22 Xã hội học, số 4 (116), 2011<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
VẤN ĐỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ<br />
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI<br />
<br />
BÙI TẤT THẮNG*<br />
<br />
I. Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn trong tiến trình<br />
CNH, HĐH đất nước<br />
Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước, vấn đề<br />
chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực nông<br />
nghiệp, nông thôn nói riêng luôn được xem như một trong những nội dung chủ yếu, có ý<br />
nghĩa rất quan trọng. Bởi vì, cùng với nhiều tiêu chí khác, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế<br />
theo hướng tỷ trọng của khu vực nông nghiệp giảm đi đồng thời với quá trình gia tăng tỷ<br />
trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ phản ánh mức độ thành công của CNH, HĐH.<br />
CNH là một thời kỳ lịch sử đặc biệt, có khởi đầu và có kết thúc. Nội dung của giai<br />
đoạn lịch sử đặc biệt ấy là: “biến nền sản xuất xã hội chủ yếu dựa trên phương thức sản<br />
xuất nông nghiệp sang phương thức sản xuất công nghiệp”. Mức độ dài ngắn của quá<br />
trình CNH ở các nước không giống nhau, do phụ thuộc vào nhiều yếu tố, cả khách quan<br />
lẫn chủ quan. Với những nước đi tiên phong trong quá trình CNH (những nước CNH kiểu<br />
cổ điển), quá trình CNH về cơ bản kéo dài hàng trăm năm. Lý do chủ yếu mang tính<br />
khách quan nhiều hơn, do phải trả giá cho sự “dò đường”, xét về mọi phương diện.<br />
Những nước đi sau phân thành nhiều loại: một số ít thành công với thời gian chỉ 2-3 thập<br />
kỷ; nhiều nước khác mất quá nửa thế kỷ tính từ sau thế chiến thứ II, tuyên bố tiến hành<br />
CNH, nhưng đến nay vẫn đang còn “nghèo nàn, lạc hậu”. Lý do thành công và chưa thành<br />
công mang tính chủ quan nhiều hơn, vì về cơ bản, chính sách phát triển luôn có ý nghĩa<br />
quyết định.<br />
Các tiêu chí định lượng về mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế thường bao gồm tỷ<br />
trọng các khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp (nông nghiệp và dịch vụ) trong GDP,<br />
trong tổng lao động xã hội; tỷ trọng giá trị sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ<br />
cao, sản phẩm qua chế biến trong tổng giá trị sản phẩm hàng hóa…<br />
Lịch sử CNH của những nền kinh tế đã hoàn thành quá trình CNH cho thấy rằng,<br />
các mô hình (cách thức tiến hành) CNH có thể khác nhau, nhưng đều có chung đặc điểm<br />
là, lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn thường được CNH, HĐH sau cùng. CNH nông<br />
nghiệp được hiểu là quá trình chuyển bản thân nền sản xuất nông nghiệp sang sản xuất<br />
và kinh doanh theo lối công nghiệp (tại địa bàn nông thôn). Vì vậy, việc hoàn thành quá<br />
trình CNH của cả nền kinh tế sẽ được ghi nhận ở thời điểm đánh dấu sự hoàn thành của<br />
CNH nông nghiệp. Thành ra, theo nguyên lý tốc độ di chuyển của cả đoàn quân không<br />
phải phụ thuộc vào người đi nhanh nhất, mà phụ thuộc vào người đi sau cùng; tốc độ<br />
<br />
*<br />
PGS.TS, Viện Chiến lược phát triển.<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Bùi Tất Thắng 23<br />
<br />
<br />
<br />
CNH của cả nền kinh tế không phải phụ thuộc vào sự phát triển của riêng lĩnh vực công<br />
nghiệp, mà sẽ phụ thuộc vào tốc độ hoàn thành việc chuyển chính nền sản xuất nông<br />
nghiệp sang sản xuất và kinh doanh theo lối công nghiệp.<br />
Như vậy, xét ở góc độ toàn bộ nền kinh tế, quá trình CNH nói chung đã mặc nhiên<br />
bao hàm quá trình CNH (và ngày nay là cả HĐH) nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, sự<br />
chậm trễ của quá trình CNH nông nghiệp so với các lĩnh vực phi nông nghiệp, nông thôn<br />
là vì tính đặc thù khách quan của bản thân lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Với tư cách<br />
