intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vấn đề sở hữu ruộng đất ở huyện Hà Châu, tỉnh Hà Tiên nửa đầu thế kỷ XIX qua nghiên cứu tư liệu địa bạ năm Minh Mạng thứ 17 (1836)

Chia sẻ: ViLusaka2711 ViLusaka2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

41
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thông qua khai thác và nghiên cứu nguồn tư liệu địa bạ huyện Hà Châu, tác giả đã phân tích và làm nổi bật một số vấn đề cơ bản về sở hữu ruộng đất nơi đây. Ngoài ra, bài viết còn có ý nghĩa trong việc gợi mở nghiên cứu mới về xác lập chủ quyền lãnh thổ ở vùng biên giới Tây Nam trong mối quan hệ giữa Đại Nam và Chân Lạp ở thế kỉ XIX.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vấn đề sở hữu ruộng đất ở huyện Hà Châu, tỉnh Hà Tiên nửa đầu thế kỷ XIX qua nghiên cứu tư liệu địa bạ năm Minh Mạng thứ 17 (1836)

An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> VẤN ĐỀ SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT Ở HUYỆN HÀ CHÂU, TỈNH HÀ TIÊN<br /> NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX QUA NGHIÊN CỨU TƯ LIỆU ĐỊA BẠ<br /> NĂM MINH MẠNG THỨ 17 (1836)<br /> <br /> Bùi Hoàng Tân1<br /> 1<br /> Trường Đại học Cần Thơ<br /> <br /> Thông tin chung: ABSTRACT<br /> Ngày nhận bài: 06/02/2018<br /> Ngày nhận kết quả bình duyệt: Ha Chau district, Ha Tien province in the first half of the 19th century was<br /> 08/05/2018 one of the new lands to be explored. Although the land area is quite large,<br /> Ngày chấp nhận đăng: but not much for the cultivation. Basically, the ownership of land in Ha Chau<br /> 06/2018 district is small and fragmented, not similar to other areas in the South of<br /> Title: Vietnam. Basing on the data shown in the cadastral register of Ha Chau<br /> Towards the land ownership in district, the author has analyzed and highlighted some basic issues of land<br /> Ha Chau district, Ha Tien ownership in Ha Chau. In addition, this paper would give a recommendation<br /> province in the first half of the<br /> for further studying on the national sovereignty in the Southwest frontier in<br /> nineteenth century through<br /> cadastral registers of Minh the relationship between Dai Nam and Chan Lap in the nineteenth century<br /> Mang dynasty 17 (1836)<br /> TÓM TẮT<br /> Keywords:<br /> Ha Chau district, Ha Tien Huyện Hà Châu, tỉnh Hà Tiên ở nửa đầu thế kỉ XIX là một trong những vùng<br /> province, the land ownership, đất mới được khai phá, tuy có diện tích lãnh thổ tương đối lớn nhưng diện<br /> cadastral register, Minh Mang tích canh tác thực sự chưa nhiều. Về cơ bản, sở hữu ruộng đất ở huyện Hà<br /> dynasty<br /> Châu với quy mô nhỏ lẻ và manh mún, chưa đạt mức độ cực đại về tập trung<br /> Từ khóa: ruộng đất như các khu vực khác ở Nam bộ. Thông qua khai thác và nghiên<br /> Huyện Hà Châu, tỉnh Hà Tiên, cứu nguồn tư liệu địa bạ huyện Hà Châu, tác giả đã phân tích và làm nổi bật<br /> sở hữu ruộng đất, địa bạ,<br /> một số vấn đề cơ bản về sở hữu ruộng đất nơi đây. Ngoài ra, bài viết còn có<br /> Minh Mạng<br /> ý nghĩa trong việc gợi mở nghiên cứu mới về xác lập chủ quyền lãnh thổ ở<br /> vùng biên giới Tây Nam trong mối quan hệ giữa Đại Nam và Chân Lạp ở thế<br /> kỉ XIX.<br /> <br /> <br /> 1. GIỚI THIỆU nhiên và tình hình chính trị - xã hội. Do vậy,<br /> Sở hữu ruộng đất là một trong những nội dung nghiên cứu về vấn đề sở hữu ruộng đất ở huyện<br /> quan trọng của nghiên cứu lịch sử Việt Nam, bởi Hà Châu nửa đầu thế kỷ XIX không chỉ nhằm làm<br /> nó chứa đựng những biến động to lớn và sâu sắc rõ những đặc điểm trong sở hữu ruộng đất ở một<br /> về sự phát triển lãnh thổ và văn hóa dân tộc. Đối địa phương Nam bộ mà còn góp phần làm sáng tỏ<br /> với huyện Hà Châu, tỉnh Hà Tiên ở nửa đầu thế những điểm nổi bật của quá trình quản lý và thực<br /> kỷ XIX có nhiều điểm khác biệt trong sở hữu thi chủ quyền lãnh thổ của triều Nguyễn ở vùng<br /> ruộng đất do những đặc trưng về điều kiện tự đất biên giới trọng yếu này.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 23<br /> An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36<br /> <br /> 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG Nguyễn, 2006, Đại Nam thực lục [ĐNTL], t. 2, tr.<br /> PHÁP NGHIÊN CỨU 462). Năm 1826 cho sáp nhập huyện Hà Tiên vào<br /> Bằng phương pháp nghiên cứu lịch sử kết hợp phủ An Biên. Năm 1832, đổi tên phủ An Biên<br /> phương pháp logic, tác giả đã tiếp cận, đối chiếu thành phủ Khai Biên đồng thời đổi tên huyện Hà<br /> và phân tích nguồn sử liệu triều Nguyễn và tư liệu Tiên thành huyện Hà Châu và giao cho phủ Khai<br /> địa bạ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I – Hà Nội, Biên quản lý “tỉnh Hà Tiên: thống trị phủ Khai Biên<br /> đặc biệt là 44 đơn vị địa bạ huyện Hà Châu[1] và 3 huyện Hà Châu, Long Xuyên, Kiên Giang. Phủ<br /> được lập vào năm Minh Mạng thứ 17. Thông qua Khai Biên nguyên là phủ An Biên đổi ra; huyện Hà<br /> đó, từng bước cung cấp các luận cứ khoa học để Châu nguyên là huyện Hà Tiên đổi ra” (Quốc Sử<br /> đem lại kết quả nghiên cứu học thuật mang tính quán triều Nguyễn, 2006, ĐNTL, t. 3, tr. 394).