intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vấn đề liên kết doanh nghiệp trong đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội tại Tp. Hồ Chí Minh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

44
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Xuất phát từ yêu cầu thực tế và sự bất cập trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ngành Du lịch thời kỳ cách mạng 4.0 tại Thành phố Hồ chí Minh (TP. HCM) hiện nay, bài viết nêu lên thực trạng và đề xuất một số kiến nghị, giải pháp với mong muốn tìm được sự đồng thuận, phối hợp và quan tâm đúng mức giữa: cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp nhằm đổi mới công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội nói chung , cũng như sự phát triển bền vững ngành du lịch nói riêng theo tinh thần của Nghị quyết 08 - NQ/TW (16/01/2017) của Bộ Chính trị thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 tại TP. HCM.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vấn đề liên kết doanh nghiệp trong đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội tại Tp. Hồ Chí Minh

  1. HUFLIT International Conference On Ensuring A High-Quality Human Resource In The Modern Age - Oct 16, 2020 doi: 10.15625/vap.2020.00100 VẤN ĐỀ LIÊN KẾT DOANH NGHIỆP TRONG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH NHẰM ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI TẠI TP. HỒ CHÍ MINH Phạm Thị Thu Nga Khoa Du lịch - Khách sạn, Đại học Ngoại ngữ - Tin học TP. HCM nga.ptt@huflit.edu.vn TÓM TẮT: Xuất phát từ yêu cầu thực tế và sự bất cập trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ngành Du lịch thời kỳ cách mạng 4.0 tại Thành phố Hồ chí Minh (TP. HCM) hiện nay, bài viết nêu lên thực trạng và đề xuất một số kiến nghị, giải pháp với mong muốn tìm được sự đồng thuận, phối hợp và quan tâm đúng mức giữa: cơ sở đào tao và các doanh nghiệp nhằm đổi mới công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội nói chung , cũng như sự phát triển bền vững ngành du lịch nói riêng theo tinh thần của Nghị quyết 08 - NQ/TW (16/01/2017) của Bộ Chính trị thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 tại TP. HCM. Từ khóa: Liên kết, đào tạo nguồn nhân lực du lịch TP. HCM. I. YÊU CẦU THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU A. Yêu cầu thực tiễn Những thập niên gần đây, du lịch là một ngành kinh tế có tốc độ phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu. Du lịch phát triển góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ cho các quốc gia và giải quyết nhiều công ăn việc làm cho xã hội; thúc đẩy sự phát triển của các ngành có liên quan như xây dựng, thương mại, sản xuất hàng tiêu dùng, bảo hiểm, giao thông vận tải, bưu chính - viễn thông... Hiện nay, hằng năm trên toàn cầu trung bình có trên 900 triệu lượt người đi du lịch. Con số này sẽ đạt 1,6 tỉ vào năm 2020, 1,8 tỉ lượt khách năm 2030,* trong đó 60 % dòng khách đi du lịch có mục đích tìm hiểu nền văn hóa khác so với nền văn hóa nơi họ sinh sống. Du lịch đã trở thành ngành kinh tế quan trọng bậc nhất thế giới, xuất khẩu du lịch chiếm khoảng 30 % xuất khẩu dịch vụ thương mại thế giới và 6 % tổng xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ.