Journal of Thu Dau Mot University, No 6 (19) – 2014<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
VAI TROØ CUÛA TAÀNG LÔÙP ÑÒA CHUÛ<br />
TRONG COÂNG CUOÄC KHAI PHAÙ, BAÛO VEÄ VUØNG ÑAÁT<br />
NAM BOÄ THEÁ KYÛ XVII – XVIII<br />
Nguyeãn Thò AÙnh Nguyeät<br />
Tröôøng Ñaïi hoïc Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên (VNU–HCM)<br />
<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Công cuộc khẩn hoang Nam Bộ trong suốt 2 thế kỷ (XVII–XVIII) có sự đóng góp tích<br />
cực từ tầng lớp địa chủ. Với chính sách phù hợp của nhà Nguyễn, tầng lớp địa chủ ở Nam<br />
Bộ tích cực mở cõi, khai phá vùng đất mới, phát triển kinh tế vùng đất mới, làm thành chỗ<br />
dựa vững chắc cho các chúa Nguyễn củng cố quyền lực, đồng thời cùng với chính quyền<br />
từng bước xác lập và bảo vệ chủ quyền trên vùng đất mới. Địa chủ đã đóng vai trò quan<br />
trọng trong toàn bộ quá trình khẩn hoang, mở mang bờ cõi, tạo dựng nên bộ mặt văn hóa<br />
xã hội, thiết chế hành chính, chính trị xã hội của vùng đất Nam Bộ.<br />
Từ khóa: địa chủ, Nam Bộ, khẩn hoang, kinh tế<br />
*<br />
Công cuộc khẩn hoang Nam Bộ kéo Nguyễn. Những động thái của các đời chúa<br />
dài trong suốt 2 thế kỷ XVII – XVIII đã Nguyễn trong việc bảo vệ lưu dân như can<br />
làm xuất hiện tầng lớp địa chủ. Cùng với thiệp với quốc vương Chân Lạp để cho<br />
những thành phần cư dân khác, địa chủ người Việt di dân khai khẩn đất hoang, đặt<br />
Nam Bộ đã đóng vai trò quan trọng trong doanh binh hành tuần, đặt đồn thuế để bảo<br />
toàn bộ quá trình khẩn hoang, mở mang bờ vệ dân Việt đều diễn ra khi giữa biên giới<br />
cõi. Dưới đây là những phân tích đánh giá Đàng Trong và vùng đất mới Nam Bộ vẫn<br />
bước đầu về một số vai trò của địa chủ còn bị ngăn cách bởi vương quốc Chiêm<br />
Nam Bộ trong quá trình ấy. Thành. Như vậy, chính những người tự<br />
1. Tích cực trợ giúp chúa Nguyễn phát di dân với các quyền lợi địa chủ mới<br />
mở cõi, khai phá vùng đất mới của người Việt ở Nam Bộ đã tạo động lực<br />
Những lưu dân Việt đầu tiên vào Nam cho các đời chúa Nguyễn nảy sinh ý tưởng<br />
Bộ khẩn hoang trở thành những địa chủ đầu và nhu cầu trách nhiệm phải tiếp thu, làm<br />
tiên trên vùng đất Nam Bộ giai đoạn nửa chủ vùng đất gần như vô chủ này sáp nhập<br />
sau thế kỷ XVIII. Phong trào di dân tự phát vào lãnh thổ Việt Nam.<br />
vào Nam Bộ mạnh dần lên, đặt các chúa Quá trình khai phá đất đai, một mặt<br />
Nguyễn trước một thực tế cần phải có biến những nông dân thiếu đất ở Đàng<br />
những chính sách, động thái tích cực để Trong thành những địa chủ ở Nam Bộ, mặt<br />
bảo vệ, trước hết là sinh mạng và quyền lợi khác cũng giúp tạo dựng cơ sở hạ tầng,<br />
của lưu dân Việt trên một vùng đất mà vào biến những vùng đất hoang hóa thành xóm<br />
giai đoạn đó hoàn toàn chưa thuộc về chúa làng, thôn ấp, tạo điều kiện cho chúa<br />
<br />
50<br />
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 6 (19) – 2014<br />
<br />
Nguyễn từng bước thiết lập các đơn vị hành Nếu lấy số liệu tổng diện tích khai khẩn<br />
chính lên vùng Nam Bộ. Mãi đến năm của toàn Nam Bộ cho đến cuối thế kỷ<br />
1698, Gia Định Phủ, đơn vị hành chính đầu XVIII là 32.000 sở ruộng với 21.000 dân<br />
tiên thuộc chúa Nguyễn mới được ra đời. đinh thì vùng thuộc Tiền Giang ngày nay<br />
Việc khẩn hoang, chiếm hữu đất đai tự phát có số dân chiếm tỉ lệ 71,42% số dân đinh<br />
của giới nông dân – địa chủ đã đi trước việc và diện tích khai khẩn chiếm tỉ lệ 50% diện<br />
xác lập quyền thống trị nhà nước gần một tích khai khẩn toàn Nam bộ. Dù thống kê<br />
thế kỷ. Trong quãng thời gian đó, sự cần không đầy đủ các vùng, nhưng với những<br />
cù, chịu khó lao động đã làm thay đổi cơ số liệu trên đây cũng phác họa phần nào<br />
bản diện mạo cư trú, dân tộc, nhân học và thành quả hết sức tích cực trong hai thế kỷ<br />
nhiều mặt xã hội khác của toàn vùng Nam khai phá mà các lực lượng khẩn hoang ở<br />
Bộ rộng hơn 30.000 km2. Chính địa chủ Nam Bộ đạt được, trong đó không thể<br />
Nam Bộ, trên chặng đường hình thành kéo không nhắc đến địa chủ Nam Bộ.<br />
dài gần một thế kỷ này đã biến cơ cấu xã Trong một thế kỷ tiếp theo, cho đến khi<br />
hội có quy mô hết sức nhỏ lẻ chỉ là các làng<br />
Nguyễn Ánh trở thành Gia Long hoàng đế,<br />
xã khoảng đầu thế kỷ XVII không quá “nhị<br />
địa chủ tiếp tục là hạt nhân, giai cấp xã hội<br />
thập nhân” (20 người) để từ đó phát triển<br />
đóng vai trò chính thu hút nhân, tài, vật lực<br />
thành một phủ Gia Định “dư tứ vạn hộ”,<br />