<br /> khách quan nhất. Địa danh Hà Châu được ghi nhận lầu đầu tiên trong<br /> 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN sử sách triều Nguyễn năm 1832. Căn cứ vào ghi<br /> chép của Đại Nam nhất thống chí (ĐNNTC), địa<br /> 3.1 Khái quát về huyện Hà Châu nửa đầu thế<br /> giới của huyện Hà Châu ở nửa đầu thế kỷ XIX<br /> kỷ XIX<br /> “huyện Hà Châu: đông tây cách nhau 27 dặm, nam<br /> Trước thế kỷ XIX, vùng đất Hà Châu thuộc địa bắc cách nhau 42 dặm, phía đông đến địa giới huyện<br /> phận của vương quốc Phù Nam, sau khi vương Hà Âm tỉnh An Giang 25 dặm, phía tây giáp biển 2<br /> quốc Phù Nam sụp đổ đã bị người Chân Lạp tiếp dặm, phía nam giáp địa giới huyện Kiên Giang 22<br /> quản. Song, họ chưa thực sự làm chủ và tổ chức dặm, phía bắc đến địa giới Cao Miên 20 dặm”<br /> hoạt động canh tác ở nơi này và cơ bản đây vẫn là (Quốc Sử quán triều Nguyễn, 2006, ĐNNTC, t. 5,<br /> vùng đất hoang. Đến khoảng đầu thế kỷ XVIII, tr. 8). Kết hợp với ghi chép trong 44 tập địa bạ<br /> Mạc Cửu và dòng họ Mạc đến định cư và mở huyện Hà Châu, có thể xác định địa hạt quản lý của<br /> mang đất Hà Tiên, Rạch Giá, Cà Mau và Phú huyện Hà Châu gồm 5 tổng: Hà Nhuận, Hà Thanh,<br /> Quốc, bao gồm cả phần đất đai thuộc Hà Châu sau Nhuận Đức, Thanh Di và Phú Quốc, trong đó Phú<br /> này. Năm 1708, Mạc Cửu đã quy phục chính Quốc là tổng hải đảo duy nhất. Năm 1867, khi<br /> quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Từ đây toàn Pháp chiếm 3 tỉnh Nam Kỳ, đồng nghĩa đất đai ở<br /> bộ đất đai ở trấn Hà Tiên, bao gồm cả phần đất Hà Hà Châu nằm trong tay thực dân Pháp.<br /> Châu chính thức thuộc chủ quyền của Việt Nam<br /> Căn cứ vào cách xác định “tứ cận giáp giới” kết hợp<br /> dưới thời chúa Nguyễn. Cuối thế kỷ XVIII, dưới<br /> với bản đồ [2], địa phận huyện Hà Châu nửa đầu thế<br /> sự tác động từ tình hình bất ổn về chính trị trong<br /> kỷ XIX về cơ bản tương ứng với địa giới của thị<br /> nước, đặc biệt là cuộc nội chiến Tây Sơn với<br /> xã Hà Tiên, huyện Kiên Lương và huyện đảo Phú<br /> chính quyền chúa Nguyễn thì Hà Châu thuộc<br /> Quốc thuộc tỉnh Kiên Giang ngày nay; phần đất<br /> quyền kiểm soát của chính quyền Tây Sơn.<br /> các tổng Hà Nhuận và Nhuận Đức tương ứng với<br /> Đầu thế kỷ XIX, Nguyễn Ánh đã khôi phục lại địa giới các huyện Banteay Meas, Kampong Trach<br /> triều Nguyễn, khi đó đã “lấy Mạc Tử Thiêm làm của tỉnh Kampot, huyện Kiri Vong của tỉnh Takéo<br /> cai Cai cơ trấn thủ trấn Hà Tiên, lại ở trấn ấy. Sai và thành phố Keb thuộc lãnh thổ Campuchia hiện<br /> gọi nhân dân về ở, tha bớt cho thuế đinh điền” nay.<br /> (Trịnh Hoài Đức, 1998, tr. 135). Như vậy, dưới<br /> 3.2 Sở hữu ruộng đất ở huyện Hà Châu, tỉnh<br /> thời vua Gia Long, đất Hà Châu vẫn thuộc quyền<br /> Hà Tiên nửa đầu thế kỷ XIX<br /> quản lý của trấn Hà Tiên. Năm 1825, vua Minh<br /> Mạng cho bỏ cấp đạo và đặt đơn vị hành chính 3.2.1 Ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước<br /> huyện Hà Tiên quản lý hai tổng Hà Thanh và tổng * Về phân loại<br /> Hà Nhuận “bắt đầu đặt huyện Hà Tiên, lĩnh 2 tổng<br /> (Hà Thanh và Hà Nhuận)” (Quốc Sử quán triều<br /> <br /> 24<br /> An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36<br /> <br /> Ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước ở huyện Hà canh, bản xã đồng canh. Công thổ chủ yếu là đất<br /> Châu bao gồm quan điền, quan thổ và công điền, dân cư “những dân cư, chỗ nào là đất hoang và gò<br /> công thổ. Trong đó: đống, trong sổ không ghi người nào trước đã nộp<br /> Quan điền, quan thổ là loại ruộng đất thuộc sở thuế thì liệt làm hạng đất dân cư, miễn thuế; nếu<br /> hữu công do nhà nước trực tiếp quản lý. Quan có chủ khai nhận, thì cho dân đánh giá, nộp thuế<br /> điền do các cơ binh đồn trú khai khẩn, chủ yếu là theo hạng đất công” (Quốc Sử quán triều Nguyễn,<br /> quan sơn điền. Quan thổ chủ yếu là đất trồng tiêu 2006, ĐNTL, t. 4, tr. 983).<br /> của tư nhân bị bỏ hoang. * Về diện tích<br /> Công điền, công thổ là ruộng đất thuộc sở hữu Qua thống kê 44 địa bạ huyện Hà Châu cho thấy,<br /> nhà nước được phân giao cho xã, thôn canh tác và diện tích ruộng đất công ở huyện Hà Châu là 158<br /> nộp thuế theo hạng ruộng đất công đã quy định. mẫu chiếm 21,48% tổng diện tích ruộng đất của<br /> Công điền được ghi trong địa bạ là bản thôn đồng huyện.<br /> Bảng 1. Thống kê diện tích ruộng đất công<br /> Đơn vị tính: mẫu. sào. thước. tấc [3]<br /> TT Tổng Tổng diện tích Ruộng đất công Tỉ lệ %<br /> 1 Hà Nhuận 48.7. 2.6 2.7. 1.5 5,56<br /> 2 Hà Thanh 255.2. 0.1 109.5. 7.1 42,93<br /> 3 Nhuận Đức 88.3.14.0 15.2. 2.7 17,22<br /> 4 Phú Quốc 17.3.11.3 11.3. 