intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vai trò của nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực giáo dục đáp ứng yêu cầu tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Phó Cửu Vân | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

7
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Vai trò của nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực giáo dục đáp ứng yêu cầu tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay" đã khai thác dữ liệu thứ cấp từ những nguồn khác nhau như các bài báo khoa học, tạp chí chuyên ngành, các trang thông tin điện tử khu vực và toàn cầu nhằm phân tích và tổng hợp vai trò của Nhà nước trong việc phát triển nguồn nhân lực giáo dục đáp ứng yêu cầu tự chủ đại học hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vai trò của nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực giáo dục đáp ứng yêu cầu tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay

  1. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC GIÁO DỤC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU TỰ CHỦ ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Đông Thị Hồng Nguyễn Thị Thu1 Trường Đại học Lao động - Xã hội Abstract Development of higher education human resources is always the main driving force for the flourishing development of a nation and nation. For Vietnam, human resources in higher education now have a more important role than ever by the strong development of the 4.0 science and technology revolution. In order to do so, the State needs to have a proper strategy in developing educational human resources to meet the requirements of education and training tasks in the new situation Keywords: Human resources, educational human resources, the role of the State, university autonomy and university autonomy. 1. TÍNH TẤT YẾU PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Đối với một tổ chức bao giờ cũng phải sử dụng nhiều nguồn lực khác nhau để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Các nguồn lực này khá đa dạng, bao gồm: Nguồn nhân lực, nguồn lực cơ sở vật chất, nguồn lực tài chính, nguồn lực thông tin… Trong các nguồn lực nói trên thì nguồn nhân lực có vị trí, vai trò quan trọng nhất, quyết định nhất. Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy nguồn nhân lực là quyết định nhất đối với sự thành bại của một đơn vị, một tổ chức cho đến một quốc gia nói chung hay các trường đại học nói riêng. Đối với nước ta, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang tác động một cách sâu rộng đến toàn bộ xã hội cùng với các thiết chế của nó, trong đó có lĩnh vực giáo dục đại học (GDĐH). Trong những thập niên qua, GDĐH Việt Nam phát triển gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường vừa có ảnh hưởng tích cực, vừa đặt ra những thách thức đối với cơ chế vận hành của GDĐH Việt Nam, dẫn đến những thay đổi cơ bản trong lý luận và thực tiễn quản trị trường đại học nước ta. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghệ 4.0 hiện nay, quản trị trường học, mô hình tổ chức lớp học, vai trò của thầy và trò sẽ thay đổi bởi sự xuất hiện của nhiều khái niệm mới như: phòng học ảo, giáo viên ảo, thiết bị ảo... Bên cạnh đó, nhiệm vụ giáo dục - đào tạo của các trường đại học sẽ có nhiều phát triển mới về quy mô, phạm vi, loại hình, phương thức đào tạo. Điều này đòi hỏi các đại học phải có một chiến lược đúng đắn trong phát triển nguồn nhân lực giáo dục nhằm đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ giáo dục và đào tạo của từng nhà trường trong tình hình mới. Nguồn nhân lực trong đào tạo tại các cơ sở GDĐH nói chung, đào tạo tại các trường đại học nói riêng chính là đội ngũ cán bộ quản lý và giảng viên (trong đó đội ngũ giảng 1 nguyenthu2782@gmail.com 99