để khai phá, xây dựng nên hạ tầng xã hội<br />
với số dân ước trên 200.000 người(1).<br />
khắp các vùng, làm cơ sở cho chúa Nguyễn<br />
Theo Lê Quý Đôn, vào những năm 70 xây dựng nên toàn bộ cấu trúc xã hội vùng<br />
của thế kỷ XVIII, huyện Tân Bình có ruộng Nam Bộ. Đồng thời, họ cũng đóng góp rất<br />
thực trưng hơn 1.454 mẫu, huyện Phước lớn để tạo ra một vựa lúa mới dồi dào, giải<br />
Long có ruộng thực trưng hơn 787 mẫu, quyết vấn đề lương thực cho toàn xứ Đàng<br />
đấy là chưa kể các khoản ruộng núi, đất Trong, trực tiếp khẳng định vị thế là một bộ<br />
dâu, đất mía, đất vườn trầu, ruộng các họ,<br />
phận không thể thiếu, không thể tách rời<br />
ruộng quan đồn điền. Huyện Phước Long<br />
của quốc gia Việt Nam.<br />
còn có Trường Giang Thảo có ruộng đất<br />
ngoài 6000 sở. Ở khu vực tả ngạn sông 2. Tham gia và đi đầu trong<br />
Tiền, hai thuộc Quy An và Quy Hoá, ruộng phát triển kinh tế vùng đất mới<br />
đất mỗi nơi đều ngoài 5000 sở.(2) Nhờ nhận biết được vị trí và điều kiện tự<br />
Chỉ tính riêng khu vực Tiền Giang ngày nhiên thuận lợi của vùng đất mới, cũng như<br />
nay, địa chí Tiền Giang đã đưa ra những con những chính sách khuyến khích và bảo hộ<br />
số cụ thể, theo đó thì: Thuộc Tam Lạch (Ba quyền chiếm hữu ruộng đất để khai khẩn đối<br />
Giồng) số dân đinh 4.000 với số ruộng 5.000; với người dân của các chúa Nguyễn mà công<br />
Thuộc Bà Lai (có lẽ là Bà Rài – Cai Lậy cuộc khẩn hoang ở Nam Bộ đã mở rộng rất<br />
ngày nay) số dân đinh 4.000 với số ruộng nhanh và sản xuất nông nghiệp sớm đi vào<br />
4.000; Thuộc Bà Kiến ở Châu Định Viễn sản xuất lớn, đưa tới hình thành một nền kinh<br />
(Rạch Kiến trong đó có Cai Lậy – Cái Bè tế hàng hóa phát triển với thị trường nông sản<br />
ngày nay) số dân đinh 7.000 với số ruộng hàng hóa dồi dào. Trên cơ sở đó, chính quyền<br />
7.000. Tổng cộng ở Tiền Giang số dân đinh phong kiến cũng vì thế mà được thiết lập và<br />
15.000 người với số ruộng (sở) là 16.000. củng cố ngày càng vững mạnh.<br />
<br />
51<br />
Journal of Thu Dau Mot University, No 6 (19) – 2014<br />
<br />
Do những đặc điểm riêng trong quá Do sản xuất hàng hoá phát triển và việc<br />
trình khẩn hoang, hình thức sở hữu tư nhân buôn bán sớm trở thành một hoạt động kinh<br />
về ruộng đất đã sớm hình thành và giữ vị trí tế quan trọng, cho nên trong thế kỷ XVIII,<br />
chủ đạo ở vùng đồng bằng Nam Bộ. Quá vùng này đã xuất hiện nhiều thị tứ, nhiều<br />
trình tích tụ, tập trung ruộng đất vào tay các điểm buôn bán sầm uất, trong đó có một số<br />
địa chủ đã giúp cho bộ phận này nắm được điểm đã trở thành những trung tâm thương<br />
một số lượng nông sản to lớn. Lượng nông mại và giao dịch quốc tế nổi tiếng như Nông<br />
sản đó được đưa ra thị trường và trở thành Nại Đại Phố ở Biên Hoà, thương Cảng Sài<br />
hàng hoá trao đổi. Gòn (tức Chợ Lớn ngày nay), thương cảng<br />
Chính vì có sự xuất hiện sớm bộ phận Hà Tiên, thương cảng Bãi Xàu, phố chợ Mỹ<br />
sở hữu lớn ruộng đất của địa chủ mà phần Tho… Phố chợ Mỹ Tho phát triển trở thành<br />
nông sản dư thừa có thể đem bán đã đạt tới một trong những trung tâm, điều phối hoạt<br />
một khối lượng rất lớn, đưa tới sự hình động thương mại của khu vực Tây Nam Bộ<br />
thành tương đối sớm nền kinh tế hàng hóa và góp phần hướng nền nông nghiệp ở Nam<br />
ở đây. Đồng bằng Nam Bộ từ chỗ là một Bộ ngay từ rất sớm đi vào sản xuất hàng hóa.<br />
vùng đất hoang, đầy rừng rậm, lau sậy,... đã Về vấn đề này, Giáo sư Phan Huy Lê nhận<br />
được mở mang và ngay từ rất sớm đã trở xét: “Thời kỳ từ cuối thế kỷ XVI đến năm<br />
thành một vựa lúa lớn, sản xuất thóc gạo đã 1836, vùng Đồng Nai – Gia Định chỉ có chế<br />
dư thừa so với nhu cầu lương thực tại chỗ. độ tư hữu ruộng đất và nông thôn gồm những<br />
Lúa gạo sản xuất được không chỉ đáp ứng thôn ấp dựa trên chế độ sở hữu ruộng đất<br />
được nhu cầu lương thực của nhân dân tại này. Đấy là một kết cấu kinh tế – xã hội khác<br />
chỗ mà còn là nguồn cung cấp thóc gạo chủ với các vùng khác; và chính nó đã thúc đẩy<br />
yếu cho cả xứ Đàng Trong, đặc biệt là vùng sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế hàng hóa,<br />
Thuận Hoá. làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt kinh tế của<br />
Đồng Nai – Gia Định”(3). Tác giả Nguyễn<br />
Trên cơ sở một nền nông nghiệp trồng<br />
Đình Đầu cũng có ý kiến tương tự: “việc tư<br />
lúa khá phát triển, sản xuất lúa gạo có sự<br />
dư thừa so với nhu cầu tiêu dùng, trong xã nhân chiếm hữu ruộng đất triệt để và việc<br />
