quyết nghị hàng năm. Tuy nhiên, ở một số trường chưa nhận thức đầy đủ vai trò, chức năng nhiệm vụ của HĐT, quy chế vẫn chung chung, chưa phân định rõ ràng nên hoạt động của HĐT còn mờ nhạt nên BGH nhà trường vẫn là vị trí cao nhất và quyết định gần như là tất cả các vấn đề của nhà trường. Một số cơ sở GDĐH do Chủ tịch HĐT là người ngoài giữ vị trí cao, nên việc phân bổ thời gian dành cho công việc HĐT dường như không có nên HĐT có họp thì Hiệu trưởng vẫn là người điều hành. Một số cơ sở thì Chủ tịch HĐT lại là trưởng một đơn vị trực thuộc cấp dưới của Hiệu trưởng, hoặc chỉ đảng ủy viên là cấp dưới của Bí thư nên việc điều hành chủ trì các cuộc họp với thành viên là ban giám hiệu thường hạn chế. Vai trò của Chủ tịch HĐT do đó thường bị lu mờ hoặc bị lấn át. Ngoài ra, việc HĐT không có bộ máy giúp việc độc lập, kinh phí phụ thuộc vào kinh phí do trường phân bổ như các đơn vị khác trực thuộc trường, thiếu các bộ phận chuyên trách có chuyên môn sâu để thẩm định các vấn đề mang tính chiến lược như các chiến lược ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, các dự án đầu tư xây dựng, đề án, ...thay cho nhiệm vụ của Bộ chủ quản, nhưng phần lớn lại không sử dụng các dịch vụ tư vấn thuê ngoài, bởi vậy các chiến lược, quyết nghị, báo cáo quyết toán tài chính hàng năm của Trường, HĐT vẫn hoàn toàn phụ thuộc vào các thông tin của ban giám hiệu trình và báo cáo, điều này cũng làm giảm vai trò giám sát và hiệu quả hoạt động của HĐT trong thời gian qua. Hình thức hoạt động chủ yếu của HĐT là các cuộc họp. Theo quy định HĐT họp định kỳ, theo Luật Giáo dục năm 2015, cuộc họp HĐT diễn ra 6 tháng 1 lần, còn theo Luật Giáo dục sửa đổi bổ sung năm 2018 thì 3 tháng HĐT sẽ họp một lần và họp bất thường được thông báo bằng văn bản. Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy đa số các trường có HĐT đều đã tổ chức được ít nhất 1 cuộc họp, nhiều nhất là 11 cuộc họp/năm. Với hình thức chủ yếu, thậm chí các cuộc họp với tần suất phổ biến 2 cuộc/năm, 4 cuôc họp/năm với thời gian cho mỗi cuộc họp chỉ là ½ ngày, trong khi các trường tự chủ đều là các trường lớn các hoạt động về đào tạo, nghiên cứu, tài chính các công việc cần phải giảỉ quyết là rất lớn, thì dường như vai trò của HĐT cũng chưa thể hiện rõ nét và đóng góp cho sự phát triển của nhà trường. Hơn thế nữa, chế độ làm việc theo kỳ họp gặp khó khăn khi thu xếp lịch họp cho tất cả các thành viên (đặc biệt là thành viên 115
  8. ngoài trường), một số vấn đề cấp bách phát sinh cần xử lý, từ khi Hiệu trưởng gửi tài liệu đến khi triệu tập đủ thành viên theo quy định của HĐT để họp thường mất nhiều thời gian, làm ảnh hưởng tiến độ giải quyết các công việc cấp bách, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của HĐT. 3.4. Thực hiện vai trò giám sát của Hội đồng trường Nhìn chung, có thể nói vai trò giám sát của HĐT với tư cách là một tổ chức có quyền lực nhất ở các trường ĐHCL tự chủ thực hiện vai trò quản trị đại học thể hiện rất mờ nhạt. Hội đồng trường mới chỉ thực hiện chức năng thông qua các Quyết nghị