4.5 65,21<br /> 5 Thanh Di 329.0. 1.4 19.8. 9.5 6,04<br /> Tổng cộng 738.6.14.4 158.6.10.3 21,48<br /> Nguồn: Địa bạ huyện Hà Châu năm Minh Mạng thứ 17 (1836)<br /> Theo đó, tổng Hà Thanh có diện tích ruộng đất kỷ XIX tương ứng với các phần đất thuộc lãnh thổ<br /> công nhiều nhất huyện với hơn 109 mẫu. Tổng Hà Campuchia tiếp giáp với biên giới Việt Nam tại<br /> Thanh có vị trí tiếp giáp với sông Giang Thành thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang ngày nay, do điều<br /> nối liền đầm Đông Hồ và nhiều kênh rạch thông kiện tự nhiên ở khu vực này còn nhiều khó khăn<br /> ra biển nên việc khai khẩn đất đai của quân đồn nên việc thực hiện chính sách khai hoang của nhà<br /> trú dễ dàng hơn. Mặt khác, đây còn nơi đặt lỵ sở nước còn nhiều hạn chế. Mặt khác, tình hình xã<br /> của tỉnh Hà Tiên “trước kia tỉnh lỵ Hà Tiên ở xã hội nơi đây luôn xáo trộn, mãi đến năm 1836 phần<br /> Mỹ Đức huyện Hà Châu, năm Minh Mệnh thứ 9 lớn các xã thôn mới được tái lập và đo đạc ruộng<br /> dời đến thủ sở Giang Thành, năm thứ 14 lại dời về đất. Vì thế, quá trình khai hoang cũng gần như<br /> chỗ cũ” (Quốc Sử quán triều Nguyễn, 2006, phải thực hiện lại từ đầu.<br /> ĐNNTC, t. 5, tr. 12). Do vậy, dân cư tập trung Riêng tổng Phú Quốc, diện tích ruộng đất công,<br /> sinh sống đông đúc ở khu vực trung tâm, căn cứ chủ yếu là công thổ chiếm tỉ lệ lớn so với tổng<br /> theo nguyên tắc lập công thổ thì đất dân cư ở diện tích ruộng đất của tổng. Phú Quốc là hải đảo<br /> huyện Hà Châu được xác định là công thổ. Vì thế, nên thuận lợi cho đánh bắt thủy hải sản và là nơi<br /> tổng Hà Thanh có diện tích ruộng đất công lớn diễn ra các hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hóa.<br /> hơn so với các tổng còn lại của huyện Hà Châu. Chính vì thế, phần lớn đất đai của tổng Phú Quốc<br /> Trong khi đó, tổng Hà Nhuận có diện tích ruộng là đất dân cư được xếp vào hạng công thổ.<br /> đất công nhỏ nhất huyện Hà Châu với khoảng 2 Cơ cấu diện tích giữa quan điền, quan thổ và công<br /> mẫu. Địa phận của tổng Hà Nhuận ở nửa đầu thế điền, công thổ, như sau:<br /> <br /> 25<br /> An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36<br /> <br /> Bảng 2. So sánh diện tích quan điền, quan thổ và công điền, công thổ ở huyện Hà Châu<br /> Đơn vị tính: mẫu. sào. thước. tấc<br /> TT Tổng Quan điền, quan thổ Tỉ lệ % Công điền, công thổ Tỉ lệ %<br /> 1 Hà Nhuận - 0 2.7. 1.5 5,56<br /> 2 Hà Thanh 74.9. 6.9 29,37 34.6. 0.2 13,56<br /> 3 Nhuận Đức 15.2. 2.7 17,22 - 0<br /> 4 Phú Quốc - 0 11.3. 4.5 65,21<br /> 5 Thanh Di 18.0. 1.9 5,48 1.8. 7.6 0,56<br /> Tổng cộng 108.1.11.5 14,64 50.4.13.8 6,84<br /> Nguồn: Địa bạ huyện Hà Châu năm Minh Mạng thứ 17 (1836)<br /> Theo đó, huyện Hà Châu chỉ có 3 tổng Hà Thanh, và thóc giống để khai khẩn. Vua y cho” (Quốc Sử<br /> Nhuận Đức và Thanh Di có diện tích quan điền, quán triều Nguyễn, 2006, ĐNTL, t. 4, tr. 562). Do<br /> quan thổ nhưng chiếm tỉ lệ nhỏ so với tổng diện vậy, diện tích ruộng đất thuộc loại quan điền,<br /> tích các loại ruộng đất của huyện. Trong đó, tổng quan thổ ghi nhận trong địa bạ huyện Hà Châu là<br /> Hà Thanh có diện tích quan điền, quan thổ khá khá ít so với các loại ruộng đất khác.<br /> lớn và chiếm tỉ lệ cao (69,28%) so với tổng diện Về cơ bản, quan điền có diện tích và tỉ lệ lớn hơn<br /> tích quan điền, quan thổ ở huyện Hà Châu. Mặc so với quan thổ, tỉ lệ phân phối giữa quan điền và<br /> dù tổng Thanh Di có diện tích quan điền, quan thổ quan thổ không đều ở các tổng và các xã, thôn.<br /> rất nhỏ và chỉ chiếm tỉ lệ 5,48% so với tổng diện Trong đó, diện tích quan điền chỉ có ở 2 tổng Hà<br /> tích ruộng đất của tổng (329.0.1.4/18.0.1.9) nhưng Thanh và Thanh Di, diện tích quan thổ tuy nhỏ<br /> nhìn tổng thể thì tổng Nhuận Đức mới thực sự có hơn nhưng được phân phối ở 3 tổng Hà Thanh,<br /> diện tích quan điền, quan thổ nhỏ nhất và chỉ Nhuận Đức và Thanh Di. Diện tích quan điền giữa<br /> chiếm tỉ lệ 14,07% trong tổng diện tích quan điền, 2 tổng Hà Thanh và Thanh Di chênh lệch hơn 51<br /> quan thổ ở huyện Hà Châu. So sánh với các loại mẫu, trong khi đó diện tích quan thổ ở các tổng<br /> ruộng đất khác ở huyện Hà Châu thì quan điền, không vượt quá 10 mẫu. Tuy nhiên trong phân<br /> quan thổ có diện tích là 108.1.11.5, chỉ hơn 1/10 phối diện tích quan thổ ở các xã, thôn có sự chênh<br /> tổng diện tích ruộng đất ở huyện. lệch khá lớn. Ví dụ, quan thổ ở thôn Tư Nghĩa<br /> Qua đó phản ánh tình hình khai khẩn ruộng đất ở thuộc tổng Thanh Di chỉ có 2 sào, trong khi đó<br /> huyện Hà Châu do các cơ binh thực hiện chưa đạt thôn Hòa Luật thuộc tổng Nhuận Đức có đến 15<br /> tỉ lệ cao do điều kiện tự nhiên nơi đây còn nhiều mẫu quan thổ. Sự chênh lệch về diện tích phụ<br /> khó khăn và hạn chế về nguồn nhân lực. Chủ yếu thuộc vào vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ở các<br /> là khai phá đất đai xung quanh lỵ sở Hà Tiên và khu vực đất đai và sự tác động bởi các điều kiện<br /> khu vực đóng quân “Trần Trấn chọn được vùng xã hội ở huyện Hà Châu nửa đầu thế kỷ XIX.