hội bắt đầu xuất hiện sự phân công lao ruộng đất lần hồi tập trung trong tay một<br />
động, dẫn tới sự ra đời của nhiều ngành thủ thiểu số người giàu đã tạo cho xã hội miền<br />
công như mộc, chạm bạc, tiện, nhuộm, vẽ, Nam, rõ ràng, có tình trạng tiền tư bản chủ<br />
dệt…. Bước đầu thủ công nghiệp đã tách ra nghĩa... mà dấu hiệu của sự hình thành chủ<br />
khỏi nông nghiệp. Ở mỗi vùng đã xuất hiện nghĩa tư bản là tình hình sản xuất hàng hóa<br />
các nghề thủ công truyền thống, mặc dù đã tới mức cao”(4). Còn tác giả Lê Văn Năm<br />
chưa đạt tới trình độ chuyên môn hoá cao. thì cho rằng: “Sở hữu đất đai tư nhân, nhất<br />
Từ thành quả của kinh tế nông nghiệp và là việc tập trung ruộng đất trong tay các địa<br />
thủ công nghiệp, việc trao đổi hàng hoá ở chủ lớn đã giúp cho những người này nắm<br />
vùng Đồng Nai – Gia Định cũng sớm được được một số lượng nông sản to lớn. Lượng<br />
mở rộng. Ngành lưu thông buôn bán quan nông sản đó được đưa ra thị trường”(5).<br />
trọng nhất lúc bấy giờ là buôn gạo từ Gia Ngoài các thương cảng và thị tứ, một<br />
Định ra Thuận Quảng và mua hàng hoá từ mạng lưới các chợ đã sớm hình thành ở<br />
Thuận Quảng vào Gia Định. Nam Bộ, từ những nơi thị tứ cho đến các<br />
<br />
52<br />
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 6 (19) – 2014<br />
<br />
vùng nông thôn, nhất là ở những giao điểm Với việc thóc gạo trở thành mặt hàng<br />
các trục lộ đường thuỷ, đường bộ, ở các kinh doanh lớn, giới thương buôn chuyên<br />
bến đò, các lỵ, sở hành chính… Trong đó kinh doanh thóc gạo cũng được hình thành<br />
có nhiều chợ hình thành từ rất sớm và khá nhanh chóng và ngày càng gia tăng về số<br />
trù mật như: chợ Đồng Nai, chợ Bến Cá, lượng. Những người này thường đi bằng các<br />
chợ Đồng Sử, chợ Lò, chợ Thủ Đức, chợ thuyền lớn từ miền Trung vào, sau đó neo<br />
Bà Rịa... thuộc trấn Biên Hoà; chợ Phố đậu tại các cửa biển hoặc tại các thương<br />
Thành, chợ Sỏi, chợ Điều Khiển, chợ Sài cảng, phố chợ lớn; từ đó dùng các thuyền nhỏ<br />
Gòn, chợ Bến Nghé… thuộc trấn Phiên An; hơn luồn lách khắp nơi sâu trong nội địa để<br />
chợ Mỹ Tho, chợ Sông Tranh, chợ Cái thu mua thóc gạo. Theo tác giả Lê Văn Năm<br />
Bè… thuộc Trấn Định Tường. thì thuyền buôn ở Nam Bộ chở thóc gạo ra<br />
Thóc gạo ở Nam Bộ trở thành nguồn bán ở Phú Xuân năm 1768, có 341 chiếc;<br />
cung cấp chủ yếu của vùng Thuận Hóa và năm 1774, có hơn 1.000 chiếc(8). Nếu tính<br />
cả miền Trung. Pierre Poivre trong nhật ký bình quân mỗi chiếc thuyền có thể chở được<br />
ngày 27/2/1749 viết: “Hiện nay, Đồng Nai 20 – 30 tấn thì số gạo ấy phải lên đến hàng<br />
(chỉ chung vùng đồng bằng sông Cửu ngàn tấn. Đây chính là thành quả của quá<br />
Long) là một vựa lúa của xứ Đàng Trong. trình khai hoang tích cực của người dân Nam<br />
Vùng này đã cung cấp cho toàn xứ một Bộ ở thế kỷ XVIII.<br />
khối lượng lớn về thóc”. Hay “vùng đồng Ngoài số thóc gạo hàng hóa, chính quyền<br />
bằng sông Cửu Long, ngay từ rất sớm, đã chúa Nguyễn còn có một khối lượng thóc gạo<br />
là vựa lúa lớn, sản xuất thóc gạo dư thừa, nhất định được trữ trong các kho của nhà<br />
so với nhu cầu lương thực của nhân dân tại nước. Đó là số thóc thuế do dân đóng. Lúc<br />
chỗ, còn được đem bán đi các nơi khác ở bấy giờ là thóc thuế của hai trường Tam Lạch<br />
trong nước, chủ yếu là các phủ phía ngoài và Bả Canh ở Tiền Giang nộp vào kho Định<br />
của xứ Đàng Trong, nhất là xứ Thuận Viễn. Hàng năm, một phần thóc thuế các kho<br />
Hóa… Thóc gạo từ Nam chuyển ra miền địa phương được chở về miền Trung trữ ở<br />
Trung là nhiều, nhưng không tính được số các kho, như thóc thuế của kho Định Viễn<br />
lượng cụ thể”(6). Trong nghiên cứu của được chuyên chở về kho Thọ Khang thuộc<br />
mình LiTana cho rằng, thóc gạo ở Nam Bộ phường Thọ Khang, huyện Phú Vang (Phú<br />
không chỉ là nông sản đơn thuần mà đã trở Xuân), thuộc quyền quản lý của Nội Các.<br />
thành hàng hóa, được bán đi khắp nơi sớm Chính nhờ vậy, xứ Đàng Trong mới có đủ<br />
nhất là từ đầu thế kỷ XVIII. Lê Quý Đôn lương thực cung ứng cho nhân dân, mặc dù<br />
trong Phủ biên tạp lục cũng cho biết: “Miền vùng Thuận Hóa và Quảng Nam có sự gia<br />
Gia Định có rất nhiều thóc lúa... Hàng năm, tăng dân số liên tục và đặc biệt là từ đầu thế<br />
cứ đến tháng 11 và tháng chạp, người ta kỷ XVIII, khỏi phải mua thóc gạo của Xiêm<br />
thường xay, giã thóc lúa thành gạo đem đi và Cao Miên(9).<br />
bán lấy tiền tiêu dùng vào những lễ tiết chạp. Không chỉ phục vụ cho nhu cầu tiêu<br />