liên quan đến chiến lược; kế hoạch phát triển; ban hành quy chế tổ chức và hoạt động, quy chế tài chính; kế hoạch tài chính; các đề án về bộ máy tổ chức, nhân sự; đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế của Hiệu trưởng trình. Tuy nhiên, HĐT chưa thể hiện được đúng chức năng nhiệm vụ là tổ chức quyền lực nhất thực hiện quyền đại diện cho chủ sở hữu với vai trò giám sát mà mới chỉ ở mức độ xem xét các báo cáo của BGH, việc thẩm định hoặc chất vấn còn rất ít. Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng này là chưa có bộ máy giúp việc, chưa có bộ phận chuyên trách, thiếu bộ phận có trình độ chuyên sâu am hiểu về lĩnh vực giám sát, phần lớn thành viên HĐT trong trường bao gồm thành viên đương nhiệm và thành viên được bầu chủ yếu vẫn là lãnh đạo đương chức các đơn vị là cấp dưới trực tiếp của Hiệu trưởng, Bí thư, đang phụ trách những lĩnh vực thuộc thẩm quyền giám sát của HĐT là người làm các báo cáo giúp BGH trình HĐT nên khi thực hiện vai trò giám sát với tư cách là thành viên HĐT dẫn đến tình trạng xung đột lợi ích cũng như thiếu khách quan trọng quá trình thẩm định. Những thành viên HĐT này họ có xu hướng bảo vệ lợi ích của mình trong vai trò là lãnh đạo các đơn vị thuộc trường (cấp dưới của Hiệu trưởng) hơn là ở vai trò thành viên HĐT. Đối với thành viên bên ngoài trường, việc có ít thông tin, đặc biệt là các thông tin mang tính nhạy cảm liên quan đến tài chính, đào tạo thông tin về trường không thật đầy đủ, một số thì khó khăn trong việc phân bổ thời gian cho hoạt động của HĐT nên việc tham gia hoạt động giám sát là rất hạn chế hiệu quả chưa như kỳ vọng. Kết quả khảo sát đối với cán bộ, nhân viên, giảng viên và người quản lý tại các trường tự chủ có đến 81,6% cho rằng HĐT đã hoạt động theo đúng quy định của Luật Giáo dục và điều lệ trường đại học nhưng vẫn mang tính hình thức, thiếu thẩm quyền cụ thể. Hoạt động của HĐT phụ thuộc nhiều vào sự năng động, uy tín vị thế của Chủ tịch HĐT mà rất nhiều thành viên trong HĐT là cấp dưới của Hiệu trưởng. Ngoài ra, có đến 61,8% cho rằng đã có sự phân định rõ trách nhiệm giữa HĐT và Ban giám hiệu, HĐT có kế hoạch làm việc rõ ràng chiếm đến 56,5%. Chính vì thế, sự ủng hộ hay quan tâm tới HĐT tại các cơ sở GĐĐHCLcòn hạn chế do hiệu quả hoạt động chưa cao và có đến 47,7% ứng viên cho rằng HĐT hoạt động không có hiệu quả. 3.5. Phối hợp với Ban giám hiệu và Đảng ủy Một vấn đề rất quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của HĐT là sự phối hợp giữa HĐT với Đảng ủy trường, HĐT với Ban giám hiệu. Mặc dù Nghị quyết 19/NQ-TW về Bí thư kiêm Chủ tịch HĐT nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐT, nhưng thực tế triển khai vẫn còn gặp nhiều trở ngại. Kết quả khảo sát cho thấy 64,7% HĐT đã hợp tác với Ban giám hiệu và Đảng ủy trường trong các hoạt động của trường, nhưng chỉ có 48,7% cho rằng sự phối hợp này là chặt chẽ. Mối quan hệ giữa HĐT với Đảng ủy, HĐT với Ban Giám hiệu chưa được quy 116