“Với tư cách là ngành xuất khẩu, hiện nay du lịch đã vươn lên đứng vị trí thứ 4 sau ngành nhiên liệu, hoá dầu và sản xuất ôtô”. Vì hiệu quả to lớn đó, trước xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã chọn du lịch là ngành ưu tiên phát triển số 1 trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mình. Tại Việt Nam ngành Du lịch chỉ thực sự phát triển nhanh vào những năm đầu của thập niên 90 của thế kỷ XX. Nếu so sánh với các ngành kinh tế khác, du lịch được xếp vào một trong những ngành mới. Từ khi du lịch được Đảng và Chính phủ xác định là ngành kinh tế mũi nhọn, nó đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm qua. Việt Nam hiện được xếp hạng thứ 6 trong 10 nước dẫn đầu về phát triển du lịch tốt từ 2007 - 2016. Năm 2015, du lịch Việt Nam đón khoảng trên 7,9 triệu lượt khách du lịch quốc tế, phục vụ 57 triệu lượt khách du lịch nội địa, thu nhập du lịch đạt khoảng 337,8 tỷ đồng, tăng 6,2 % so với 2014†. Đến 2018, số lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng kỷ lục: khoảng 15,6 triệu lượt, tăng hơn 2,7 triệu lượt khách so với năm 2017 80 triệu lượt khách nội địa, tăng hơn 6,8 triệu… Tổng thu từ khách du lịch đạt hơn 620.000 tỉ đồng (theo số liệu từ Tổng cục Du lịch). Để đáp ứng thực tiễn phát triển, các nhà chuyên môn đã tập trung nghiên cứu và nhấn mạnh: du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, mang nội dung văn hóa sâu sắc, có tính liên ngành liên vùng và xã hội hoá cao. Chất lượng của hoạt động du lịch phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tiềm năng tài nguyên du lịch, chất lượng của hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật ngành Du lịch và kết cấu hạ tầng, chính sách phát triển ngành du lịch của Nhà nước, tình hình an ninh chính trị của đất nước, mức độ mở cửa và hội nhập của nền kinh tế.Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu và toàn diện, đặc biệt sự phát triển của cách mạng công nghệ thì yêu cầu cấp bách đặt ra cho ngành du lịch Việt Nam là phát triển du lịch bền vững. Điều này chỉ có thể thực hiện được nếu chúng ta có đội ngũ lao động chất lượng cao, số lượng đủ, cơ cấu hợp lý gồm đông đảo những nhà quản lý, những nhân viên du lịch lành nghề, những nhà khoa học công nghệ du lịch tài năng, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, tháo vát và có trách nhiệm cao. Phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ vừa cấp bách, có ý nghĩa chiến lược lâu dài quyết định tương lai phát triển của ngành du lịch Việt Nam. Trước yêu cầu đó, xuất phát từ thực tiễn tham gia công tác đào tạo và tìm hiểu nguồn nhân lực ngành du lịch tại Thành phố Hồ Chí Minh nhiều năm qua (được thể hiện qua 1 số bài viết & công trình nghiên cứu) tác giả đã chọn vấn đề: “Vấn đề liên kết doanh nghiệp trong đào tạo nguồn nhân lực du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh ” đây được xem là một nhiệm vụ trọng yếu trong quá trình tham gia công tác đào tạo nguồn nhân lực * Viettrade.gov.vn, Tình hình & xu hướng phát triển du lịch thế giới † Theo số liệu của Tổng cục Thống kê - Tổng cục Du lịch - Vietnamtourism.gov.vn.
  2. Phạm Thị Thu Nga 309 cho ngành, cũng qua đó đề xuất 1 số giải pháp để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch theo tinh thần Nghị quyết TW 08 – NQ/TW. B. Phương pháp tiến hành Trên cơ sở thực tế nhiều năm tham gia trực tiếp vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ngành Du lịch tại 1 số cở sở đào tạo ở Thành phố Hồ Chí Minh, với việc kết hợp các phương pháp: Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động đào tạo của một số cơ sở đào tạo nguồn nhân lực du lịch và quan sát các hoạt động liên quan đến nguồn nhân lực bên ngoài xã hội, vấn đề việc làm của sinh viên... để đánh giá tình hình nguồn nhân lực thuộc lĩnh vực du lịch Phương pháp điều tra - khảo sát: Sử dụng bộ công cụ để điều tra, khảo sát chương trình và phương cách tổ chức đào tạo của các trường đào tạo có liên quan tới vấn đề nghiên cứu. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Tham khảo ý kiến chuyên gia về chương trình đào tạo (mời các chuyên gia thẩm định chương trình, thông qua tọa đàm doanh nghiệp) và sản phẩm đào tạo (sinh viên ra trường tham gia vào thực tiễn doanh nghiệp du lịch) để củng cố hướng tiếp cận và xác định tính hợp lí, toàn diện của quá trình đào tạo nguồn nhân lực. Với khuôn khổ bài viết tác giả chỉ trình bày những ý kiến rút ra chứ không đi vào các bước cụ thể của quá trình sử dụng kết hợp các phương pháp. II. MỘT SỐ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU A. Yêu cầu thực tế nguồn nhân lực Du lịch nói chung và tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Nguồn nhân lực (Human resources), từ góc nhìn của lí thuyết phát triển, theo nghĩa rộng, được hiểu như nguồn lực con người của một quốc gia, cũng như nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính được huy động để tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội; theo nghĩa hẹp, được xem như có thể lượng hóa là một bộ phận dân số, một đội ngũ, một lực lượng xếp theo tiêu chí nhất định nào đó. Theo dự báo của Tổng cục Du lịch Việt Nam trong hiện tại & những năm tới thì nhu cầu nhân lực của ngành Du lịch sẽ rất lớn, vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, có tay nghề vững đã và đang là thách thức đối với du lịch Việt Nam. Về số lượng: Nhân lực ngành du lịch hiện có khoảng 1,9 triệu (trong đó có trên 600 ngàn lao động trực tiếp và trên 1,3 triệu lao động gián tiếp), chiếm 3,6 % tổng số lao động cả nước. Dự báo đến năm 2020, tổng nhân lực của ngành du lịch là 2,3 triệu người, trong đó có trên 800.000 lao động trực tiếp‡ (Về trình độ đào tạo: Nhân lực du lịch trực tiếp có trình độ đào tạo sơ, trung cấp, cao đẳng du lịch chiếm 47,3 % nhân lực đào tạo, bằng 19,8 % nhân lực toàn ngành. Nhân lự có trình độ đại học, sau đại học chiếm 7,4 % số nhân lực có chuyên môn, chiếm 3,2 % tổng nhân lực toàn ngành§. Về nghệp vụ nghề: Theo những kết quả khảo sát cho thấy tính chuyên nghiệp của đội ngũ nhân lực thấp - mặc dù đã qua đào tạo**. Về cơ cấu ngành nghề: Cơ cấu đào tạo theo từng trình độ cũng đang ở tình trạng mất cân đối. Theo Tổng cục Du lịch (Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch, mỗi năm toàn ngành cần thêm 40.000 lao động. Tuy nhiên, lượng sinh viên được đào tạo theo chuyên ngành ra trường chỉ khoảng 15.000 người/năm, trong đó chỉ hơn 12 % có trình độ cao đẳng, đại học trở lên. Thế nhưng nhiều hướng dẫn viên du lịch dù đã được đào tạo tại các trường chính qui, nhưng khi được tuyển dụng hầu hết đều phải đào tạo lại hoặc đào tạo bổ sung về kỹ năng, ngoại ngữ… Nhìn chung chất lượng đào tạo nguồn nhân lực khi cung cấp cho thị trường lao động du lịch đều chưa thật sự đáp ứng. Như vậy, có thể nói cả số lượng và chất lượng nguồn nhân của ngành du lịch, đặc biệt là nguồn nhân lực có trình độ đáp ứng thực tiễn xã hội đã và đang là vấn đề cần được quan tâm đúng mức. Trong bối cảnh chung đó, Thành phố Hồ Chí Minh – một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa lớn đã và đang góp phần quan trọng trong việc đào tạo ra một nguồn nhân lực đáp ứng về chất lượng, thỏa mãn nhu cầu của một thị trường đa dạng, năng động bậc nhất cả nước. Nhìn chung tại Thành phố Hồ Chí Minh những năm qua, ngành Du lịch đã thừa nhận: nguồn nhân lực của ngành có trình độ đại học chỉ chiếm khoảng hơn 3 %, trong tổng số hơn một triệu lao động của ngành ††.Vài năm gần đây, tuy ‡ Bộ Văn hóa,Thể thao và Du lịch (2016), Đề án “Tăng cường công tác đào tạo theo nhu cầu xã hội trong lĩnh vực du lịch đến năm 2025”(QĐ số 844/QĐ-BVHTTDL). § Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2016), Đề án… đã dẫn ... ** Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2016), Đề án …đã dẫn … †† Nguồn: http:// www3.vietnamnet.vn/giaoduc/2008/03/772361