Những lúc bình thường, người ta chuyên chở dùng trong nước, thóc gạo của Nam Bộ còn<br />
gạo thóc ra bán tại thành Phú Xuân để đổi được xuất khẩu ra nước ngoài, đặc biệt là thị<br />
chác hay mua sắm những hàng vóc nhiễu, trường Trung Quốc. Sách Phủ biên tạp lục<br />
trừu đoạn của người Tàu”(7). ghi: “các khách buôn người Tàu thường tới<br />
53<br />
Journal of Thu Dau Mot University, No 6 (19) – 2014<br />
<br />
những nơi ấy mua bán đã quen thuộc, ai kinh tế, tài chính khá hùng hậu của mình đã<br />
cũng tấm tắc khen ngợi”(10). Về số lượng thuê mướn nhân công, tổ chức khai hoang<br />
gạo được xuất khẩu theo con đường này, với quy mô lớn, từ đó trở thành những địa<br />
theo Trần Ngọc Định dẫn lại từ P. Vital chủ chiếm hữu nhiều ruộng đất. Từ đây bộc<br />
trong Les premières années de la lộ những mặt hạn chế là sự hình thành và<br />
Cochinchine, vào những năm 70 của thế kỷ ngày càng mở rộng của bộ phận ruộng đất<br />
XIX, hàng năm, có khoảng 12.000 tấn thóc thuộc sở hữu lớn của địa chủ dựa vào thế<br />
gạo đã được bán ra nước ngoài bởi các lực kinh tế và đôi khi cả thế lực chính trị,<br />
thương buôn Trung Quốc. thông qua các phương thức cầm cố, cưỡng<br />
Sau thóc gạo, cau là mặt hàng nông sản đoạt, thôn tính dần những đất đai thuộc sở<br />
đứng hàng thứ hai được tiêu thụ rất mạnh hữu nhỏ nông dân, đẩy nông dân nghèo vào<br />
trên thị trường trong nước và nước ngoài tình cảnh mất đất, không còn phương tiện<br />
“Nam Bộ nhất thóc nhì cau”. Thời bấy giờ sinh sống. Điều này cho thấy rằng ngay<br />
cau được trồng ở nhiều vùng, nhưng nổi trong giai đoạn thế kỷ XVII – XVIII, sự mở<br />
tiếng nhất phải kể đến cau ở Kiến Đăng và rộng công cuộc khẩn hoang và gia tăng sản<br />
Kiến Hưng thuộc trấn Định Tường và nhất xuất nông nghiệp trong quá trình khai phá<br />
là cau ở Mỹ Lồng thuộc trấn Vĩnh Thanh, vùng đất Nam Bộ, đồng thời cũng bộc lộ<br />
tại đây “có vườn cau đứng rậm như rừng những mâu thuẫn xã hội. Mặc dù vậy, một<br />
quả lớn, lại sai trái”(11). thực tế không thể phủ nhận là những thành<br />
tựu đạt được về mặt khẩn hoang và phát<br />
Ngoài ra các loại thủy sản cũng là mặt<br />
triển kinh tế trong giai đoạn này có sự đóng<br />
hàng được bán rất chạy trên thị trường.<br />
góp rất lớn của địa chủ ở Nam Bộ. Và<br />
Theo Lê Quý Đôn, nguồn lợi cá tôm ở<br />
chính những thành tựu này là nền tảng cho<br />
vùng cửa Tiểu là rất lớn và nhiều đến nỗi<br />
công cuộc khai phá vùng đồng bằng Nam<br />
người ta ăn không hết, làm khô, bán cho<br />
Bộ trong những thế kỷ tiếp theo.<br />
các bạn hàng. Ở vùng Đồng Tháp Mười, cá,<br />
tôm ở sông rạch, ao, đồng ruộng nhiều 3. Làm chỗ dựa vững chắc cho<br />
không kể xiết. Từ đó, giới thương lái các chúa Nguyễn củng cố quyền<br />
chuyên buôn bán cá, tôm được hình thành. lực trên vùng đất mới<br />
Họ đóng những chiếc ghe lớn để chở được Nhờ những chính sách ủng hộ, hậu thuẫn<br />
nhiều cá và đưa đi khắp nơi để tiêu thụ, thu của các đời chúa Nguyễn trước đó với phong<br />
về được nguồn lợi lớn. trào di dân khẩn hoang Nam Bộ, đa số các<br />
Chính sự mở rộng công cuộc khẩn địa chủ lớn của miền Nam đều có cảm tình<br />
hoang và sản xuất nông nghiệp, thương mại và giúp đỡ Nguyễn Ánh rất nhiều trên đường<br />
trong các thế kỷ XVII, XVIII đã làm thay trốn chạy sự truy đuổi của nhà Tây Sơn.<br />
đổi bộ mặt xã hội của đồng bằng Nam Bộ. Nhiều địa chủ Nam Bộ sau này đã trở thành<br />
Trong những biến đổi về mặt xã hội, còn có cai, chưởng, nắm giữ nhiều vị trí quan trọng<br />
một hiện tượng nổi bật là sự phát triển công trong hàng ngũ đạo quân phục thù của<br />
cuộc khẩn hoang đồng thời cũng là quá Nguyễn Ánh. Cụ thể là các trường hợp:<br />
trình diễn ra sự phân hoá về mặt xã hội – Nguyễn Văn Trương từ huyện Lễ<br />
ngày càng sâu sắc. Chính địa chủ Nam Bộ Dương (nay là huyện Thăng Bình), tỉnh<br />
trong quá trình khẩn hoang, với tiềm lực Quảng Nam, di cư vào đất Gia Định. Năm<br />
<br />
54<br />
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 6 (19) – 2014<br />
<br />
1787, chúa Nguyễn từ Xiêm về nước, xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp). Ông là con<br />
Nguyễn Văn Trương đem 300 quân, 15 chiến ông Nguyễn Quang (tước Minh Đức hầu)<br />
thuyền binh chạy vào Long Xuyên (Cà Mau) và bà Thị Áo. Năm 1774, được thăng Cai<br />
giúp chúa Nguyễn, được phong chức Chưởng đội. Năm 1778, ông được thăng Cai cơ.<br />
cơ. Sau, nhờ lập thêm nhiều chiến công, được Năm 1795, ông làm Lưu thủ Trấn Biên<br />