  9. định hướng dẫn rõ ràng trong các văn bản pháp luật và các quy chế hoạt động trường nên thực tế một số trường hợp, việc xử lý mối quan hệ này còn lúng túng. Chưa có cơ chế rõ ràng, gắn kết về thẩm quyền, quyền lợi và trách nhiệm của HĐT với Đảng ủy, HĐT với Ban Giám hiệu cũng như với các hoạt động trong nhà trường để tạo động lực, nhiệt huyết cho hoạt động của các thành viên của HĐT. 4. Đánh giá chung, đề xuất và khuyến nghị 4.1 Những kết quả đạt được Thứ nhất, cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm giúp các trường đại học tự chủ toàn diện thay đổi nhận thức về sự cần thiết phải thành lập HĐT xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn và nhận thức đầy đủ về vai trò cũng như tầm quan trọng của HĐT trong quản trị đại học với vai trò thực hiện quyền đại diện cho chủ sở hữu và các bên liên quan. Đã có 20/23 trường đại học tự chủ đã thành lập được HĐT chiếm 86,96% và đã ban hành quy chế tổ chức hoạt động của HĐT. Về số lượng, cơ cấu thành viên cơ bản đều tuân thủ theo Luật Giáo dục và Điều lệ trường đại học. Thứ hai, một số cơ sở GDĐH đã giải quyết tốt mối quan hệ công tác giữa HĐT với Đảng ủy, HĐT với Ban giám hiệu, Bí thư kiêm Chủ tích HĐT vì thế đã phát huy khá tốt vai trò của mình trong lãnh đạo và giám sát hoạt động của nhà trường, với việc phân định rõ chức năng nhiệm vụ của HĐT và Ban giám hiệu theo quy chế hoạt động về phối hợp trong công việc do đó hoạt động của HĐT đã đem lại hiệu quả rõ ràng, rút ngắn thời gian giải quyết các công việc, đảm bảo đúng tiến độ và yêu cầu của quá trình quản lý điều hành của ban giám hiệu góp phần rất lớn thực hiện đầy đủ quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm thay mặt Bộ chủ quản trong việc phê chuẩn các chủ trương, chiến lược, quy chế của trường theo thẩm quyền của HĐT. Thứ ba, việc quy định rõ tiêu chuẩn, chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của HĐT và Chủ tịch HĐT trong Luật Giáo dục sửa đổi năm 2018 theo đó “tăng quyền quyết định bổ nhiệm, bãi nhiệm Hiệu trưởng và các chức danh quản lý khác”và Nghị quyết số 19/NQ-TW về tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả của HĐT thực sự là cơ quan quyền lực cao nhất theo hướng là Bí thư đảng ủy kiêm Chủ tịch HĐT, Nghị quyết của Chính phủ tại kỳ họp 5/2019 về thí điểm việc kéo dài tuổi nghỉ hưu với công chức là chủ tịch HĐT của 3 trường: Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, Trường ĐH Kinh tế TPHCM nên đã khuyến khích và tìm được những nhân sự đáp ứng các yêu cầu cho vị trí Chủ tịch HĐT là những người có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có uy tín, có kinh nghiệm quản lý giáo dục đại học, có đủ sức khỏe, tự nguyện thực hiện nhiệm vụ, tham gia Chủ tịchHĐT nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả của Hội đồng trường đáp ứng các yêu cầu quản trị đại họctrong bối cảnh mới. 4.2. Những khó khăn vướng mắc Thứ nhất, cơ cấu thành viên còn chưa thực sự hợp lý. Cơ cấu thành viên trong trường còn chiếm tỷ lệ khá lớn 73,56%, trong đó các thành viên đương nhiên vẫn chiếm tỷ lệ 31,9% (Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng, Hiệu phó, Chủ tịch CĐ, Bí thư đoàn thanh niên), thành viên trong trường là đại biểu bầu “đại diện giảng viên” chiếm 41% bao gồm những người trong trường thì thành viên bầu vẫn chủ yếu là phó Bí thư, thành viên Ban giám hiệu, lãnh đạo các phòng, ban/khoa/viện/bộ môn là cấp dưới của BGH, vì thế mà cơ hội dành cho các cán bộ, giảng viên đích thực ( hiện tại không giữ vị trí quản lý) tham gia thành viên HĐT thường rất khó chiếm một tỷ lệ không đáng kể. 117