  3. 310 VẤN ĐỀ LIÊN KẾT DOANH NGHIỆP TRONG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH NHẰM ĐÁP ỨNG NHU CẦU Xà HỘI TẠI TP HỒ CHÍ MINH các cơ sở đào tạo cũng đã “dốc lực” vào lĩnh vực này nhưng chỉ đáp ứng được 60 % nhu cầu. Bên cạnh đó, vấn đề chất lượng đào tạo cũng là vấn đề mà nhiều doanh nghiệp du lịch tại thành phố đặc biệt quan tâm. Có một số ý kiến nhận xét như: Kiến thức đào tạo chung chung, nặng về lý thuyết và chưa sát thực tiễn, các kỹ năng nghiệp vụ vừa thiếu lại vừa yếu, đạo đức nghề nghiệp chưa thật sự được chú ý đúng mức, cơ cấu ngành nghề chưa cân đối… Cũng như tình trạng chung của cả nước, phần lớn các doanh nghiệp khi nhận sinh viên mới ra trường vẫn phải tiến hành đào tạo lại .Theo khảo sát của một số công ty du lịch, có tới 30 – 45 % hướng dẫn viên du lịch, điều hành tour và 70-80 % nhân viên lễ tân nhà hàng không đạt chuẩn ngoại ngữ ‡‡.Từ đó, dẫn đến bấp cập là nguồn nhân lực của ngành “thừa nhưng vẫn thiếu”? B. Thực trạng vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch tại Thành phố Hồ Chí Minh những năm gần đây Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm thu hút khách du lịch lớn nhất nước, với lượng khách quốc tế vào Thành phố chiếm hơn 50 % số khách du lịch quốc tế vào Việt Nam, khách du lịch nội địa bằng khoáng1/3 lượng khách du lịch nội địa của cà nước, tổng doanh thu du lịch của Thành phố bằng ¼ doanh thu du lịch cả nước. Theo Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, trong tháng 1/2019, ước tính đã có gần 794.000 lượt khách quốc tế đến, tăng 21 % so với cùng kỳ năm 2018, đạt 9,34 % kế hoach năm 2019§§ .Trong những năm qua ngành du lịch luôn giữ vị trí, vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh.Vị trí của ngành du lịch Thành phố ngày càng được khẳng định trên bản đồ du lịch khu vực và thế giới. Đứng trước nhu cầu phát triển đó, việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu cho ngành đã và đang được các cấp, các ngành liên quan tại thành phố quan tâm. Thời gian gần đây, nhiều cấp độ, nhiều hình thức đào tạo nhân lực cho lĩnh vực Du lịch đã được mở ra. Hiện Thành phố Hồ Chí Minh có 17 trường đại học, 8 trường cao đẳng, trung cấp tham gia đào tạo nguồn nhân lực du lịch với các cấp độ khác nhau***. Nhìn chung: So với cả nước, các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực du lịch của Thành phố Hồ Chí Minh cơ bản đã đáp ứng nhu cầu của các ngành, nghề du lịch; đội ngũ giảng viên tham gia quá trình đào tạo cơ bản đều là những người có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực du lịch hoặc dịch vụ du lịch, họ là những người năng động trong họat động kinh doanh du lịch nên luôn chú trọng đến việc rèn kỹ năng thực hành nghề cho sinh viên thông qua việc gắn quá trình đào tạo với việc tổ chức các họat động thực tiễn tại các cơ sở dịch vụ du lịch hoặc doanh nghiệp du lịch, nhằm giúp cho sản phẩm đào tạo của mình đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Theo thống kê của Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thị trường lao động thành phố Hồ Chí Minh về nhu cầu nhân lực 9 nhóm ngành kinh tế dịch vụ trọng điểm tại TP. HCM giai đoạn 2013 - 2015 - 2020, nhu cầu nhân lực khối ngành du lịch chiếm tỉ trọng 8 % trong tổng số nhu cầu nhân lực (khoảng 21.600/năm)†††. Như vậy nhóm ngành du lịch, nhà hàng, khách sạn là một trong 12 nhóm ngành cần nhiều lao động tại TP. HCM. Vấn đề đặt ra là phải chú trọng đầu tư vào việc đào tạo nguồn nhân lực gắn với nhu cầu của thực tiễn của các doanh nghiệp. Những bất cập trong công tác đào tạo nhân lực du lịch tại Thành phố Hồ Chí Minh và yêu cầu thực tiễn: Mặc dù giữa các bên liên quan tại thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều cố gắng để từng bước hòan thiện công tác đào tạo nhằm đáp ứng thực tiễn phát triển của ngành, nhưng thực tế vẫn còn nhiều bất cập: Hiện nay các doanh nghiệp du