phong làm Khâm sai chưởng đạo tiền phong, (Biên Hòa). Năm 1797, ông về giữ Gia<br />
Trung quân thủy dinh. Định, lãnh việc vận lương kiêm việc ở bộ<br />
– Trương Tấn Bửu sinh ở làng Hưng Hộ. Năm 1802, phong ông làm Chưởng<br />
Lễ, tổng Bảo Phước, tỉnh Vĩnh Long (nay Chấn võ quân, tước Nhơn Quận công; giữ<br />
thuộc xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng chức Lưu trấn Gia Định trấn đến năm 1805.<br />
Trôm, tỉnh Bến Tre), là con của ông – Võ Tánh sinh tại huyện Phước An,<br />
Trương Tấn Khương và bà Trần Thị Nghĩa. tỉnh Biên Hoà (nay thuộc tỉnh Đồng Nai),<br />
Năm 1787, chúa Nguyễn Ánh chạy trốn sau dời về huyện Bình Dương, Gia Định.<br />
quân Tây Sơn, có ghé nhà cha ông tạm trú Từ năm 1783 – 1788, ông cùng anh nổi dậy<br />
một đêm, ông xin theo phò tá, được làm tại thôn Vườn Trầu (Hóc Môn), tự xưng là<br />
Cai cơ, thuộc đạo quân của Tôn Thất Hội. Nghĩa quân Kiến Hòa rồi kéo quân chiếm<br />
Năm 1790, thăng chức Hậu quân Hậu chi giữ cả vùng Gò Công. Năm 1788, nhận lời<br />
Chánh chưởng chi, rồi đổi qua Chưởng mời của chúa Nguyễn Phúc Ánh, ông đến<br />
quản Tiền quân. Năm 1797, lập được nhiều Nước Xoáy (Sa Đéc) hội binh, được phong<br />
chiến công ở Bình Định, Hội An, ông được là Tiên phong dinh Khâm sai chưởng cơ, và<br />
thăng chức Tiền quân Phó tướng. Năm được chúa gả cho em gái là Ngọc Du. Năm<br />
1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi, phong 1790, Võ Tánh tiến đánh thành Diên<br />
ông làm Chưởng dinh, quản lĩnh đạo quân Khánh. Năm 1793, Võ Tánh được thăng<br />
Bắc Thành. chức Khâm Sai Quán Suất Hậu Quân Dinh<br />
Bình Tây Tham Thắng Tướng Quân Hộ<br />
– Nguyễn Huỳnh Đức (nguyên là<br />
Giá. Năm 1797, ông theo Nguyễn Phúc<br />
Huỳnh Tường Đức), sinh trưởng tại giồng<br />
Ánh ra đánh Quảng Nam. Năm 1799, ông<br />
Cái Én, làng Trường Khánh, châu Định<br />
lại theo chúa Nguyễn tiến đánh Quy Nhơn.<br />
Viễn, dinh Long Hồ (nay thuộc ấp Dinh, xã<br />
– Lê Văn Duyệt ở Gò Công, sinh năm<br />
Khánh Hậu, thành phố Tân An, tỉnh Long<br />
1764 tại vàm Trà Lọt, làng Hòa Khánh,<br />
An). Vốn xuất thân trong một gia đình quan<br />
châu Định Viễn, dinh Long Hồ (nay thuộc<br />
võ đều theo phò chúa Nguyễn và đều được<br />
xã Hòa Khánh, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền<br />
phong chức Cai đội, tham gia trấn áp cuộc<br />
Giang). Ông nội của Lê Văn Duyệt là Lê<br />
nổi loạn Sá Tốt. Sau đó, gia đình ông ở lại<br />
Văn Hiếu từ làng Bồ Đề, huyện Mộ Đức<br />
khai khẩn và lập nghiệp tại vùng Vũng Gù.<br />
(Quảng Ngãi) vào đây sinh sống. Sau khi<br />
Năm 1782, ông được phong chức Tiền quân.<br />
Lê Văn Hiếu qua đời, cha ông là Lê Văn<br />
Vì có công cứu chúa, ông được ban "quốc<br />
Toại rời vùng Trà Lọt đến ở tại vùng Rạch<br />
tính", mang tên là Nguyễn Huỳnh Đức. Gầm, làng Long Hưng (nay thuộc huyện<br />
– Nguyễn Văn Nhơn sinh năm 1753, Châu Thành, tỉnh Tiền Giang), trở thành<br />
tại làng Tân Đông, huyện Vĩnh An, tỉnh An địa chủ giàu có. Năm 17 tuổi Lê Văn Duyệt<br />
Giang (nay thuộc xã Tân Khánh Đông, thị đã cứu Nguyễn Ánh thoát chết khi bị đắm<br />
<br />
55<br />
Journal of Thu Dau Mot University, No 6 (19) – 2014<br />
<br />
thuyền trên sông, sau đó gia nhập hàng ngũ “ơn đền oán trả”, “ăn trái nhớ kẻ trồng<br />
cận tướng của Nguyễn Ánh, lập nhiều công cây”. Có thời gian, Nguyễn Ánh ẩn náu tại<br />
to. Sau khi tiêu diệt được nhà Tây Sơn, Lê làng Long Hưng (tức Nước Xoáy, Sa Đéc,<br />
Văn Duyệt đã được Nguyễn Ánh phong Đồng Tháp), được một địa chủ tên Nguyễn<br />
làm Tổng trấn Gia Định Thành, thực chất là Văn Hậu nuôi cơm. Nguyễn Ánh thường ra<br />
một phó vương có toàn quyền sinh sát trên ngồi câu cá ở bến sông và suy nghĩ tìm<br />
toàn vùng đất Nam Bộ kéo dài từ Bình đường chống Tây Sơn. Do đó, nơi này có<br />
Thuận đến Cà Mau. sự tích Cây da bến Ngự và năm 1787,<br />
Với những chính sách thời chiến tạm Nguyễn Ánh cho xây dựng một đồn binh<br />
thời, cộng với năng lực, thái độ kém cỏi nơi đây. Ông cũng nhận địa chủ Nguyễn<br />
của Nguyễn Lữ, người đại diện của nhà Văn Hậu làm cha đỡ đầu, đến năm 1807<br />
Tây Sơn cai quản khu vực phía Nam, địa cho xây Lăng Ông Bõ (cha đỡ đầu của vua)<br />
chủ Nam Bộ đã nhìn thấy những bất lợi đe tại đây.<br />
dọa quyền lợi tư hữu ruộng đất của họ. Vì Nguyễn Ánh triệt để khai thác tình cảm<br />
vậy, trong hầu hết các giai đoạn tranh chấp, của nhân dân Nam Bộ để vừa vận động,<br />
địa chủ Nam Bộ đều ủng hộ Nguyễn Ánh. vừa o ép nhân dân góp của, góp sức xây<br />