  2. viên là lực lượng chiếm đa số). Đây là đội ngũ đã được tuyển chọn tương ứng với một hệ thống các tiêu chí về tư tưởng, phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn và năng lực nghề nghiệp. Đội ngũ cán bộ quản lý và giảng viên chính là nguồn nhân lực chất lượng cao, nguồn nhân lực đặc biệt của GDĐH, là lực lượng quyết định đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà trường; là lực lượng biến các mục tiêu GDĐH thành hiện thực, quyết định chất lượng đào tạo và thương hiệu của trường đại học; đặc biệt là trong xu thế tự chủ đại học hiện nay. Mỗi cán bộ quản lý và giảng viên thực hiện những chức trách và nhiệm vụ chuyên biệt tùy thuộc vào vị trí và đặc điểm của môi trường hoạt động, song đều chịu sự quản lý thống nhất về thể chế, về tổ chức, về chuyên môn theo quy định của Nhà nước và các quy định đặc thù của từng trường. 2. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC GIÁO DỤC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU TỰ CHỦ ĐẠI HỌC HIỆN NAY Nhà nước là chủ thể quản lý hệ thống giáo dục nói chung, GDĐH nói riêng. Thông qua những chính sách về giáo dục của mình, Nhà nước tác động, định hướng và ảnh hưởng trên giáo dục, ảnh hưởng trên sự điều tiết, trên hành vi, chiến lược của các tác nhân khác trên thị trường giáo dục. Nhà nước có vai trò bảo đảm sự phát triển ổn định của nền GDĐH, đồng thời, là chủ thể để khắc phục những tác động tiêu cực từ bên ngoài đối với GDĐH và khắc phục những biểu hiện tiêu cực trong sự vận động và phát triển của bản thân nền GDĐH. Bên cạnh đó, với vai trò là một thành tố của hệ thống quản lý GDĐH, Nhà nước cần điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, cách thức hoạt động của mình sao cho các thành tố khác có thể phát huy được vai trò của mình để tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm đặt ra với Nhà nước. Như vậy, vai trò của Nhà nước đối với chất lượng GDĐH được thể hiện trên các phương diện định hướng sự phát triển cho GDĐH bằng các công cụ, phương tiện khác nhau, tạo điều kiện, hỗ trợ cho GDĐH, thiết lập cơ chế điều chỉnh bảo đảm sự vận hành ổn định của hệ thống giáo dục, kết nối các chủ thể liên quan đến GDĐH để bảo đảm bảo đảm công bằng trong GDĐH, bảo đảm chất lượng của nền GDĐH. Do vậy, sự phát triển nguồn nhân lực giáo dục nói chung, nhân lực GDĐH nói riêng cần có sự can thiệp của Nhà nước để bảo đảm sự phát triển đó diễn ra đúng mục tiêu và đem lại hiệu quả cao. Từ lâu, tự chủ đại học đã trở thành xu thế phát triển của GDĐH thế giới. Xu thế này không phải bắt nguồn từ việc cung ứng tài chính của Nhà nước cho các trường đại học ngày càng hạn hẹp mà bắt nguồn từ nhu cầu được “tự thân vận động” theo những con đường khác nhau của các trường đại học. Kinh nghiệm quốc tế đã chỉ ra rằng, chỉ có tự chủ hoàn toàn, các trường đại học mới có thể phát triển một cách đa dạng và vững chắc. Tự chủ đại học không có nghĩa là Nhà nước không còn trách nhiệm gì đối với các trường đại học. Ngay cả khi các trường đại học tự chủ hoàn toàn, Nhà nước vẫn có trách nhiệm nhưng trách nhiệm đã được chuyển đổi: từ chỗ quản lý theo kiểu “bao cấp, áp đặt” sang quản lý theo kiểu “giám sát, tạo điều kiện”. Vai trò của Nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực giáo dục được thể hiện trên một số nội dung cơ bản như sau: Một là, Nhà nước tạo môi trường cho phát triển nguồn nhân lực giáo dục nói chung, nguồn nhân lực cho GDĐH nói riêng Việc thiết lập, tạo dựng môi trường là một nội dung quan trọng thể hiện vai trò của Nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực giáo dục. Điều này có ý nghĩa to lớn bởi môi trường được xem là chất xúc tác để nguồn nhân lực giáo dục phát triển. Một môi trường 100
  3. thuận lợi sẽ thúc đẩy nguồn nhân lực giáo dục phát triển và ngược lại. Môi trường để phát triển nguồn nhân lực giáo dục bao gồm: môi trường kinh tế, chính trị, pháp luật, cơ sở hạ tầng giáo dục, cơ chế, chính sách đãi ngộ và thu hút nguồn nhân lực giáo dục… Tất cả những yếu tố đó không hình thành một cách tự phát, mà chủ yếu là do sự kiến tạo của Nhà nước. Nhà nước xây dựng khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ, nhất quán, minh bạch và vững chắc bao gồm cả hệ thống luật lệ, quy định và cả những định chế cần thiết để thực hiện. Bên cạnh đó, Nhà nước tạo hành lang pháp lý để toàn xã hội có điều kiện tham gia vào phát triển nguồn nhân lực giáo dục cả về số lượng và chất lượng. Chỉ có như vậy, phát triển nguồn nhân lực giáo dục mới đáp ứng tốt nhất yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế nói chung, xu thế tự chủ đại học nói riêng. Hai là, Nhà nước hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực GDĐH Nhà nước phải căn cứ vào nhu cầu nguồn nhân lực GDĐH; đồng thời, căn cứ vào số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực GDĐH để đưa ra chiến lược phát triển nguồn nhân lực GDĐH. Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực GDĐH cần xác định được điểm xuất phát, mục tiêu phát triển của từng giai đoạn và một số giải pháp phù hợp với điều kiện phát triển đất nước. Nhà nước tiếp tục chỉ đạo công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực GDĐH theo hướng vừa bảo đảm chiến lược đề ra, vừa bảo đảm sự thống nhất giữa các quy định của pháp luật với các văn bản hướng dẫn giữa sự chỉ đạo, điều phối thực thi hiệu quả các mục tiêu phát triển chung của quốc gia. Ba là, Nhà nước xây dựng và thực thi các chính sách phát triển nguồn nhân lực GDĐH Để thực hiện những kế hoạch đã đề ra, phát triển nguồn nhân lực GDĐH rất cần các chính sách hỗ trợ, như: chính sách đào tạo, sử dụng, đãi ngộ về vật chất và tinh thần, chính sách thu hút, hợp tác quốc tế nguồn nhân lực giáo dục, cử nhân lực đi học tập, nghiên cứu tại nước ngoài…Những chính sách trên có tác động trực tiếp đến nguồn nhân lực GDĐHbởi những điều kiện và những cơ hội được tạo ra sẽ là động lực để những người làm việc trong lĩnh vực giáo dục phát huy hết khả năng và hiệu quả lao động của mình. Bốn là, Nhà nước tiến hành thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm Cùng với việc thực hiện chiến lược, cơ chế, chính sách, cần phải song song tiến hành thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh chiến lược, cơ chế, chính sách, xử lý vi phạm các hoạt động khác liên quan đến phát triển nguồn nhân lực GDĐH. Bởi lẽ, chủ trương đưa ra dù có tốt đến mấy nhưng khi thực hiện trong thực tiễn sẽ không tránh khỏi hạn chế, thiếu sót hoặc vướng mắc cần khắc phục. Do đó, Nhà nước cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá và xử lý các vi phạm, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả của chiến lược, cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực GDĐH. Nội dung công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm chủ yếu hướng vào việc thực hiện luật pháp, chiến lược, cơ chế chính sách của Nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực giáo dục nói chung nhằm hướng tới mục tiêu là bảo đảm sự phát triển của nguồn nhân lực GDĐH theo kế hoạch đã định, kịp thời phát hiện khiếm khuyết, bất cập của chính sách đã ban hành để điều chỉnh kịp thời. 101
  4. 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC GIÁO DỤC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU TỰ CHỦ ĐẠI HỌC HIỆN NAY Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm và đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực giáo dục nói chung và nguồn nhân lực GDĐH nói riêng bằng việc xây dựng các mục tiêu, chiến lược phát triển; ban hành các cơ chế, chính sách để hỗ trợ đội ngũ này. Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực giáo dục nói chung và nguồn nhân lực GDĐH nói riêng đã trở thành chìa khóa thành công để phát triển đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế, bất cập. Trong khuôn khổ bài viết, tác giả đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy hơn nữa vai trò của Nhà nước trong việc phát triển nguồn nhân lực giáo dục đáp ứng yêu cầu tự chủ đại học hiện nay như sau: Thứ nhất, tạo lập nền tảng kinh tế - xã hội cho phát triển nguồn nhân lực GDĐH Trong bối cảnh hiện nay, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 tác động mạnh mẽ đến các lĩnh vực kinh tế - xã hội nói chung, giáo dục và đào tạo nói riêng. Điều này đặt ra yêu cầu và tạo ra điều kiện thuận lợi để phát triển nguồn nhân lực GDĐH cả về số lượng, chất lượng và quy mô. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã tiếp tục khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu và đặc biệt nhấn mạnh phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của Cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập quốc tế [3]. Đồng thời, các thành tựu mới của khoa học công nghệ được ứng dụng vào quá trình giáo dục và đào tạo ở các nhà trường nói chung, trường đại học nói riêng… đã tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển về phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên ở các trường đại học. Bên cạnh đó, việc đầu tư, quan tâm cho giáo dục cũng là một trong