lịch chưa thực sự tham gia vào hoạt động đào tạo bồi dưỡng nhân lực du lịch. Có nhiều nguyên do nhưng vấn đề chính là bản thân các doanh nghiệp chưa ý thức được hết vai trò của nguồn nhân lực đối với sự phát triển của doanh nghiệp, nên chưa có chiến lược phát triển nhân lực dài hơi. Do vậy, họ ít quan tâm đến việc hợp tác với các cơ sở đào tạo thống nhất các tiêu chí chung trong đào tạo nhân lực ngành du lịch, trên cơ sở đó để các cơ sở đào tạo hoàn chỉnh, thống nhất giáo trình giảng dạy đạt chuẩn khu vực, quốc tế, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh với lao động của các quốc gia khác trong khối ASEAN. Mặc dù Tổng cục Du lịch Việt Nam cũng đã đưa ra bộ “ Tiêu chuẩn kỹ năng nghề du lịch Việt Nam” làm tài liệu chuẩn phục vụ việc giảng dạy chung cho các cơ sở đào tạo nhằm đáp ứng cho công tác quản lý nhà nước về du lịch. Tuy nhiên, bộ tài liệu này chưa được các doanh nghiệp và cơ sở đào tạo du lịch thống nhất, áp dụng đồng bộ. Từ đó, gây không ít khó khăn cho sản phẩm được đào tạo trong quá trình tìm việc làm khi ra trường, dẫn đến thực trạng nguồn nhân lực được đào tạo chưa thật sự đạt chuẩn; một số cơ sở đào tạo chưa thật chú ý đến việc rèn kỹ năng nghề trong đào tạo nguồn nhân lực trình độ và chất lượng tay nghề cao. Cơ cấu, chỉ tiêu đào tạo chưa thật hợp lý giữa các lọai hình, các nghề của ngành Du lịch, mặc dù đã có dự báo tổng thể nhu cầu, nhưng nhìn chung chưa có sự phối kết hợp giữa bộ phận quản lý - các doanh nghiệp và cơ sở đào tạo để có những chỉ tiêu cụ thể, tránh tình trạng “mạnh ai nấy làm” như hiện nay. ‡‡ Trần Anh Tuấn – Phó GĐ Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực (2015), BC tại HT nhu cầu đào tạo & thành lập HĐ Hiệu trưởng các cơ sở ĐT khối ngành DL trên địa bàn TP. HCM. §§ Thời báo tài chính Việt Nam 14/02/2019. *** .hoteljob.vn (số liệu được cập nhật năm 2020). ††† Hiệp hội Du lịch TP. HCM - Sở VH-TT & Du lịch TP(2009), tài liệu Hội nghị về “Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch TP. HCM giai đoạn 2010 -2020, tại TP. HCM.
  4. Phạm Thị Thu Nga 311 Trong quá trình tiến hành đào tạo khung chương trình tuy đã được thiết kế theo hướng gắn giữa lý thuyết với nhu cầu thực tiễn xã hội, nhưng quĩ thời gian dành cho họat động thực hành của cả giảng viên và sinh viên chưa thật sự hợp lý. Từ đó đưa đến việc đào tạo ra nguồn nhân lực còn khiếm khuyết những kỹ năng cơ bản: khả năng tư duy độc lập, tư duy phản biện, giao tiếp, ngọai ngữ, xử lý tình huống, khả năng liên kết làm việc nhóm… Nhìn tổng thể tồn tại lớn hiện nay đó là vẫn thiếu một sự phối kết hợp, hoặc nếu có thì rất mờ nhạt giữa các bên liên quan trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực du lịch tại Thành Phố Hồ Chí Minh. III. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC‡‡‡ Từ thực tế trên, theo tôi muốn thực hiện việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu xã hội theo tinh thần Nghị quyết 08 – NQ/TW (16/01/2017) của Bộ Chính trị, cần phải có sự phối kết hợp giữa các bên liên quan để có những giải pháp đồng bộ, phù hợp thực tiễn. Trước tiên cần có sự phối kết hợp các bộ phận liên quan như Bộ Giáo dục - Đào tạo và Tổng cục Du lịch, Sở Du lịch thống nhất xây dựng hệ thống mã ngành, nghề đào tạo nguồn nhân lực du lịch. Cần có chiến lược dự báo nhu cầu nguồn nhân lực trong những năm tới để đặt ra chỉ tiêu (số lượng) cho các cơ sở đào tạo, định hướng cho các cơ sở đào tạo có cơ cấu đào tạo phù hợp giữa các ngành, nghề thuộc lĩnh vực du lịch, tránh hiện tượng “trăm hoa đua nở” như hiện nay. Hơn nữa quá trình đào tạo nguồn nhân lực cần có sự phối hợp, liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp - nhà trường làm sao cho yêu cầu thực tế và sản phẩm đào tạo được sử