  10. Về các thành viên bên ngoài trường chiếm tỷ lệ thấp khoảng 27% (đại diện cơ quan chủ quản chỉ 5,3%) cũng chưa quy định rõ ràng về quyền lợi cũng như trách nhiệm vụ thể đối với họ tham gia thành viên HĐT, thường là những người đang giữ vị trí quản lý vì thế rất khó phân bổ thời gian tham gia các cuộc họp của HĐT về xây dựng các quyết sách để phát triển trường. Với tỷ lệ thành viên trong trường chiếm đến 73,56% lại chủ yếu thuộc cấp dưới của ban giám hiệu với hình thức hoạt động của HĐT là thông qua các cuộc họp thì các chủ trương chính sách, chiến lược, các quyết nghị của ban giám hiệu trình sẽ dễ dàng được thông qua với cơ cấu thành viên như trên, vì chỉ cần trên 50% thành viên tham gia và đồng ý. Bởi vậy, các quyết nghị chưa đảm bảo tính khách quan và ý trí của HĐT. Thứ hai, về tiêu chuẩn thành viên tham gia HĐT với những quy định chưa đầy đủ, cụ thể rõ ràng về thành viên trong trường đại diện cho giảng viên vẫn chung chung (phó Bí thư, BGH là giảng viên, lãnh đạo các đơn vị cũng là giảng viên, lãnh đạo bộ môn cũng là giảng viên…) kết quả các thành viên bầu vẫn chủ yếu là lãnh đạo các phòng ban/khoa viên/bộ môn đang giữa chức vụ quản lý thuộc cấp dưới của Ban giám hiệu. Một số trường hợp chưa quy định linh hoạt làm ảnh hưởng tới việc lựa chọn các thành viên HĐT là các thành viên bên ngoài, thường phụ thuộc vào mối quan hệ của BGH là chính, vì thế, đôi khi các thành viên bên ngoài vẫn khó có thể đưa ra những ý kiến khách quan. Cơ cấu các thành viên cũng có phần chưa hợp lý trong khi các thành viên trong trường đương nhiên và bầu vẫn chiếm tỷ lệ lớn 73,56% và chiếm đa số chủ yếu là lãnh đạo các đơn vị trực thuộc nên rất khó tách bạch khi thực hiện các nhiệm vụ của thành viên HĐT. Ngoài ra, những thành viên này khó có những ý kiến khách quan trong các cuộc họp của HĐT do là cấp dưới trực tiếp của Hiệu trưởng hoặc Bí thư. Với các thành viên ngoài trường nếu được lựa chọn từ các cơ quan có ảnh hưởng đến nhà trường thường là các cựu giảng viên, sinh viên, quan hệ đối tác của trường… có rất ít thời gian và một số ít hiểu biết về trường, mức độ tâm huyết với hoạt động của HĐT không cao, vai trò khá mờ nhạt trong các quyết sách lớn của trường. Thứ ba, mặc dù đã có quy định về mối quan hệ giữa HĐT với Đảng uỷ và HĐT với Ban giám hiệu được cụ thể hóa tại Luật Giáo dục sửa đổi bổ sung 2018 và Nghị quyết 19/NQ-TW nhưng trên thực tế triển khai thực hiện mối quan hệ này chưa được cụ thể hóa rõ ràng trong quy chế hoạt động của trường cũng như trong công tác giữa ba tổ chức trên. Mô hình quản trị đại học của Việt Nam hiện nay đang tồn