những giải pháp để phát huy vai trò của Nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực giáo dục nói chung, GDĐH nói riêng. Trong đó, Nhà nước cần tập trung vào một số vấn đề sau:(1) Phân cấp hệ thống giáo dục một cách khoa học để thấy rõ vai trò của Nhà nước đối với mỗi cấp giáo dục là khác nhau; từ đó, mức độ can thiệp của Nhà nước và chính sách của Nhà nước đối với mỗi cấp bậc giáo dục và đào tạo là khác nhau. Cần phải phân biệt hai bậc của hệ thống giáo dục quốc gia là giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp; phân biệt rõ 2 nhánh của giáo dục nghề nghiệp là đào tạo nghề và GDĐH. (2) Xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách phù hợp với từng bậc giáo dục. Do tính chất của từng bậc giáo dục là khác nhau nên sự tác động và mức độ chi phối của Nhà nước đối với từng bậc giáo dục cũng khác nhau. Trong đó, giáo dục phổ thông là bậc học bắt buộc, yêu cầu phải đạt đến sự phổ cập nên đòi hỏi Nhà nước phải bao cấp toàn bộ từ việc chi phí xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường, sách giáo khoa, lương giáo viên; đồng thời, quyết định hệ thống các tiêu chí đánh giá của nhà trường. Còn đối với bậc giáo dục nghề nghiệp, do có yêu cầu cao hơn, phức tạp hơn nên phải tuân thủ các quy luật thị trường nhiều so với sự can thiệp và chi phối của Nhà nước. Vì vậy, để bảo đảm hiệu quả hoạt động, Nhà nước cần bảo đảm quyền tự chủ thật sự của các cơ sở giáo dục và đào tạo nghề nghiệp trên mọi phương diện. (3) Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm mục đích giúp cho các cơ sở giáo dục và đào tạo hoạt động đúng sứ mệnh, tôn chỉ, mục đích đã đề ra, bảo đảm chất lượng và hạn chế những sai sót, kịp thời xử lý những vi phạm…, đặc biệt là cơ sở giáo dục và đào tạo nghề nghiệp được giao quyền tự chủ. Cần xây dựng hệ thống bảo đảm chất lượng và thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục đối với các cơ sở giáo dục và đào tạo. (4) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo để có thể tiếp nhận các nguồn lực, trao đổi và học tập 102
  5. kinh nghiệm của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới để tiến hành đổi mới giáo dục và đào tạo. Đây là con đường tất yếu dẫn đến nền giáo dục và đào tạo nước ta theo kịp các nước. Thứ hai, nhanh chóng khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực hiện vai trò của Nhà nước đối với phát triển nguồn nhân lực giáo dục Để khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực hiện vai trò của Nhà nước đối với phát triển nguồn nhân lực giáo dục, cần tập trung vào: Một là, hoàn thiện chiến lược, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực giáo dục nói chung, GDĐH nói riêng. Việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực giáo dục do Nhà nước đưa ra phải gắn với chiến lược phát triển giáo dục, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và các chiến lược cơ bản khác của quốc gia. Trong đó, chú trọng công tác phân tích và đánh giá dự báo phát triển nguồn nhân lực giáo dục nói chung, GDĐH nói riêng. Công tác dự báo xu thế phát triển nguồn nhân lực GDĐH có vai trò quan trọng, bởi đây là căn cứ quan trọng để tiến hành xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch. Chính vì vậy, đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách phải nắm bắt các tin tức, sự kiện liên quan đang diễn ra; đồng thời, dự đoán chính xác những diễn biến có thể xảy ra trong tương lai; xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực GDĐHdài hạn, trung hạn và ngắn hạn. Đây là những nấc thang trong thực hiện quy hoạch, chiến lược đã đề ra. Xây dựng kế hoạch dài hạn và trung hạn cần nắm vững mối quan hệ giữa nhu cầu phát triển với khả năng của các nguồn lực. Hai là, hoàn thiện các chính sách phát triển nguồn nhân lực giáo dục nói chung, GDĐH nói riêng. Việc hoàn thiện chính sách sử dụng nguồn nhân lực giáo dục nói chung, GDĐH nói riêng bao gồm: xây dựng và thực hiện chiến lược trọng dụng nguồn nhân lực giáo dục, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao; thực hiện chính sách tuyển dụng, bố trí sử dụng nguồn nhân lực GDĐH một cách hợp lý; cải cách chế độ tiền lương và thưởng, tạo động lực mạnh mẽ và trực tiếp cho nguồn nhân lực giáo dục nói chung, nhân lực GDĐH nói riêng. Ba là, hoàn