dụng hợp lý phù hợp với nhu cầu xã hội, thị trường. Bởi chính thị trường là nơi đánh giá chính xác nhất thành quả của công tác đào tạo. Phía doanh nghiệp - với tư cách nhà tuyển dụng & sử dụng nguồn nhân lực Muốn vậy, các doanh nghiệp cần chú trọng và đẩy mạnh việc liên kết giữa nhà tuyển dụng và cơ sở đào tạo nhằm giải quyết những khó khăn hiện nay cho nguồn nhân lực, bao gồm các biện pháp như sau: Biện pháp 1: Các doanh nghiệp phải nhận thức được trách nhiệm và có chính sách khuyến khích sinh viên trong quá trình học tập cũng như thực tập tại doanh nghiệp. Để góp phần vào việc nâng cao tính hiệu quả của đào tạo nguồn nhân lực chất lượng, bản thân các doanh nghiệp cũng phải nhận thức được vấn đề liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp là nhu cầu tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, nó góp phần quan trọng đến sự tồn tại bền vững của cả cơ sở đào tạo cũng như doanh nghiệp. Thế nhưng, thực tế hiện nay hầu hết các doanh nghiệp còn chưa nhận thức đúng được lợi ích trong quá trình hợp tác, nên không mặn mà trong việc liên kết, nếu có chỉ là nhất thời, lỏng lẻo, thiếu tính bền vững lâu dài... Biện pháp 2: Để khắc phục thực trạng đó, doanh nghiệp và cơ sở đào tạo cần xúc tiến việc ký kết các văn bản hợp tác.Thậm chí, sự tài trợ của các doanh nghiệp cho các hoạt động chuyên môn, qua đó để chia sẻ thông tin thuộc lĩnh vực ứng dụng, hoặc các suất học bổng, kinh phí cho sinh viên khi thực tập tại doanh nghiệp, hay tạo thuận lợi cho sinh viên khi đến thực tập tại doanh nghiệp, cơ hội việc làm cho sinh viên khi ra trường, từ đó sẽ hạn chế được vấn đề nan giải là đào tạo không đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp và thực tiễn xã hội. Tiếp theo, doanh nghiệp cần phối hợp, tạo điều kiện để cơ sở đào tạo có thể tổ chức dạy các môn nghiệp vụ, thực hành tại các doanh nghiệp - giúp cơ sở đào tạo đa dạng hóa các hình thức trong quá trình đào tạo. Việc tổ chức rèn kỹ năng nghiệp vụ tại trung tâm thực hành ứng dụng hoặc tại các cơ sở doanh nghiệp chính là việc áp dụng mô hình giáo dục thực hành chuyên nghiệp cho sinh viên, giúp chuyển hóa kiến thức lý thuyết thành bài học thực hành, hình thành phản ứng nhanh nhạy, ứng dụng linh hoạt, tự tin của bản thân người học khi giải quyết các tình huống đa dạng của mỗi loại hình nghề nghiệp thuộc lĩnh vực du lịch. Thông qua đó, gia tăng thêm về kỹ năng, kiến thức, tác phong nghề nghiệp nhằm hoàn thiện khả năng thích nghi nhanh chóng với công việc, đáp ứng được các yêu cầu ngày càng cao của nhà tuyển dụng. B. Đối với các cơ sở đào tạo (nhà trường – khoa) phải chủ động và có kế hoạch cụ thể trong việc liên kết, hợp tác với doanh nghiệp Thực tiễn hiện nay, một trong những vấn đề cần quan tâm đầu tiên về công tác đào tạo của các trường đại học và cao đẳng, trường nghề: đó là việc tăng cường rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ, kỹ năng thực hành cho người học. Thế nhưng, tình hình thực tế cho thấy quy mô cơ sở vật chất phục vụ việc dạy và học cũng như rèn luyện kỹ năng thực hành, nghiệp vụ hầu như chưa thật sự đáp ứng yêu cầu. Mặc dù, các trường rất chú trọng đến việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, nhưng chưa có sự quan tâm đúng mức việc xây dựng cơ sở thực hành phục vụ cho việc giảng dạy và nghiên cứu. Đây chính là điểm mấu chốt khiến cho phần lớn nguồn nhân lực sau khi được đào tạo chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của các nhà tuyển dụng và nhu cầu xã hội. Với thực tế đó, thì việc chủ động gắn kết giữa ‡‡‡ Phạm T Thu Nga (2019): Vấn đề liên kết “3 bên” trong đào tạo nguồn nhân lực du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội tại TP. HCM (HT: diễn đàn nguồn nhân lực 2019 - TP. HCM.