tại song song HĐT và Đảng ủy cùng tham gia định hướng và giám sát toàn bộ hoạt động của trường. Thứ tư, HĐT chưa có bộ máy giúp việc riêng, thành viên trong trường chủ yếu là kiêm nhiệm chủ yếu vẫn đang giữ chức vụ quản lý, chưa có bộ phận chuyên trách có chuyên môn sâu trong thực hiện việc thẩm tra, giám sát các lĩnh vực chuyên môn, hiện tại HĐT mới chỉ thực hiện các nhiệm vụ là thông qua các quyết nghị, còn việc thẩm tra, giám sát các hoạt động thì vẫn còn thiếu nhân lực thực hiện. Thứ năm, việc thực hiện các nhiệm vụ của các thành viên HĐT còn thiếu tính khách quan, vì hầu hết các thành viên tham gia HĐT đều kiêm nhiệm, thực hiện nhiệm vụ của mình dưới quyền của Hiệu trưởng, ăn lương do Hiệu trưởng chi trả dẫn đến thiếu tính khách quan, bên cạnh đó còn có một số hạn chế mang tính chủ quan rất nguy hại như sự né tránh, nể nang, tầm nhìn hạn chế và e ngại, xung đột ảnh hưởng đến lợi ích và vị trí việc làm, thu nhập…trong bộ máy tổ chức. 118
  11. Thứ sáu, về kinh phí hoạt động của HĐT vẫn phục thuộc vào kinh phí của Nhà trường. Kinh phí hoạt động của HĐT cũng được thực hiện như các đơn vị trực thuộc trường từ khâu lập kế hoạch công việc, dự toán ngân sách trình Ban giám hiệu thẩm định phê duyệt để được giao kinh phí, các khoản chi cũng đều phải thông qua kế toán trưởng, Ban giám hiệu phê duyệt mới quyết toán được, vì thế mà các hoạt động của HĐT vẫn phải phụ thuộc vào kinh phí của trường phân bổ và thực hiện theo quy chế thu chi nội bộ. Trong khi HĐT là một tổ chức độc lập thực hiện chức năng giám sát toàn diện về tài chính tài sản, thẩm tra phê duyệt báo cáo quyết toán hàng năm của trường và giao kế hoạch và dự toán ngân sách hàng năm nhưng vẫn phải thông qua Hiệu trưởng để phân bổ kinh phí hoạt động và duyệt quyết toán.Vì thế mà thiếu tính khách quan trong hoạt động giám sát tài chính. 4.3. Kiến nghị đề xuất Thứ nhất, cần có những chế tài cụ thể đối với những trường được giao tự chủ mà sau một năm không thành lập HĐT và các trường chưa thành lập lập lại HĐT theo quy định của Luật Giáo dục đại học sửa đổi bổ sung năm 2018 mà thời gian hoạt động của HĐT lớn hơn 6 tháng tính từ khi ngày 15/02/2020 khi Nghị định 99/NĐ-CP có hiệu lực. Thứ hai, cần có những quy định cụ thể và hướng dẫn đầy đủ hơn trong điều lệ trường đại học hoặc các thông tư kèm theo đối với đối tượng là thành viên bầu đại diện “giảng viên” để làm giảm số lượng thành viên phó bí thư, ban giám hiệu, lãnh đạo các phòng ban/khoa/viện/bộ môn đang giữa chức vụ quản lý trong tổ chức bộ máy của trường tham gia thành viên HĐT, bổ sung đại diện của sinh viên, tăng tỷ lệ thành viên là giảng viên đích thực và thành viên ngoài để đảm bảo tính khách quan trongphản biện các chính sách chiến lược của HĐT. Thứ ba, các trường cần có quy chế làm việc rõ ràng để xử lý mối quan hệ trong công tác giữa HĐT và bộ chủ quản. Bộ chủ quản có cơ chế kiểm soát trường toàn diện về các mặt tự chủ thông qua HĐT. HĐT có trách nhiệm báo cáo việc thực hiện công việc với Bộ chủ quản. HĐT chỉ có thể phát huy đầy đủ vai trò và hoạt