là một lĩnh vực sản xuất, đối tượng của quá trình CNH nông nghiệp khó khăn hơn, tốn<br />
kém hơn, và vì thế, thường mất nhiều thời gian hơn. Khó khăn là vì đối tượng sản xuất<br />
của nông nghiệp liên quan đến sinh vật sống, người lao động ở lại lĩnh vực sản xuất nông<br />
nghiệp tại địa bàn nông thôn lại thường có mức học vấn bình quân thấp hơn các lĩnh vực<br />
phi nông nghiệp...; tốn kém là vì việc xây dựng những điều kiện tiền đề cho chế độ sản<br />
xuất và kinh doanh theo lối công nghiệp như kết cấu hạ tầng giao thông, điện, nước, công<br />
trình công cộng... không thể tập trung trên một địa bàn hẹp như thành phố. Cũng chính vì<br />
lý do này, đã có những nền kinh tế đã không chú ý đúng mức đến quá trình CNH nông<br />
nghiệp và phát triển nông thôn, mà hầu như chỉ tập trung chủ yếu vào khu vực phi nông<br />
nghiệp và đô thị, nên đã xảy ra tình trạng hình thành một nền kinh tế “nhị nguyên”, đối<br />
lập nhau giữa một bên là khu vực công nghiệp và đô thị hiện đại, còn bên kia là khu vực<br />
nông nghiệp lạc hậu và nông thôn nghèo nàn. Nguyên lý tốc độ di chuyển của cả đoàn<br />
quân không phải phụ thuộc vào người đi nhanh nhất, mà phụ thuộc vào người đi sau<br />
cùng, đã cho thấy, quá trình CNH của những nền kinh tế “nhị nguyên” vẫn chưa được<br />
hoàn tất.<br />
Như vậy, kết thúc thời kỳ CNH, nền sản xuất xã hội đã chủ yếu dựa trên phương<br />
thức sản xuất công nghiệp, còn bản thân nền nông nghiệp thì đã sản xuất và kinh doanh<br />
theo lối công nghiệp. Vậy thế nào là phương thức sản xuất công nghiệp và nền sản xuất<br />
nông nghiệp được tiến hành sản xuất và kinh doanh theo lối công nghiệp?<br />
Trước khi phương thức sản xuất công nghiệp ra đời, nền sản xuất xã hội từng trải<br />
qua nhiều nghìn năm lấy sản xuất nông nghiệp (truyền thống) làm sinh kế. Nếu phân chia<br />
lịch sử phát triển của xã hội loài người theo cách tiếp cận “hình thái kinh tế xã hội” của K.<br />
Marx thì lối sản xuất nông nghiệp (truyền thống) đã tồn tại qua 3 hình thái kinh tế xã hội:<br />
cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ và phong kiến. Cho đến khi công cuộc CNH bắt<br />
đầu ở Tây Âu vào khoảng giữa thế kỷ XVII thì phương thức sản xuất công nghiệp bắt đầu<br />
hình thành và dần dần thay thế kiểu sản xuất nông nghiệp truyền thống. Vì sự khởi đầu<br />
của CNH cũng đồng thời là sự khởi đầu quá trình bùng nổ quan hệ thị trường (thị trường<br />
hóa) và hình thành hình thái kinh tế xã hội TBCN, nên với những nước CNH kiểu cổ điển<br />
(bây giờ đã thành các nước công nghiệp phát triển), người ta không thể phủ nhận mối<br />
quan hệ tương tác hữu cơ, tất yếu giữa CNH - thị trường hóa và hình thái kinh tế xã hội<br />
TBCN. Lịch sử CNH nửa sau thế kỷ XX ở một số nước theo mô hình khác: CNH - phi thị<br />
trường hóa và CNXH (hiện thực) đã không thành công, đối lập với một số nước đã thành<br />
công nhờ đi theo mô hình cũ (CNH - thị trường hóa và hình thái kinh tế xã hội TBCN), đã<br />
cho thấy, cho đến nay chưa có mô hình thành công nào khác đã được thực tiễn ghi nhận.<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
24 Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế…..<br />
<br />
<br />
<br />
Như vậy, một nền kinh tế được dựa trên phương thức sản xuất công nghiệp (đã CNH) và<br />
nền sản xuất nông nghiệp được tiến hành sản xuất và kinh doanh theo lối công nghiệp có<br />
hai đặc trưng nổi bật là:<br />
Thứ nhất, sản xuất dựa trên nền tảng công nghệ-kỹ thuật hiện đại (so với sản xuất<br />
nông nghiệp bằng kỹ thuật sản xuất thủ công truyền thống trước đó). Sản xuất nông<br />
nghiệp trong điều kiện đã CNH nông nghiệp có áp dụng kỹ thuật cơ khí hóa, tự động hóa,<br />
thủy lợi hóa, điện khí hóa, sinh học hóa (áp dụng những thành tựu mới nhất về giống cây<br />
trồng, vật nuôi, chế độ chăm sóc, bảo vệ động thực vật…); nên năng suất lao động cao,<br />
chất lượng sản phẩm tốt. Chính nhờ đặc trưng này mà việc rút bớt lao động từ khu vực<br />