<br /> thôn Bình An, xã Mỹ Đức (thuộc huyện Hà Châu, Xét về diện tích công điền và công thổ thì diện<br /> gần đồn Chu Nham), đều có đất bỏ không, có thể tích công thổ tuy có lớn hơn so với công điền<br /> xây cất được, bèn liệu địa thế rộng, hẹp, xin vát nhưng vẫn chiếm tỉ lệ rất nhỏ (6,84%) so với tổng<br /> lính cơ Hà Tiên (nguyên là dân Phiên vốn quen diện tích ruộng đất huyện Hà Châu. Trong đó,<br /> thủy thổ) 50 người giữ đồn Chu Nham, 100 người tổng Hà Thanh là nơi có diện tích công thổ nhiều<br /> đến chỗ gần đó cày cấy ở đồn điền Bình An: hễ nhất huyện, do tổng này có vị trí tiếp giáp với<br /> khi việc làm ruộng đã rồi, thì lại luyện tập thao sông Giang Thành nối liền đầm Đông Hồ và nhiều<br /> diễn. Lại chiêu mộ dân nghèo ở hai huyện Kiên kênh rạch thông ra biển nên việc khai khẩn đất đai<br /> Giang, Hà Châu, cấp cho trâu cày, đồ làm ruộng dễ dàng hơn. Và đây còn là nơi đặt lỵ sở của tỉnh<br /> <br /> 26<br /> An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36<br /> <br /> Hà Tiên “trước kia tỉnh lỵ Hà Tiên ở xã Mỹ Đức (Phạm Văn Sơn, 1961, q. IV, tr. 365). Vì thế,<br /> huyện Hà Châu, năm Minh Mệnh thứ 9 dời đến tình hình xã hội luôn xáo trộn, mãi đến năm<br /> thủ sở Giang Thành, năm thứ 14 lại dời về chỗ cũ, 1836 thì phần lớn là các xã thôn mới được tái<br /> năm thứ 15 xây bảo Trấn Biên, nhân lấy làm tỉnh lập.<br /> lỵ. Lỵ sở phủ An Biên ở địa phận thôn Mỹ Đức - Xã hội ở Hà Châu với thành phần chủ yếu là<br /> huyện Hà Châu, là huyện kiêm lý của phủ, dựng thương nhân và tạo nên xã hội mang tính chất<br /> từ năm Minh Mệnh thứ 15” (Quốc Sử quán triều không điển hình. Do vậy, nông nghiệp không<br /> Nguyễn, 2006, ĐNNTC, t. 5, tr. 12). Do vậy, dân phải là kinh tế trọng tâm thay vào đó là kinh tế<br /> cư tập trung sinh sống ở khu vực trung tâm khá thương nghiệp mang tính chủ đạo, đặc biệt<br /> đông đúc nhằm thuận tiện cho hoạt động kinh tế. thương mại biển. Trải qua nhiều biến động<br /> Căn cứ vào nguyên tắc lập công thổ thì tổng Hà chính trị nên thương nghiệp ở đây đã bị suy<br /> Thanh có diện tích và tỉ lệ diện tích công thổ cao tàn nhưng về cơ bản nơi đây vẫn có ưu thế<br /> hơn so với các tổng còn lại. Tổng Thanh Di có mạnh so với nông nghiệp.<br /> diện tích ruộng đất lớn nhưng diện tích công thổ ít Vì thế, so với tình hình chung ở Nam Kỳ thì công<br /> nhất huyện. Do dân cư còn thưa thớt và nơi đây điền, công thổ tỉnh Hà Tiên có tỉ lệ cao 77,10%<br /> không thuận tiện cho dân cư tập trung buôn bán, (Nguyễn Đình Đầu, 1992, tr. 150). Tỉ lệ này do<br /> phần lớn đất đai chủ yếu để canh tác nông nghiệp. chịu ảnh hưởng bởi diện tích công điền ở huyện<br /> Riêng tổng Phú Quốc, do điều kiện địa hình hải Kiên Giang và Long Xuyên (Nguyễn Đình Đầu,<br /> đảo thuận lợi cho đánh bắt thủy hải sản và là nơi 1994, tr. 228, 257). Vì đây là những vùng đất<br /> diễn ra các hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hóa chưa được khai phá nhiều và đất đai tương đối<br /> nên phần lớn đất đai thuộc hạng công thổ. màu mỡ hơn so với huyện Hà Châu nên nhà nước<br /> Công điền, công thổ có diện tích ít nhất trong tổng đã hỗ trợ nhân dân cùng khai phá nên chính sách<br /> diện tích ruộng đất canh tác ở huyện Hà Châu. công điền ở hai huyện này dễ dàng thực hiện hơn.<br /> Qua đó cho thấy, việc thực hiện chính sách công Trong khi đó, ở huyện Hà Châu vốn có nền tảng<br /> điền ở huyện Hà Châu còn gặp nhiều trở ngại vì: phát triển kinh tế hàng hóa nên đã kích thích năng<br /> - Phần lớn ruộng đất ở Hà Châu đã được khai suất lao động, tính năng động của con người và xã<br /> khẩn và canh tác từ đầu thế kỷ XVIII dưới thời hội vùng đất này. Việc thực hiện chính sách công<br /> Mạc Cửu và dân cư nơi đây chủ yếu là các điền, công thổ đối với ruộng đất ở huyện Hà Châu<br /> nhóm nhập cư người Hoa từ Trung Hoa, nhóm xuất phát ý muốn chủ quan của nhà nước. Điều<br /> người Việt từ miền Trung, nhóm người Khmer này rất khó để thích ứng với tình hình địa phương<br /> từ Chân Lạp, thông thường họ di cư theo hộ và trở thành chính sách lạc hậu trong quản lý<br /> gia đình. Do vậy, họ chỉ khai hoang đất đai sẵn ruộng đất của triều Nguyễn trong bối cảnh mới.<br /> có và mặc nhiên thuộc quyền sở hữu của họ. Những yếu tố trên đã góp phần lý giải vì sao diện<br /> Do vậy, khi triều Nguyễn đo đạc lại ruộng đất tích công điền, công thổ ở huyện Hà Châu rất nhỏ<br /> đã gặp khó khăn trong việc thực hiện chính so với diện tích ruộng đất canh tác của huyện.