Tận dụng sự ủng hộ này, Nguyễn Ánh dựng lực lượng. Cho nên ta thấy có lúc lực<br />
ngay từ giai đoạn đầu phục quốc đã có nhiều lượng Nguyễn Ánh bị Tây Sơn đánh gần<br />
biện pháp tranh thủ lòng dân, nhằm tăng như tan rã hoàn toàn, nhưng chỉ một thời<br />
cường tài lực, vật lực và cả nhân lực để xây gian ngắn sau đó lại hồi phục nhanh chóng.<br />
dựng quân đội lớn mạnh cự địch với nhà Tây Đồng thời cũng phải thừa nhận rằng,<br />
Sơn. Trong thời gian cuộc nội chiến còn diễn Nguyễn Ánh đã khôn khéo đưa ra hàng loạt<br />
ra trên đất Gia Định, Nguyễn Ánh đã cho chủ trương bồi dưỡng, khoan dung sức dân,<br />
thực hiện nhiều biện pháp kinh tế, xã hội và để lôi kéo dân chúng về phía mình.<br />
hành chánh, mặc dù những hoạt động này Năm 1778, Nguyễn Ánh cho đắp lũy<br />
nhằm mục tiêu củng cố sức người sức của để đất ở phía tây sông Bến Nghé, đóng hơn 50<br />
phục vụ chiến tranh chống Tây Sơn, nhưng chiến thuyền hiệu “Long Lân” để bảo vệ<br />
đã gián tiếp làm cho tình hình kinh tế xã hội Sài Gòn. Năn 1779, Nguyễn Ánh tổ chức<br />
Gia Định không tồi tệ như ở Trung và Bắc lại việc cai trị đất Gia Ðịnh, chia làm 3<br />
Hà. Đó là điều mà Tây Sơn chưa hề làm dinh: Trấn Biên (Biên Hòa), Phiên Trấn<br />
được ở Gia Định. Và cũng chính những biện (Gia Ðịnh và Ðịnh Tường) và Long Hồ<br />
pháp này đã lôi kéo được tầng lớp địa chủ và (Vĩnh Long và An Giang), chỉnh đốn lại<br />
một bộ phận lớn nông dân ngả về phía thuế điền, tích trữ lương thực để chống lại<br />
Nguyễn Ánh. Tây Sơn. Rồi nâng đạo Trường Ðồn (Mỹ<br />
Xuất thân là con cháu các chúa Tho) thành dinh. Như vậy, đất Gia Ðịnh<br />
Nguyễn. Do đó, phần lớn nhân dân Gia gồm 4 dinh và một trấn là Hà Tiên. Nguyễn<br />
Định dành nhiều tình cảm sâu nặng với các Ánh đặt các chức quan: Lưu thủ, Cai bạ,<br />
chúa Nguyễn, đương nhiên họ có bổn phận Ký lục để trông coi việc cai trị. Lúc bấy giờ<br />
ủng hộ, giúp đỡ Nguyễn Ánh khôi phục cơ dân cư còn thưa thớt, nên dưới mỗi dinh và<br />
đồ mà các chúa Nguyễn đã dày công gây trấn chỉ có một huyện. Dưới huyện là các<br />
dựng trăm năm qua, theo suy nghĩ đơn giản tổng; dưới tổng là các thôn hoặc xã. Nói<br />
<br />
56<br />
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 6 (19) – 2014<br />
<br />
một cách cụ thể hơn, trong thời gian này là Dương Ngạn Địch, sau đó thả quân sang<br />
tiếp tục hoàn thiện một bước nữa công cuộc tận Cao Miên cướp bóc, đồng thời xây hào<br />
khai hoang của các chúa Nguyễn bị bỏ dở, đắp lũy chiêu binh mãi mã tính kế cát cứ.<br />
có tác động tâm lý sâu sắc đối với nhân dân Nhân cơ hội, Phó vương Nặc Thu của Chân<br />
Gia Định trong cuộc nội chiến. Lạp cũng dấy loạn, quấy nhiễu. Thống binh<br />
Đến cuối thể kỷ XVIII, đất Gia Định Nguyễn Hữu Hào được chúa Nguyễn phái<br />
sau hơn một trăm năm khai phá, dù diện vào dẹp loạn, lập mưu giết được Hoàng Tiến,<br />
tích được đưa vào sản xuất nông nghiệp đuổi cả hai phó vương Nặc Thu lẫn Nặc Nộn<br />
chưa phải là nhiều, nhưng đất đai màu mỡ, về bên kia biên giới. Hành quân xa, đạo quân<br />
nguồn lợi tự nhiên hết sức phong phú đã của Nguyễn Hữu Hào đã được các địa chủ<br />
sớm xuất hiện nền kinh tế hàng hóa trên vùng Tiền Giang giúp đỡ, cung cấp lương<br />
vùng đất mới này. thực để đánh dẹp Hoàng Tiến, thiết lập lại<br />
Những chính sách khuyến nông của trật tự vùng Mỹ Tho, sau đó đánh đuổi sự lấn<br />
Nguyễn Ánh đã được sự ủng hộ của đại địa chiếm của các thế lực phong kiến Chân Lạp<br />
chủ Nam Bộ, bằng cách tích cực đóng góp âm mưu gây hấn. Xong việc binh, theo lệnh<br />
thóc gạo và nhân lực cho quân đội của chúa Chúa, Nguyễn Hữu Hào đã để quân binh ở<br />
Nguyễn. Nhờ vậy, sau một thời gian dài, từ lại lập thành đồn trại khẩn hoang, khai thác<br />
đất Gia Định, quân và thế của Nguyễn Ánh vùng Vũng Gù.<br />
đã lớn mạnh hẳn lên, trong khi quân Tây Năm 1698, Chân Lạp lại có biến, âm<br />
Sơn, dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Lữ thì mưu nổi loạn và gây hấn. Nhóm người Hoa<br />
suy yếu dần. Nông Nại có ý nhân cơ hội để cát cứ. Chúa<br />
Nguyễn Phúc Chu lại sai Lễ Thành hầu<br />
Thế lực của Nguyễn Ánh ở đây trước<br />
Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý Đồng Nai.<br />
hết là thế mạnh từ tổ chức xã hội Gia Định,<br />
Địa chủ người Việt đã hợp tác chặt chẽ và<br />
nó được hình thành trên cơ sở sự giàu mạnh<br />
tích cực với Nguyễn Hữu Cảnh trong việc<br />
của địa chủ mới nặng ân tình với họ<br />
thống kê lại diện tích đất đai, dân số để làm<br />