  5. 312 VẤN ĐỀ LIÊN KẾT DOANH NGHIỆP TRONG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH NHẰM ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI TẠI TP HỒ CHÍ MINH nhà cung ứng nhân lực và nhà tuyển dụng sẽ đem lại nhiều hữa ích. Theo chúng tôi, việc đào tạo theo địa chỉ, theo đơn đặt hàng, sử dụng được lợi thế sẵn có là cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp sẽ vừa góp phần tăng thời lượng thực hành nghiệp vụ cho sinh viên, nâng cao chất lượng đào tạo, đồng thời sinh viên có điều kiện được trải nghiệm với thực tiễn kinh doanh. Thông qua đó, doanh nghiệp cũng đạt được lợi ích trong việc tuyển dụng nguồn nhân lực chất lượng mà không cần phải đào tạo lại. Để thực hiện được điều này, đòi hỏi phải có sự phối kết hợp nhiều yếu tố, từ nhiều phía. Hiện nay, hầu hết các trường đã hình thành phòng quan hệ doanh nghiệp, nhưng thực sự cũng chưa chú trọng một cách hiệu quả việc kết nối, liên kết giáo dục đào tạo với doanh nghiệp. Theo chúng tôi, bản thân các khoa - trường trong quá trình tổ chức đào tạo cần tăng cường tính chủ động nắm bắt thông tin về yêu cầu sử dụng nguồn nhân lực để có định hướng cũng như kế hoạch cụ thể trong quá trình đào tạo theo yêu cầu thực tiễn của doanh nghiệp. Từ đó, giúp người học thấy rõ được những yêu cầu về kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ cần trang bị để có khả năng thích ứng với thực tiễn ngay sau khi ra trường. Đồng thời, cơ sở đào tạo cũng cần chủ động đề xuất doanh nghiệp tạo điều kiện hỗ trợ trường cơ sở thực hành, thực tập, chia sẻ kinh nghiệm, thử nghiệm sản phẩm, phối hợp nghiên cứu phát triển... Mặt khác, để việc hợp tác đào tạo thực hiện có hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu, giữa nhà trường và doanh nghiệp cần phối hợp đưa ra những tiêu chí chuẩn về chất lượng đào tạo nói chung, trong đó kỹ năng nghiệp vụ nghề của người học là một tiêu chí quan trọng. Trên cơ sở đó, giúp người học phát huy hết khả năng của mình trong quá trình học tập và rèn luyện. Các cơ sở đào tạo cần phải: Tăng cường tính hiệu quả của những môn học nghiệp vụ và thực hành, thực tế, thực tập, phát huy ưu thế của mô hình đào tạo kết hợp kiến thức - kỹ năng, gắn đào tạo với thực tiễn xã hội. Cơ sở đề xuất giải pháp là sự quan sát các hoạt động thực hành, thực tế, thực tập trong quá trình đào tạo của khoa, trường du lịch và kết quả khảo sát các đối tượng giảng viên, sinh viên, cán bộ quản lí. Về mục đích, việc tăng cường tính hiệu quả của những môn học nghiệp vụ và thực hành, thực tế, thực tập là một giải pháp nhằm khai thác yếu tố nội lực của bản thân quá trình đào tạo, nhằm hướng tới những mục tiêu xã hội, mục tiêu đào tạo, nhằm phát huy ưu thế của mô hình đào tạo kiến thức - kỹ năng mà các cơ sở đào tạo đang chuyển đổi những năm qua. Vì vậy, cần phải chú trọng hơn nữa tính nghiệp vụ trong các môn học chuyên ngành và đồng thời cần bổ sung, hoàn thiện các môn học mang tính ứng dụng cao, sát với thực tiễn. Do vậy, quá trình tổ chức đào tạo cần tiến hành các biện pháp: Biện pháp 1: Điều chỉnh, bổ sung kịp thời các môn học nghiệp vụ du lịch lữ hành hay nghiệp vụ khách sạn nhà hàng, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến trong đào tạo. Do nhu cầu nhân lực hiện nay, chủ yếu diễn ra ở khu vực các đơn vị, công ty hoạt động trong lĩnh vực du lịch lữ hành (hướng dẫn viên) nên định hướng đầu ra của ngành đào tạo cũng chủ yếu hướng đến khu vực này để sinh viên có thể dễ dàng tìm việc làm. Cho nên, bên cạnh việc tăng cường tính hiệu quả các môn học nghiệp vụ và thực tế bộ môn, thực tập tốt nghiệp thì cũng cần phải điều chỉnh, bổ sung kịp thời các môn học nghiệp vụ thuộc các lĩnh vực du lịch hay nghiệp vụ khách sạn, nhà hàng, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ vào các lĩnh vực cụ thể. Sự điều chỉnh, bổ sung này trước hết là để đáp ứng mục tiêu đào tạo sau nữa là để phù hợp với xu hướng phát triển của cách mạng 4.0. Biện pháp 2: Tăng cường thời lượng, tính hiệu quả các môn học nghiệp vụ và thực tập bộ môn, thực tập tốt nghiệp thông qua “học kỳ doanh nghiệp“ mà 1 số trường đã & đang thực hiện. Hiệu quả của mô hình đào tạo kiến thức, kỹ năng thực hành thông qua các môn học nghiệp vụ và thực tế bộ môn, thực tập tốt nghiệp mà các cơ sở đào tạo đã và đang áp dụng những năm vừa qua cho thấy: Các môn học có tính nghiệp vụ chuyên biệt đã thể hiện sự định hướng nghề nghiệp cụ thể cho sinh viên sau khi ra trường sẽ làm việc ở các đơn vị doanh nghiệp hoạt động kinh doanh du lịch lữ hành; khách sạn – nhà hàng... Các chương trình tham quan học tập thực tế bộ môn trên các địa bàn khu vực các tỉnh miền Tây, miền Đông, miền Trung và các tỉnh Bắc Bộ giúp mở rộng kiến thức hiểu biết môn học, kiến thức thực tiễn, sự trải nghiệm nghề nghiệp. Việc xây dựng nội dung kế hoạch và tổ chức hướng dẫn sinh viên thực tập nghề gắn với công tác thực tiễn và tổ chức theo hình thức mở mà mỗi nhóm ở từng ngành phải có giảng viên hướng dẫn, kết hợp chặt với các doanh nghiệp, tư vấn thường xuyên qua nhiều hình thức, phương tiện truyền thông khác nhau để phản ánh kết quả làm việc có sự phối hợp giữa đơn vị mà sinh viên thực tập, và giảng viên quan trọng hơn, sinh viên được tạo quyền chủ động trong thực tập nghề nghiệp.