<br /> sách công điền, công thổ ở Hà Châu. Về cơ bản, diện tích ruộng đất công ở huyện Hà<br /> - Đất đai ở huyện Hà Châu nhiều nhưng dân cư Châu được ghi nhận trong địa bạ là số liệu cuộc<br /> còn thưa thớt và không ổn định bởi đây là tổng kiểm kê ruộng đất năm 1836. Công cuộc<br /> “một địa phương bị khói lửa tàn hại, dân khai phá đất hoang đối với nơi đây vẫn tiếp diễn<br /> chúng điêu đứng quá nhiều từ năm 1771” trong những năm sau đó. Do vậy, diện tích ruộng<br /> (Phạm Văn Sơn, 1961, q. IV, tr. 255) và đặc đất công sẽ có sự gia tăng, đặc biệt từ năm 1850<br /> biệt là sự quấy nhiễu thường xuyên của quân đến năm 1866, triều đình đã có nhiều biện pháp<br /> Xiêm “năm 1833, thủy quân Xiêm La với 100 tích cực thúc đẩy quá trình khai phá và định cư ở<br /> chiến thuyền từ biển xông vào Hà Tiên…” vùng này “năm 1866, nha Đinh điền An Giang,<br /> <br /> <br /> 27<br /> An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36<br /> <br /> Hà Tiên cho biết đã chiêu mộ được 1646 người, Tổng Phú Quốc có 9/10 thôn có diện tích công thổ<br /> khai khẩn được 8333 mẫu đất và thành lập được chiếm 90% số thôn của tổng. Bình quân diện tích<br /> 149 thôn ấp” (Lê Văn Năm, 2000, tr. 56). công thổ là 1.2 mẫu/thôn.<br /> * Về quy mô sở hữu Tổng Thanh Di có 1/11 thôn có diện tích công thổ<br /> chiếm 9,09% số thôn của tổng. Bình quân diện<br /> Quy mô sở hữu ruộng đất công được xem xét ở<br /> tích công thổ là 1.8 mẫu/thôn.<br /> từng loại hình ruộng đất. Trong đó:<br /> Theo đó, mức bình quân sở hữu công thổ ở huyện<br /> Quan điền là 75 mẫu chia làm 3 sở giao cho các<br /> Hà Châu là 1.5mẫu/thôn.<br /> cơ binh canh tác ở 2 thôn Bình An thuộc tổng Hà<br /> Thanh và thôn Sa Kỳ thuộc tổng Thanh Di, nộp 3.2.2 Ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân<br /> kho hằng năm khoảng 1725 thăng thóc tương * Khát quát về ruộng đất tư hữu<br /> đương 4657,5 kg thóc[4], bình quân khoảng 62,1 Ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân là hình thức sở<br /> kg thóc/mẫu. Mức thuế đó phản ánh quy mô nhỏ hữu và sử dụng đối với ruộng đất canh tác thuộc<br /> về sở hữu diện tích quan điền. về tư nhân được ghi nhận trong số địa bạ của xã,<br /> Quan thổ có tổng cộng 34 sở trồng tiêu vốn thuộc thôn với tên gọi là tư điền, tư thổ để phân biệt với<br /> sở hữu của 30 chủ, bình quân khoảng 0,94 công điền, công thổ. Dưới triều Nguyễn, ruộng<br /> mẫu/người. Qua đó, thể hiện quy mô sở hữu quan đất tư chiếm số lượng lớn trong các loại ruộng đất<br /> thổ là nhỏ lẻ, đồng thời phản ánh quan thổ chủ ở Nam Kỳ, loại ruộng đất này được đo đạc và ghi<br /> yếu là chuyển đổi hình thức sở hữu đối với các sở chép khá kỹ trong địa bạ theo cấp hành chính tỉnh,<br /> đất vườn tiêu đã bị bỏ hoang. huyện, tổng, xã thôn. Đối với địa bạ Hà Châu thì<br /> Theo đó, huyện Hà Châu có 3 sở công điền tập không ghi cụ thể là tư điền, tư thổ mà chỉ ghi nhận<br /> trung ở tổng Hà Thanh với diện tích là 15.3.11.4 là một sở ruộng hoặc sở đất có diện tích là bao<br /> mẫu, bình quân diện tích sở hữu là 5 mẫu/sở. nhiêu mẫu. sào. thước. tấc, giáp giới theo tứ cận<br /> Kết quả thống kê phản ánh sự chênh lệch giữa các đông – tây – nam – bắc những đâu, do người bản<br /> xã, thôn sở hữu công thổ. Trong đó: thôn hoặc bản xã tên họ là gì được phân canh<br /> Tổng Hà Nhuận có 3/5 thôn có công thổ chiếm hoặc người địa phương khác phụ canh.<br /> 60% tổng số thôn của tổng. Bình quân diện tích * Diện tích sở hữu<br /> công thổ là 0.9 mẫu/thôn. Qua khảo sát 44 đơn vị địa bạ huyện Hà Châu,<br /> Tổng Hà Thanh có 10/11 thôn có công thổ chiếm tổng số diện tích ruộng đất tư và tỉ lệ so sánh được<br /> 90,91% số xã, thôn của tổng. Bình quân diện tích thống kê ở Bảng 3:<br /> công thổ là 1.9 mẫu/thôn.<br /> <br /> Bảng 3. Thống kê diện tích các loại ruộng đất ở huyện Hà Châu<br /> Đơn vị tính: mẫu. sào. thước. tấc<br /> TT Tổng Tổng diện tích Tỉ lệ % Tư điền, tư thổ Tỉ lệ %<br /> 1 Hà Nhuận 48.7. 2.6 100 46.0. 1.1 94,44<br /> 2 Hà Thanh 255.2. 0.1 100 145.6. 8.0 57,07<br /> 3 Nhuận Đức 88.3.14.0 100 73.1.11.3 82,78<br /> 4 Phú Quốc 17.3.11.3 100 6.0. 6.8 34,79<br /> 5 Thanh Di 329.0. 1.4 100 309.1. 6.9 93,96<br /> Tổng cộng 738.6.14.4 100 580.0. 4.1 78,52<br /> Nguồn: Địa bạ huyện Hà Châu năm Minh Mạng thứ 17 (1836)<br /> <br /> 28<br /> An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36<br /> <br /> Kết quả thống kê cho thấy, diện tích ruộng đất tư Đất tư có diện tích lớn hơn so với ruộng tư do đặc<br /> hữu ở huyện Hà Châu là 580.0.4.1 chiếm tỉ lệ điểm địa hình huyện Hà Châu là núi đồi tương đối<br /> 78,52% tổng diện tích ruộng đất. So sánh với diện cao và thổ nhưỡng nơi đây không đạt được phì<br /> tích hiện nay chỉ chiếm 0,18% tổng diện tích vùng nhiêu tốt nhất cho việc trồng lúa nước. Ngoại trừ<br /> Hà Tiên, Kiên Lương và Phú Quốc. Nếu so sánh một số khu vực trung tâm lỵ sở Hà Tiên và khu<br /> với diện tích ruộng đất tư ở Nam Kỳ thì ruộng đất vực quanh sông Giang Thành vẫn có thể trồng<br /> tư ở huyện Hà Châu rất nhỏ, ví dụ như: tổng Lợi lúa, chủ yếu là sơn điền nhờ vào nguồn nước lưu<br /> Trinh (Định Tường) là 17442.1 mẫu, tổng Hòa thông từ kênh Vĩnh Tế đến sông Giang Thành<br /> Lạc (Gia Định) là 23402.5 mẫu, tổng Bảo Ngãi “những vùng thuận tiện giao thông, ngoại thương,<br /> (Vĩnh Long) là 1164.4 mẫu, tổng An Thạnh (An gần nguồn nước ở thượng nguồn sông Hậu, hạ lưu<br /> Giang) là 642.9 mẫu… (Trần Thị Thu Lương, sông Tiền, giáp vịnh Thái Lan và dọ sông Cửu<br /> 1994, tr. 65). Long (Hà Tiên – Kiên Giang), Định Tường (Tiền<br /> Có sự khác biệt khi Hà Tiên là tỉnh có diện tích Giang), An Giang, Vĩnh Long (Cửu Long) là khu<br /> ruộng đất tư thấp nhất ở Nam Kỳ với 22,90% vực sầm uất nhất, lấy sản xuất lúa nước làm<br /> (Nguyễn Đình Đầu, 1992, tr. 122), ngược lại chính, vụ lúa nằm trọn trong mùa mưa, hoàn toàn<br /> huyện Hà Châu có tỉ lệ diện tích ruộng đất tư khá nhờ nước trời” (Kim Khôi, 1981, tr. 26). Điều này<br /> lớn với 78,52%. Điều này cho thấy, sự phát triển đã ảnh hưởng đến việc mở rộng diện tích canh tác<br /> của ruộng đất tư hữu ở Hà Châu do được khai phá nông nghiệp, đặc biệt là diện tích trồng lúa ở vùng<br /> và canh tác lâu đời hơn so với các khu vực khác này.<br /> của tỉnh Hà Tiên như huyện Long Xuyên, Kiên Xem xét cụ thể diện tích từng loại sở hữu ruộng<br /> Giang. Trong tổng diện tích ruộng đất tư thì diện và đất, nhận thấy có sự chênh lệch về tỉ lệ diện<br /> tích ruộng tư là 271.6.4.1 chiếm 36,77% và diện tích ruộng tư và đất tư giữa các tổng ở huyện Hà<br /> tích đất tư là 308.4.0.0 chiếm 41,75% trong tổng Châu (Bảng 4):<br /> diện tích ruộng đất ở huyện Hà Châu.<br /> <br /> Bảng 4. Thống kê diện tích ruộng đất tư ở huyện Hà Châu<br /> Đơn vị tính: mẫu. sào. thước. tấc<br /> TT Tổng Ruộng tư Tỉ lệ % Đất tư Tỉ lệ %<br /> 1 Hà Nhuận 8.9. 5.0 3,29 37.0.11.1 12,02<br /> 2 Hà Thanh 10.6. 1.5 3,90 135.0. 6.5 43,79<br /> 3 Nhuận Đức 56.4. 1.3 20,77 16.7.10.0 5,44<br /> 4 Phú Quốc - 0 6.0. 6.8 1,96<br /> 5 Thanh Di 195.6.11.3 72,04 113.4.10.6 36,79<br /> Tổng cộng 271.6. 4.1 100 308.4. 0.0 100<br /> Nguồn: Địa bạ huyện Hà Châu năm Minh Mạng thứ 17 (1836)<br /> Về cơ bản, giữa các tổng thuộc huyện Hà Châu có ruộng tư giữa các tổng có sự chênh lệch nhất định<br /> sự khác nhau trong cơ cấu diện tích ruộng tư và tùy thuộc vào điều kiện đất đai.<br /> đất tư đã tạo ra sự chênh lệch trong tỉ lệ diện tích Trong 5 tổng, chỉ duy nhất tổng Phú Quốc không<br /> ruộng tư và tỉ lệ diện tích đất tư. Diện tích ruộng có diện tích ruộng tư và diện tích đất tư nhỏ do<br /> đất tư ở huyện Hà Châu có 271.6.4.1 mẫu ruộng đặc điểm địa hình hải đảo. Tổng Thanh Di là tổng<br /> tư và 308.4.0.0 mẫu đất tư. Việc phân bố diện tích có diện tích ruộng tư nhiều nhất và chiếm tỉ lệ<br /> <br /> <br /> 29<br /> An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36<br /> <br /> diện tích ruộng tư lớn nhất huyện Hà Châu. Bởi * Cách thức sở hữu<br /> tổng Thanh Di thuộc khu vực tương ứng với phần Cách thức sở hữu ruộng đất tư ở Nam Kỳ bao<br /> lớn đất liền có địa hình tương đối bằng phẳng nằm gồm sở hữu đơn chủ và sở hữu đa chủ. Theo đó,<br /> trong nội địa của huyện Kiên Lương ngày nay, sở hữu đơn chủ là hình thức sở hữu do một cá<br /> với điều thuận lợi về nguồn nước đặc biệt là tiếp nhân đứng tên trên một hoặc nhiều diện tích ruộng<br /> giáp với sông Giang Thành và kênh Vĩnh Tế. đất khác nhau; sở hữu đa chủ hay đồng sở hữu là<br /> Tổng Hà Nhuận tương ứng với phần đất nhỏ hẹp hình thức có ít nhất hai hay nhiều người cùng<br /> nằm giáp biên giới giữa Việt Nam và Campuchia đứng tên sở hữu trên một diện tích ruộng đất.<br /> ngày nay, do địa hình bị chia cắt với nhiều núi đồi Khảo sát địa bạ huyện Hà Châu cho thấy, sở hữu<br /> nên đất đai không thuận lợi cho canh tác nông đơn chủ là phổ biến nơi đây và không có hiện<br /> nghiệp. Vì thế, tổng Hà Nhuận có diện tích ruộng tượng đồng sở hữu như các vùng khác ở Nam Kỳ<br /> tư ít nhất huyện Hà Châu. là vì:<br /> Trong khi đó, diện tích đất tư được phân bố hầu - Hà Châu là vùng đất biên giới, chịu nhiều biến<br /> khắp 5 tổng thuộc huyện Hà Châu, riêng tổng Hà động xã hội trong nước và sự tranh chấp của<br /> Thanh có diện tích đất tư với tỉ lệ lớn nhất. Tổng các nước trong khu vực. Do vậy, tình hình dân<br /> Hà Thanh tương ứng với khu vực đất đai nằm rìa cư có sự biến động thường xuyên và đời sống<br /> Tây Bắc huyện Kiên Lương tiếp giáp với biên xã hội không ổn định.<br /> giới Camphuchia ngày nay và phía Tây Nam của - Hà Châu có địa hình chịu sự chia cắt khá mạnh<br /> tổng Hà Thanh tiếp giáp với vịnh Thuận Yên nằm bởi núi đồi và thiếu nguồn nước ngọt nên tình<br /> trong vùng biển Tây Nam Việt Nam ngày nay. hình khai khẩn và canh tác ruộng đất gặp<br /> Địa hình nơi đây tuy không bằng phẳng, đất đai nhiều khó khăn. Ngoài ra, dân số quá ít không<br /> chưa đủ màu mỡ để trồng lúa nhưng có điều kiện đủ lực lượng khai khẩn đất hoang nên chưa thể<br /> thuận lợi để trồng các loại cây nông nghiệp khác. tạo ra cách thức sở hữu đa chủ như các khu<br /> Nhìn chung, điều kiện tự nhiên ở huyện Hà Châu vực khác ở trung tâm đồng bằng Nam bộ, mà<br /> còn nhiều khó khăn cho canh tác nông nghiệp, đặc chủ yếu là sở hữu đơn chủ nhỏ lẻ đối với<br /> biệt là trồng lúa nước nhưng phần lớn diện tích những nơi có điều kiện thuận lợi trong khẩn<br /> đất đai đã khai khẩn ở huyện Hà Châu đều được hoang và canh tác.