động có hiệu quả cao khi tiến dần xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản. Thứ tư, cần sự quyết tâm của giới lãnh đạo, quản lý và sự đồng thuận trong cộng đồng GDĐH. Đây là một chủ trương tạo nên sự dịch chuyển về quyền lực, không phải bộ phận nào trong hệ thống GDĐH cũng dễ dàng chấp nhận và thích nghi được với sự dịch chuyển ấy nên có phản ứng không thuận lợi ở nhiều cấp độ khác nhau. Các phản ứng này có thể liên quan đến lý do về nhận thức, cũng có thể gắn với lợi ích nhóm. Thứ năm, mặc dù mối quan hệ 3 bên đã được cụ thể hóa tại Luật Giáo dục sửa đổi, bổ sung, tuy nhiên cần phải được cụ thể hóa vai trò chức năng, nhiệm vụ của HĐT, Ban giám hiệu và Đảng ủy trong quy chế hoạt động của trường và các văn bản nội bộ của trường để làm cơ sở cho việc tổ chức triển khai thực hiện và giám sát một cách toàn diện các hoạt động của trường. Hội đồng trường là một thực thể quyền lực. Sự lãnh đạo của Đảng ủy sẽ hỗ trợ những quyết định đúng đắn của HĐT và ngăn chặn những quyết định không đúng đắn, do đó sẽ tạo sự đồng thuận trong nhà trường để nhà trường phát triển tốt. Nếu Đảng ủy dùng quyền lực của mình trong quan hệ công tác thì HĐTsẽ dễ bị suy thoái. Đảng là tổ chức lãnh đạo, chủ trương của Đảng mang tính định hướng và không đi vào chi tiết, cụ thể. Hội đồng trường quyết nghị những chiến lược, mục tiêu cụ thể hơn, nằm trong chủ trương của Đảng như là đơn vị lập pháp. Ban giám hiệu tổ chức thực hiện những kế 119
  12. hoạch và chiến lược đã được HĐT thông qua như đơn vị hành pháp. Đảng lãnh đạo toàn diện về công tác nhân sự, nghĩa là thông qua đề xuất nhân sự của HĐT hay Ban giám hiệu. Tuy nhiên, việc tổ chức bầu thành viên HĐT và Ban giám hiệu do HĐT thực hiện. Thứ sáu, cần đưa ra một lộ trình hợp lý để xây dựng cơ chế HĐT trong các cơ sở GDĐH. Hội đồng trường không nên được triển khai đồng loạt mà nên được xây dựng trước ở các cơ sở GDĐH được quyền tự chủ toàn diện, đặc biệt là các trường đại học trọng điểm. Nhà nước nên chỉ đạo các cơ sở GDĐH này lập kế hoạch xây dựng HĐT. Sau một thời gian triển khai nên tổ chức đánh giá rút kinh nghiệm để nhân rộng cho các trường khác. Căn cứ vào kết quả kiểm định cũng như hoạt động của các trường mà cơ quan chủ quản sẽ dần trao quyền quản lý cho HĐT. Trong đó, có thể quy định cụ thể những vấn đề cần xin phép cơ quan chủ quản và những vấn đề tự phê chuẩn, đưa ra lộ trình để dần tiến tới tự chủ, tự chịu trách nhiệm và HĐT sẽ là người phê chuẩn mọi vấn đề của nhà trường. Thứ bảy, ngoài Chủ tịch HĐT cần phải quy định một tỷ lệ chuyên trách nhất định đối tối thiểu là 30% với thành viên thường trực hội đồng và thư ký, nên có bộ máy giúp việc và nguồn kinh phí riêng cho HĐT hoạt động. Cần phải quy định và hướng dẫn cụ thể chức năng nhiệm vụ của HĐT trong hoạt động giám sát như việc kiểm tra xét duyệt quyết toán và báo cáo tài chính hàng năm, thực hiện chức năng giám sát như thanh kiểm tra, chủ trì thuê các địch vụ tư vấn thẩm định, kiểm toán báo cáo tài chính. Thứ tám, cần phải quy định cụ thể về trách nhiệm giải trình