thiện hệ thống thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm. Nhà nước cần tập trung: tạo lập khung pháp lý để thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong phát triển nguồn nhân lực giáo dục nói chung, GDĐH nói riêng; quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý giáo dục và đào tạo làm căn cứ để tiến hành thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm; đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm; chú trọng công tác giám sát chất lượng của các cơ sở giáo dục và đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực giáo dục nói chung, GDĐH nói riêng. Thứ ba, nâng cao năng lực, phẩm chất cán bộ và hiệu lực, hiệu quả của bộ máy tổ chức, quản lý nguồn nhân lực giáo dục Để phát huy vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo cũng như phát triển nguồn nhân lực GDĐH, cần bồi dưỡng, nâng cao năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ quản lý nguồn nhân lực giáo dục nói chung, GDĐH nói riêng. Trước hết, phải có cán bộ tốt thì mới có thể thúc đẩy hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy tổ chức quản lý nguồn nhân lực giáo dục. Đảm nhận công việc này cần có các chuyên gia trong cùng lĩnh vực mới có thể hiểu rõ đặc điểm của nguồn nhân lực giáo dục nói chung, nhân lực GDĐH nói riêng. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ quản lý này phải có trách nhiệm và lương 103
  6. tâm nghề nghiệp được bố trí công việc phù hợp với trình độ, năng lực, phẩm chất của mình. Điều này đòi hỏi Nhà nước cần có chính sách thu hút, tuyển dụng những người tài vào làm việc trong bộ máy tổ chức, quản lý nguồn nhân lực giáo dục. Xây dựng chính sách phải gắn liền với việc thực thi chính sách. Bên cạnh việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý đủ phẩm chất và năng lực cần có bộ máy tổ chức, quản lý hoạt động có hiệu lực, hiệu quả để hoạch định, thực thi chính sách. Sức mạnh của bộ máy và những con người vận hành bộ máy Nhà nước đó sẽ thể hiện sức mạnh và vai trò của Nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực giáo dục nói chung, nhân lực GDĐH nói riêng. Do đó, nâng cao năng lực, phẩm chất cán bộ và hiệu lực, hiệu quả của bộ máy tổ chức, quản lý là giải pháp quan trọng hàng đầu để phát huy vai trò của Nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực GDĐH. Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang đặt ra yêu cầu cấp thiết về phát triển nguồn nhân lực giáo dục nói chung, GDĐH nói riêng. Từ kinh nghiệm của các nước trên thế giới và thực tiễn Việt Nam khẳng định, để phát triển nguồn nhân lực giáo dục nói chung, GDĐH nói riêng, tất yếu phải có sự can thiệp của Nhà nước; sự can thiệp của Nhà nước càng tích cực, đầy đủ, khoa học… thì nguồn nhân lực giáo dục nói chung, GDĐH nói riêng ngày càng phát triển mạnh mẽ về số lượng và nâng cao về chất lượng. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Bài viết đã khai thác dữ liệu thứ cấp từ những nguồn khác nhau như các bài báo khoa học, tạp chí chuyên ngành, các trang thông tin điện tử khu vực và toàn cầu. Để tiến hành thực hiện nghiên cứu, phương pháp được áp dụng trong bài viết này là phương pháp định tính gồm: Phương pháp tiếp cận hệ thống theo đó tiếp cận với các tài liệu nghiên cứu, các quy định pháp lý liên quan đến vấn đề nghiên cứu; Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng nhằm phân tích và tổng hợp vai trò của Nhà nước trong việc phát triển nguồn nhân lực giáo dục đáp ứng yêu cầu tự chủ đại học hiện nay. ________________ Tài liệu tham khảo [1] Hoàng Chí Bảo (2018), Giáo dục đại học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế - Những luận đề về triết lý giáo dục đại học, Hội thảo giáo dục 2018: Giáo dục đại học - chuẩn hóa và hội nhập quốc tế, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, Hà Nội. [2] Chính phủ (2018), Dự thảo Nghị định Quy định cơ chế tự chủ của cơ sở giáo dục đại học công lập. [3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập 1), NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội. [4] Hội Khoa học Tâm lý - Giáo dục Việt Nam (2017), Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục - đào tạo trong bối cảnh đổi mới giáo dục, Tây Ninh. 104
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1