<br /> trồng trọt một số loại cây nông sản nhất định. Đặc * Quy mô sở hữu<br /> biệt, nông sản ở huyện Hà Châu nổi tiếng với một<br /> Sở hữu ruộng đất theo số lượng chủ sở hữu:<br /> số sản phẩm như hồ tiêu, dâu, cau, trầu và làm<br /> muối, nhất là hồ tiêu chỉ trồng ở Hà Châu đã tạo Ruộng đất tư ở huyện Hà Châu thuộc về 184 chủ<br /> nên đặc trưng riêng biệt của nông sản vùng này. sở hữu ruộng tư và 214 chủ sở hữu đất tư.<br /> <br /> Bảng 5. Phân loại số lượng chủ sở hữu ruộng tư và đất tư ở huyện Hà Châu<br /> Đơn vị tính: người<br /> Ruộng tư Đất tư<br /> Số lượng chủ sở hữu Số lượng chủ sở hữu<br /> TT Tổng<br /> 1–5 5 – 10 10 – 15 1–5 5 – 10 10 – 15<br /> < 1 mẫu < 1 mẫu<br /> mẫu mẫu mẫu mẫu mẫu mẫu<br /> 1 Hà Nhuận 5 5 - - 32 11 - -<br /> 2 Hà Thanh 4 1 1 - 37 40 3 -<br /> <br /> <br /> <br /> 30<br /> An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36<br /> <br /> Ruộng tư Đất tư<br /> Số lượng chủ sở hữu Số lượng chủ sở hữu<br /> TT Tổng<br /> 1–5 5 – 10 10 – 15 1–5 5 – 10 10 – 15<br /> < 1 mẫu < 1 mẫu<br /> mẫu mẫu mẫu mẫu mẫu mẫu<br /> 3 Nhuận Đức 32 18 1 - 10 4 1 -<br /> 4 Phú Quốc - - - - 4 3 - -<br /> 5 Thanh Di 58 53 4 2 38 26 4 1<br /> Tổng cộng 99 77 6 2 121 84 8 1<br /> Nguồn: Địa bạ huyện Hà Châu năm Minh Mạng thứ 17 (1836)<br /> Theo đó, mức sở hữu dưới 1 mẫu có 99 chủ sở với quy mô từ 5 mẫu trở lên và hầu như không có<br /> hữu ruộng tư và 121 chủ sở hữu đất tư; mức sở cá nhân nào sở hữu trên 15 mẫu ruộng đất. Mức<br /> hữu từ 1 mẫu đến 5 mẫu có 77 chủ sở hữu ruộng bình quân sở hữu ruộng đất tư ở Hà Châu tuy có<br /> tư và 84 chủ sở hữu đất tư; mức sở hữu từ 5 mẫu sự khác biệt giữa các tổng nhưng điểm chung là<br /> đến 10 mẫu có 6 chủ sở hữu ruộng tư và 8 chủ sở sở hữu dưới 2 mẫu, trong đó mức bình quân cao<br /> hữu đất tư; mức sở hữu từ 10 mẫu đến 15 mẫu có nhất là tổng Hà Thanh và nhỏ nhất là tổng Phú<br /> 2 chủ sở hữu ruộng tư và 1 chủ sở hữu đất tư. Sở Quốc. Sở hữu ruộng đất tư ở huyện Hà Châu<br /> hữu bình quân ruộng đất tư ở huyện Hà Châu không lớn như các khu vực khác ở Nam Kỳ lục<br /> khoảng 1,45 mẫu/chủ và mỗi chủ sở hữu 1,2 sở tỉnh do “điều kiện đất đai không thuận lợi cho<br /> ruộng đất tư. Bình quân sở hữu ruộng tư là 1,47 nông nghiệp nên diện tích khai phá vùng Hà Tiên<br /> mẫu/chủ, bình quân sở hữu đất tư là 1,44 thật sự không nhiều. Đến đầu thế kỷ XIX, có thể<br /> mẫu/chủ. Trong đó: người dân chỉ mới khai phá trồng trọt được ở<br /> - Tổng Hà Nhuận: bình quân sở hữu ruộng đất quanh thị trấn Hà Tiên và dọc rạch Giang Thành”<br /> tư là 0,87 mẫu/chủ, trong đó bình quân sở hữu (Lê Văn Năm, 2000, tr. 52).<br /> ruộng tư là 0,89 mẫu/chủ, bình quân sở hữu Nhìn chung, quy mô sở hữu ruộng đất của tư nhân<br /> đất tư là 0,86 mẫu/chủ. còn nhỏ lẻ và xu hướng tập trung ruộng đất vào<br /> - Tổng Hà Thanh: bình quân sở hữu ruộng đất tay các chủ sở hữu ở huyện Hà Châu chưa đạt<br /> tư là 1,7 mẫu/chủ, trong đó bình quân sở hữu mức độ cao như các khu vực khác ở Nam Kỳ.<br /> ruộng tư là 1,77 mẫu/chủ, bình quân sở hữu Điều đó phản ánh thực trạng xã hội ở Hà Châu<br /> đất tư là 1,69 mẫu/chủ. chưa có sự phân cực giàu nghèo quá lớn như khu<br /> - Tổng Hà Nhuận: bình quân sở hữu ruộng đất vực đồng bằng trung tâm. Trường hợp ở tổng Hòa<br /> tư là 1,1 mẫu/chủ, trong đó bình quân sở hữu Lạc, huyện Tân Hòa, tỉnh Gia Định là một ví dụ<br /> ruộng tư là 1,1 mẫu/chủ, bình quân sở hữu đất điển hình về sự chênh lệch trong tư hữu ruộng đất:<br /> tư là 1,1 mẫu/chủ. có đến 98,8% diện tích ruộng đất nằm trong tay<br /> - Tổng Phú Quốc: bình quân sở hữu đất tư là người khá giả, những người sở hữu nhỏ chỉ còn<br /> 0,85 mẫu/chủ. 1,1% diện tích ruộng đất tư (Trần Thị Thu Lương,<br /> - Tổng Thanh Di: bình quân sở hữu ruộng đất tư 1994, tr. 139).<br /> là 1,66 mẫu/chủ, trong đó bình quân sở hữu Sở hữu ruộng đất theo giới tính:<br /> ruộng tư là 1,67 mẫu/chủ, bình quân sở hữu<br /> Toàn huyện Hà Châu có 10 chủ tư hữu ruộng đất<br /> đất tư là 1,64 mẫu/chủ.<br /> là nữ giới, tập trung ở 2 tổng Hà Thanh và Nhuận<br /> Huyện Hà Châu có khoảng 220 chủ sở hữu ruộng Đức.<br /> đất dưới 1 mẫu và chỉ số ít chủ sở hữu ruộng đất<br /> <br /> <br /> 31<br /> An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36<br /> <br /> Bảng 6. Bình quân sở hữu ruộng đất theo giới tính nữ<br /> Đơn vị tính: mẫu. sào. thước. tấc<br /> Tỉ lệ<br /> TT Tổng Tổng diện tích Số chủ Diện tích sở hữu Bình quân diện tích<br /> %<br /> 1 Hà Nhuận 46.0. 1.1 - - - -<br /> 2 Hà Thanh 145.6. 8.0 6 20.0.14.4 13,80 3.3. 3.6<br /> 3 Nhuận Đức 73.1.11.3 4 1.3.12.8 1,89 0.3. 2.8<br /> 4 Phú Quốc 6.0. 