của Ban giám hiệu với HĐT, đồng thời HĐT phải có trách nhiệm thực hiện báo cáo giám sát hàng năm cho bộ chủ quản và tại hội nghị cán bộ viên chức hàng năm. Cơ quan quản lý nhà nước cần phải có một đơn vị quản lý chuyên trách về HĐT của các trường để thực hiện vai trò giám sát hoạt động của các HĐT. Khi vai trò HĐT hoạt động tốt sẽ tiến tới xóa bỏ cơ chế Bộ chủ quản. Chủ tịch HĐT thay mặt cơ quan quản lý nhà nước, đại diện thực hiện quyền sở hữu trong quản trị đại học. 5. Kết luận Hội đồng trường được xem là một mắt xích quan trọng, thiết chế không thể thiếu khi trao quyền tự chủ tự, chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục ĐHCL. Việc triển khai hoạt động HĐT ở các cơ sở giáo dục ĐHCL tự chủ theo Luật Giáo dục và điều lệ trường đại học trong thời gian qua bước đầu đã đem lại một số kết qủa đáng kể, HĐT đã thể hiện được vai trò là một tổ chức quyền lực nhất trong trường đại học, đại diện thực hiện quyền chủ sở hữu của nhà nước trong quản trị đại học thay cho cơ quan chủ quản trong các quyết nghị chủ trương lớn về tổ chức bộ máy, đào tạo và nghiên cứu khoa học, tài chính tài sản các nhằm đảm bảo định hướng phát triển của nhà trường, gắn với trách nhiệm xã hội, bảo toàn vốn nhà nước cũng như các mục tiêu giáo dục gắn với quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường theo quy định pháp luật. Để phát huy vai trò Hội đồng trường là một tổ chức có quyền lực thực sự, có cơ cấu tổ chức hợp lý, có đủ năng lực đủ mạnh đáp ứng được các yêu cầu quản trị đại học trong điều kiện mới như mô hình quản trị của doanh nghiệp, đảm nhiệm được vai trò thay cho cơ quan chủ quản trong quản trị đại học, hướng tới xóa bỏ cơ quan chủ quản thì cần phải có sự ủng hộ, sự quyết tâm của giới lãnh đạo, quản lý, sự đồng thuận trong cộng đồng giáo dục đại học và hệ thống Chính trị. Cơ quan quản lý Nhà nước cần có những có những hướng dẫn và quy định, chế tài cụ thể đối với các cơ sở giáo dục ĐHCL tự chủ và HĐT để hoạt động của HĐT thực sự đem lại hiệu quả. 120
  13. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo kết quả thực hiện nghị quyết 77/NQ-CP của các cơ sở GDĐHCL. 2. Chính phủ (2006), Nghị định số 43 quy định về tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, ban hành 25/04/2006. 3. Chính phủ (2014), Quyết định số 70/QĐ-TTg về ban hàng Điều lệ trường đại học, ban hành ngày 30/12/2014. 4. Chính phủ (2014), Nghị quyết số 77/NQ-CP về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014 – 2017, ban hành ngày 24 tháng 10 năm 2014. 5. Chính phủ (2015), Nghị định số 16/NĐ-CP về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp công, ban hành ngày 14/02/2015. 6. Chính phủ (2019), Nghị định số 99/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học, ban hành ngày 30/12/2019. 7. Quốc hội (2018), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật giáo dục, ban hành ngày 19/11/2018. 8. Trung ương Đảng (2017), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, ban hành 25/10/2017. 121
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0