nông nghiệp để chuyển sang các khu vực khác diễn ra một cách an toàn, khiến cho năng<br />
suất lao động tổng thể nền kinh tế ngày càng nâng cao.<br />
Thứ hai, CNH tiến hành trong điều kiện thị trường hóa và thúc đẩy sự phát triển<br />
của thị trường thông qua việc mở rộng quá trình phân công lao động xã hội và tạo ra<br />
những thị trường mới cũng như nâng cao mức cầu của thị trường.<br />
Không có nền sản xuất dựa trên công nghệ-kỹ thuật hiện đại (do nền công nghiệp<br />
hiện đại sáng tạo ra), thì không thể tiến hành CNH. Nhưng bản thân nền sản xuất dựa trên<br />
công nghệ-kỹ thuật hiện đại lại chỉ ra đời và phát triển được nhờ cơ chế thị trường. Không<br />
có cơ chế thị trường, nền sản xuất dựa trên công nghệ-kỹ thuật hiện đại (hay CNH) không<br />
thể vận hành và phát triển được. Ngày nay, trong điều kiện lực lượng sản xuất đã rất phát<br />
triển, khoa học-công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp ở mọi lĩnh vực, trong<br />
đó có sản xuất nông nghiệp, xu hướng thị trường hóa toàn cầu sẽ cho phép các yếu tố nêu<br />
trên của lực lượng sản xuất đến di chuyển dễ dàng hơn, mở ra khả năng lớn hơn trong<br />
việc sử dụng thành tựu CNH của những nước đi trước để tiến hành CNH ở các nước chậm<br />
phát triển. Đối với phần đông các nước chậm phát triển, có thể không cần thiết phải phát<br />
triển ngành này hay ngành kia, tập trung nguồn lực phát triển nhanh những lĩnh vực công<br />
nghệ hiện đại này hay lĩnh vực vực công nghệ hiện đại khác, nhưng không thể bỏ qua việc<br />
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, vì chỉ khi hoàn tất quá trình CNH nông nghiệp,<br />
nông thôn, quá trình CNH tổng thể nền kinh tế mới hoàn thành.<br />
Như vậy, CNH, HĐH là làm cho nông nghiệp trở thành ngành kinh tế tuy đối tượng<br />
vẫn là cây trồng, vật nuôi, địa bàn sản xuất vẫn là những vùng nông thôn rộng rộng lớn, gắn<br />
với đất đai, nguồn nước, với điều kiện tự nhiên, môi trường như trước; nhưng đã thay đổi hẳn<br />
về phương thức (cách thức) sản xuất, kinh doanh. Đó là việc áp dụng khoa học, công nghệ, kỹ<br />
thuật hiện đại vào sản xuất, là sản xuất và kinh doanh theo lối công nghiệp. Nhờ đó mà năng<br />
suất lao động, năng suất ruộng đất cao hơn, sản lượng nhiều hơn, ít bị rủi ro hơn..., và là điều<br />
kiện để tăng thu nhập cao hơn, có cuộc sống vật chất và tinh thần tốt hơn.<br />
Ở góc độ tổng thể nền kinh tế, đã có nhiều nghiên cứu thảo luận về các tiêu chí<br />
đánh giá mức độ hoàn thành CNH, HĐH. Trong đó, tiêu chí về chuyển dịch cơ cấu kinh<br />
tế được nhiều nghiên cứu đề cập đến. Xin nêu một số ví dụ tiêu biểu:<br />
- Giáo sư Mỹ H. Chenery, cố vấn Ngân hàng thế giới, chia thời kỳ công nghiệp hóa<br />
làm 3 giai đoạn, giai đoạn khởi đầu, giai đoạn phát triển và giai đoạn hoàn thiện, không<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Bùi Tất Thắng 25<br />
<br />
<br />
<br />
kể một thời đoạn tiền công nghiệp hóa và một thời đoạn hậu công nghiệp hóa. Tương ứng<br />
với mỗi giai đoạn có xác định chỉ tiêu GDP bình quân đầu người, tỷ lệ cơ cấu kinh tế, cơ<br />
cấu ngành công nghiệp, cơ cấu lao động và cơ cấu không gian (Bảng 1).<br />
Bảng 1: Các giai đoạn công nghiệp hóa theo H. Chenery<br />
<br />
Chỉ tiêu cơ bản Tiền CNH Khởi đầu CNH Phát triển CNH Hoàn thiện CNH Hậu CNH<br />
GDP/người<br />
USD 1964 100-200 200-400 400-800 800-1.550 >1.500<br />
USD 2004 720-1.440 1.440- 2.880 2.880-5.760 5.760-10.810 >10.810<br />
A>20% A60%<br />
Lao động NN >60% 45-60% 30-45% 10-30% 3000 3243 (1965)<br />
2 Tỷ trọng A/GDP % 12-15 11 (1929)<br />
3 Tỷ trọng S/GDP % > 45 48 (1929)<br />
4 Lao động phi NN % > 75 79 (1929)<br />
5 Tỷ lệ biết chữ % > 80 -<br />
6 Tỷ lệ sinh viên ĐH % 12 - 15 16 (1945)<br />
7 Bác sĩ / 1000 dân người >1 1,3 (1960)<br />
8 Tuổi thọ trung bình năm > 70 70 (1960<br />
9 Tăng dân số %