Nguyễn và thương nhân người Hoa. Cấu<br />
cơ sở thiết lập phủ Gia Định, sắp xếp lại cơ<br />
trúc xã hội Gia Định vào cuối thế kỷ XVIII<br />
cấu hành chính toàn vùng, khép cả người<br />
như đã trình bày ở trên, không giống như ở<br />
Việt lẫn người Hoa vào sự quản lý của chúa<br />
Bắc Hà hay vùng Thuận Quảng. Nó không<br />
Nguyễn, dẹp tan mầm cát cứ. Nhóm Trần<br />
còn xã hội thuần nông tự cung tự cấp, mà<br />
Thắng Tài (Trần Thượng Xuyên) ở Trấn<br />
đã phát triển với nền kinh tế hàng hóa –<br />
Biên được lập thành xã Thanh Hà, thuộc<br />
tiền tệ, dù không tái sản xuất. huyện Phước Long, nhóm của Dương Ngạn<br />
4. Cùng với chính quyền các Địch trước đây ở Mỹ Tho được lập thành<br />
chúa từng bước xác lập và bảo vệ xã Minh Hương, thuộc huyện Tân Bình.<br />
chủ quyền trên vùng đất mới Một năm sau, vua Nặc Thu lại đưa<br />
Trong tiến trình khẩn hoang, mở cõi ở quân sang quấy phá vùng An Giang, giết<br />
Nam Bộ, các chúa Nguyễn đã liên tục bị người Việt. Nguyễn Hữu Cảnh lại được<br />
gây hấn, lấn chiếm từ bên ngoài và khởi chúa Nguyễn sai đưa quân xuống dẹp.<br />
loạn từ bên trong. Năm 1688, Hoàng Tiến ở Những địa chủ cầm đầu các toán khai<br />
vùng Vũng Gù, Mỹ Tho nổi loạn, giết chủ hoang lại là nguồn cung cấp nhân lực cho<br />
57<br />
Journal of Thu Dau Mot University, No 6 (19) – 2014<br />
<br />
Nguyễn Hữu Cảnh khai hào, đào và khơi biết vào năm 1739: ''Nặc Bôn lấn Hà<br />
thông các kênh rạch sau này là kênh ông Tiên... Thiên Tứ đem hết quân bản bộ ra<br />
Chưởng, sông Vàm Nao, sông Mân Thít để đánh đuổi tới Sài Mạt, ngày đêm đánh<br />
lấy đường cho thuyền lớn của đại quân hăng, lương thực không tiếp kịp. Vợ là<br />
vượt sông Tiền qua sông Hậu tiến lên vùng Nguyễn Thị đốc suất vợ lính vận lương đến<br />
Châu Đốc để đón đánh Nặc Thu. Họ cũng nuôi quân, quân không bị thiếu ăn, hăng<br />
góp công cùng binh lính của triều đình khai hái cố đánh phá được quân Bồn. Tin thắng<br />
phá cù lao Vàm Nao, cày cấy lấy lương trận báo lên, Chúa cả khen ngợi, đặc biệt<br />
thực nuôi quân. Đến năm 1700, quân binh cho Thiên Tứ chức Đô đốc tướng quân, ban<br />
đã lớn mạnh, thuyền chiến sẵn sàng. Thấy cho áo bào đỏ và mũ đai, phong Nguyễn<br />
khả năng không địch lại, ngay khi chiến Thị làm Phu nhân. Do đó Chân Lạp không<br />
thuyền của Nguyễn Hữu Cảnh vừa lên dám nhòm ngó Hà Tiên nữa”(11).<br />
đường, Nặc Thu đã vội thu quân chạy mất. Tháng 3 năm 1775, nhờ có sự chỉ dẫn,<br />
Tinh binh của Nguyễn Hữu Cảnh dong đưa đường, phân tích luồng lạch sông ngòi<br />
thuyền lên vây tận kinh thành Chân Lạp. của một bộ phận địa chủ và những người<br />
Cháu Nặc Thu là Nặc Yêm mở thành xin<br />
khẩn hoang vùng quanh sông Mân Thít,<br />
hàng. Chỉ sau ít ngày, đích thân Nặc Thu<br />
vùng Rạch Gầm – Xoài Mút (Mỹ Tho, Tiền<br />
cũng quay lại xin chịu hàng. Bất chiến tự<br />
Giang), chỉ với khoảng 2 vạn quân, Nguyễn<br />
nhiên thành, Nguyễn Hữu Cảnh trả lại kinh<br />
Huệ đã bài binh bố trận, lợi dụng địa hình<br />
thành cho Nặc Thu với lời răn phải chăm lo<br />
địa thế và con nước đánh tan 3 vạn quân<br />
định quốc an dân, không được xâm lấn,<br />
thủy cùng 300 chiến thuyền của quân Xiêm<br />
cướp bóc.<br />
do Nguyễn Ánh rước về, buộc 2 vạn quân<br />
Một công lao khác của địa chủ Nam bộ của Xiêm La cùng 40.000 quân Việt của<br />
Bộ, đó là việc Mạc Cửu, lãnh chúa Hà Tiên Nguyễn Ánh phải tháo chạy về Xiêm.<br />
xin dâng đất, thần phục chúa Nguyễn vào<br />
Tuy nhiều địa chủ và nông dân Nam<br />
năm 1708, nhận chức Tổng binh do chúa<br />
Bộ ủng hộ Nguyễn Ánh, nhưng họ không<br />
Nguyễn ban cho. Việc này đã chính thức<br />
hoàn toàn ủng hộ việc cầu viện, nhất là việc<br />
mở rộng và thừa nhận vương quyền của<br />
đưa lực lượng Xiêm sang chống Tây Sơn.<br />
chúa Nguyễn lên vùng đất xa xôi nhất của<br />
Chứng tỏ các bộ phận địa chủ Nam bộ luôn<br />
Nam Bộ, nơi thật ra chưa có dấu chân của<br />
có tinh thần dân tộc, biết tạm gác khuynh<br />
các đoàn di dân người Việt.<br />
hướng tình cảm riêng sang một bên, đặt<br />
Sau khi Mạc Cửu mất, Chúa Nguyễn quyền lợi Tổ quốc trên tình cảm cá nhân;<br />
tiếp tục phong cho con của Mạc Cửu là họ đã phò giúp Nguyễn Huệ cả về lương<br />
Mạc Thiên Tứ làm Đô đốc trấn Hà Tiên. thực, nhân lực lẫn trí tuệ để đánh đuổi quân<br />
Sau khi được phong chức, Mạc Thiên Tứ xâm lược.<br />
không những ra sức xây dựng và phát triển<br />
*<br />
Hà Tiên trở thành một trung tâm kinh tế<br />
phồn thịnh, mà ông còn nêu cao ý thức bảo Trong các thế kỷ XVII – XVIII địa chủ<br />