  6. Phạm Thị Thu Nga 313 Đồng thời với những biện pháp trên các cơ sở đào tạo cũng cần đặc biệt quan tâm đến nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, tăng cường hợp tác quốc tế tạo điều kiện để đội ngũ học hỏi thêm kinh nghiệm các chuyên gia, nhà khoa học cũng như các cơ sở đào tạo du lịch của các quốc gia trong khu vực ASEAN cũng như quốc tế. IV. KẾT LUẬN Như vậy có thể nói sự phối kết hợp đồng bộ giữa doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo với nhiều hình thức khác nhau trong quá trình tiến hành đào tạo nguồn nhân lực du lịch là sự hỗ trợ, động viên lớn đối với các cơ sở đào tạo, nhằm giúp cho công tác đào tạo khắc phục những khiếm khuyết, đáp ứng ngày càng tốt hơn cho việc cung cấp nguồn nhân lực có kỹ năng nghiệp vụ, phục vụ cho sự phát triển bền vững ngành Du lịch, để du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, theo đúng tinh thần Nghị quyết 08 - NQ/TW. V. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Viettrade.gov.vn, Tình hình & xu hướng phát triển du lịch thế giới. [2] Theo số liệu của Tổng cục Thống kê - Tổng cục Du lịch (Cập nhật 2018) - Vietnamtourism.gov.vn. [3] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2016), Đề án “Tăng cường công tác đào tạo theo nhu cầu xã hội trong lĩnh vực du lịch đến năm 2025 (QĐ số 844/QĐ- VHTTD). [4] Nguồn: http:// www3.vietnamnet.vn/giaoduc/2008/03/772361. [5] Trần Anh Tuấn - Phó GĐ Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực (2015), BC tại HT nhu cầu đào tạo & thành lập HĐ Hiệu trưởng các cơ sở đào tạo khối ngành Du lịch trên địa bàn TP. HCM. [6] Thời báo Tài chính Việt Nam 14/02/2019. [7] hoteljob.vn (số lượng được cập nhật năm 2020). [8] Hiệp hội Du lịch TP. HCM - Sở VH-TT & Du lịch TP (2009), tài liệu Hội nghị về “Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch TP HCM giai đoạn 2010 -2020, tại TP. HCM. [9] Phạm T. Thu Nga (2019): Vấn đề liên kết “3 bên” trong đào tạo nguồn nhân lực du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội tại TP HCM (HT: diễn đàn nguồn nhân lực 2019 - TP. HCM). ENTERPRISES ASSOCIATION IN TOURISM HUMAN RESOURCES TRAINING TO MEET THE SOCIETY DEMANDS IN HO CHI MINH CITY Pham Thi Thu Nga ABSTRACT: Coming from the practical requirements and inadequacies in the process of tourism human resources training in the 4.0 revolution in Ho Chi Minh City (HCMC) today, the article highlights the current situation and suggests some solutions with the desire to find consensus, coordination and adequate interest between: training institutions & businesses; in order to innovate the tourism human resources training so that the increasing demand of society can be met and the tourism industry can develop sustainably. This is in accordance with the spirit of the Resolution NQ 08 - NQ/TW issued (in January 16, 2017) by the Politburo during the 4.0 industrial revolution in HCMC.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2