vệ chủ quyền với tư cách là người được Nam Bộ đã có nhiều đóng góp trong quá<br />
giao trách nhiệm bảo vệ vùng biên giới cực trình khai phá, mở mang bờ cõi, bảo vệ chủ<br />
Nam đất nước. Sách Đại Nam thực lục cho quyền lãnh thổ ở vùng đất Nam Bộ và là<br />
<br />
58<br />
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 6 (19) – 2014<br />
<br />
chỗ dựa vững chắc của chúa Nguyễn. ruộng đất, dẫn đến mâu thuẫn xã hội gay<br />
Trải qua hai thế kỷ với những nỗ lực, gắt giữa địa chủ và tiểu nông tự canh cũng<br />
cùng với chính sách khẩn hoang tích cực như với tá điền cày thuê. Các yếu tố cộng<br />
của chúa Nguyễn, địa chủ và các thành sinh, cộng tác – được xem như thành quả<br />
phần cư dân khác đã mang đến cho vùng tiến bộ trong quan hệ sản xuất ở thế kỷ<br />
đất Nam Bộ một bộ mặt hoàn toàn mới. XVII – XVIII phai nhạt dần. Thay vào đó<br />
là quan hệ giữa địa chủ và tá điền hoặc với<br />
Có thể nói, trong giai đoạn đầu của tiến<br />
người nông dân tự canh bị kéo quay trở lại<br />
trình khai phá Nam Bộ, các yếu tố thuận lợi<br />
với hình thức “phát canh thu tô” truyền<br />
hay rủi ro trong quá trình sản xuất đều được<br />
thống. Địa chủ Nam Bộ cũng quay lại đúng<br />
chia đều, dẫn đến quan hệ giữa địa chủ và<br />
vai trò và bản chất của kẻ cai trị và bóc lột<br />
tá điền cũng ít mâu thuẫn, mang màu sắc<br />
khiến tình trạng phân hóa giai cấp ở đây<br />
cộng sinh và hợp tác nhiều hơn. Tuy nhiên,<br />
diễn ra ngày càng nghiêm trọng, kéo dài<br />
sang đến thế kỷ XIX, quan hệ cộng sinh giảm<br />
cho đến suốt thời kỳ thống trị của các vua<br />
dần, quá trình tập trung ruộng đất diễn ra<br />
triều Nguyễn sau này.<br />
mạnh mẽ gây nên hệ quả phân cực sở hữu<br />
*<br />
ROLE OF THE LANDLORD CLASS IN THE PROCESS OF EXPLORATION AND<br />
PROTECTION OF THE SOUTHERN REGION IN THE XVII – XVIII CENTURIES<br />
Nguyen Thi Anh Nguyet<br />
University of Social Sciences and Humanities (VNU–HCM)<br />
ABSTRACT<br />
The process of reclaiming the South in two centuries (XVII – XVIII) had positive<br />
contribution of the landlord class. With a consistent policy of the Nguyen Dynasty, the<br />
landlord class in the South region to actively explore and develop economy in new lands,<br />
prop up the Nguyen Lords to consolidate power, and together with the government to<br />
gradually establish and protect the sovereignty over new lands. Landlords had played an<br />
important role in the whole process of reclamation and expanding the borders, creating the<br />
social culture, administrative institutions, politics in the South region.<br />
CHÚ THÍCH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
(1) Trịnh Hoài Đức, Gia định thành thông chí, Tập Trung, Bản dịch của Tu Trai, Nguyễn Tạo, Phủ<br />
Quốc khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn, 1972 tr. 17.<br />
(2) Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, NXB Khoa học Xã hội, 1977, tr. 179 – 180.<br />
(3) Nguyễn Đình Đầu, Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam kỳ lục<br />
tỉnh, Hội Sử học Việt Nam, 1992, tr. 9.<br />
(4) Nguyễn Đình Đầu, Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam kỳ lục<br />
tỉnh, Hội Sử học Việt Nam, 1992, tr. 72 – 75.<br />
(5) Lê Văn Năm, “Sản xuất hàng hóa và thương nghiệp ở Nam bộ thế kỷ XVII – XIX”, Tạp chí<br />
Nghiên cứu Lịch sử, số 3 – 4, 1988, tr. 54.<br />
(6) Lâm Quang Huyên, 300 năm kinh tế Sài Gòn – TPHCM, NXB. Thành phố Hồ Chí Minh, tr<br />
151, 1998.<br />
<br />
59<br />
Journal of Thu Dau Mot University, No 6 (19) – 2014<br />
<br />
(7) Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, NXB Khoa học Xã hội, 1977, tr. 362.<br />
(8) Lê Văn Năm, “Sản xuất hàng hóa và thương nghiệp ở Nam bộ thế kỷ XVII – XIX”, Tạp chí<br />
Nghiên cứu Lịch sử, số 3 + 4, 1988, tr. 61.<br />
(9) Trần Hoàng Diệu, Hoàng Anh Tuấn (chủ biên), Địa chí Tiền Giang, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy<br />
Tiền Giang và Trung tâm UNESCO Thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam xuất bản, tr.<br />
379, 2005.<br />
(10) Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, NXB. Khoa học Xã hội, 1997, tr.258.<br />
(11) Lê Văn Năm “Sản xuất hàng hoá và thương nghiệp ở Nam bộ thế kỷ XVII – nửa đầu thế kỷ<br />
XIX”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3+ 4, 1988, tr. 54.<br />
(12) Viện Sử học, Đại Nam thực lục, tập 1, NXB Giáo dục, 2007, tr. 1756.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
60<br />