6.8 - - - -<br /> 5 Thanh Di 309.1. 6.9 - - - -<br /> Tổng cộng 580.0. 4.1 10 21.4.12.2 3,70 2.1. 4.1<br /> Nguồn: Địa bạ huyện Hà Châu năm Minh Mạng thứ 17 (1836)<br /> - Tổng Hà Thanh có 6 chủ sở hữu nữ chiếm hữu là nữ chiếm số lượng rất ít so với số lượng<br /> 60% số chủ nữ của huyện, diện tích ruộng đất chủ sở hữu là nam giới nhưng đã phản ánh một<br /> của chủ là nữ có 20.0.14.4 chiếm 13,80% diện góc độ khác về sự bình đẳng giữa nam và nữ<br /> tích ruộng đất tư, bình quân tư hữu ruộng đất trong việc tư hữu ruộng đất ở huyện Hà Châu,<br /> là 3,3 mẫu/chủ. tỉnh Hà Tiên nửa đầu thế kỷ XIX.<br /> - Tổng Nhuận Đức có 4 chủ sở hữu nữ chiếm Sở hữu ruộng đất theo chức dịch:<br /> 40% số chủ nữ của huyện, diện tích ruộng đất<br /> Chức dịch ở huyện Hà Châu bao gồm Cai tổng,<br /> của chủ là nữ có 1.3.12.8 chiếm 1,89% diện<br /> Xã trưởng, Thôn trưởng, Dịch mục và Tả bạ.<br /> tích ruộng đất tư, bình quân tư hữu ruộng đất<br /> Huyện có 35/87 chức dịch có ruộng đất tư chiếm<br /> là 0.3 mẫu/chủ.<br /> 40,23%.<br /> Mức bình quân chung về sở hữu ruộng đất của các<br /> chủ nữ ở huyện Hà Châu là rất nhỏ và số chủ sở<br /> Bảng 7. Bình quân sở hữu ruộng đất của chủ sở hữu là chức dịch<br /> Đơn vị tính: mẫu. sào. thước. tấc<br /> TT Tổng Tổng diện tích Số chủ Diện tích sở hữu Tỉ lệ % Bình quân diện tích<br /> 1 Hà Nhuận 46.0. 1.1 2 3.1. 6.5 6,83 1.5. 8.2<br /> 2 Hà Thanh 145.6. 8.0 2 3.8.13.8 2,67 1.9. 0.7<br /> 3 Nhuận Đức 73.1.11.3 12 17.8. 1.8 24,34 1.4. 8.4<br /> 4 Phú Quốc 6.0. 6.8 0 - 0 -<br /> 5 Thanh Di 309.1. 6.9 19 30.9.11.8 10,02 1.6. 2.7<br /> Tổng cộng 580.0. 4.1 35 55.8. 3.9 9,62 1.5. 9.5<br /> Nguồn: Địa bạ huyện Hà Châu năm Minh Mạng thứ 17 (1836)<br /> Theo đó, chức dịch tổng Phú Quốc không có thuộc tư hữu của chức dịch là 55.8.3.9 chiếm<br /> ruộng đất tư, tổng Hà Nhuận và tổng Hà Thanh có 9,62% diện tích ruộng đất tư của huyện và mức<br /> số lượng chức dịch ít nhất, tổng Thanh Di có số bình quân sở hữu ruộng đất là 1.5.9.5. Trong đó:<br /> lượng chức dịch nhiều nhất trong tổng số chức<br /> dịch có ruộng đất tư. Tổng diện tích ruộng đất<br /> <br /> 32<br /> An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36<br /> <br /> - Tổng Hà Nhuận: diện tích ruộng đất tư của 3.3 Một số nhận xét<br /> chức dịch là 3.1.6.5 chiếm 6,83% diện tích 3.3.1 Ruộng đất ở huyện Hà Châu có sự chênh<br /> ruộng đất tư của tổng, bình quân sở hữu ruộng lệch lớn trong phân phối<br /> đất của chức dịch là 1.5.8.2.<br /> Sở hữu ruộng đất ở huyện Hà Châu có sự chênh<br /> - Tổng Hà Thanh: diện tích ruộng đất tư của<br /> lệch về diện tích và tỉ lệ diện tích giữa các tổng và<br /> chức dịch là 3.8.13.8 chiếm 2,67% diện tích<br /> giữa các xã, thôn trong cùng tổng. Tổng sở hữu<br /> ruộng đất tư của tổng, bình quân sở hữu ruộng<br /> chưa đầy 20 mẫu ruộng đất, điển hình là tổng Phú<br /> đất của chức dịch là 1.9.0.7.<br /> Quốc trong khi đó có tổng sở hữu hàng trăm mẫu<br /> - Tổng Nhuận Đức: diện tích ruộng đất tư của<br /> ruộng đất như tổng Hà Thanh và tổng Thanh Di.<br /> chức dịch là 17.8.1.8 chiếm 24,34% diện tích<br /> Tình hình phân phối diện tích ruộng đất giữa các<br /> ruộng đất tư của tổng, bình quân sở hữu của<br /> xã, thôn cũng tương tự khi có chủ sở hữu từ 10<br /> chức dịch là 1.4.8.4.<br /> đến 15 mẫu, ngược lại có chủ chỉ canh tác từ 1<br /> - Tổng Thanh Di: diện tích ruộng đất tư của<br /> đến 2 sào ruộng đất.<br /> chức dịch là 30.9.11.8 chiếm 10,02% diện tích<br /> ruộng đất tư của tổng, bình quân sở hữu của Sự chênh lệch còn thể hiện ở cơ cấu diện tích giữa<br /> chức dịch là 1.6.2.7. các loại hình ruộng đất: diện tích quan điền, quan<br /> thổ; diện tích ruộng đất công và diện tích ruộng<br /> Số chức dịch ở huyện Hà Châu không có ruộng<br /> đất tư. Vì thế đã phản ánh được xu thế phát triển<br /> đất là 52/87 người chiếm 59,77% số chức dịch<br /> mạnh của tình hình tư hữu ruộng đất ở huyện Hà<br /> của huyện. Số chức dịch sở hữu dưới 1 mẫu có 13<br /> Châu nửa đầu thế kỷ XIX.<br /> chủ chiếm 14,94% và có tổng diện tích là<br /> 6.1.14.1. Số chức dịch sở hữu từ 1 mẫu đến 3 mẫu Sự chênh lệch còn được thể hiện trong phân phối<br /> có 19 chủ chiếm 21,84% và có tổng diện tích ruộng đất theo chủ sở hữu. Ngoài số ruộng đất<br /> 31.3.11.8 chiếm 56,21%. Số chức dịch sở hữu từ thuộc sở hữu nhà nước được phân canh cho các xã<br /> 3 mẫu đến 5 mẫu có 1 chủ chiếm 2,30% với diện dân canh tác theo quy định còn có ruộng đất tư<br /> tích là 4.4.3.0 chiếm 7,92%. Số chức dịch sở hữu của 398 chủ sở hữu. Trong đó, 184 chủ sở hữu<br /> từ 5 mẫu đến 10 mẫu có 2 chủ chiếm 2,30% với ruộng với tổng diện tích hơn 271 mẫu, 214 chủ sở<br /> tổng diện tích 13.8.5.0 chiếm 24,78% diện tích hữu đất với tổng diện tích hơn 308 mẫu và có sự<br /> ruộng đất của chức dịch ở huyện. chênh lệch về quy mô tư hữu ruộng và đất giữa<br /> các chủ sở hữu.<br /> Qua đó cho thấy, quy mô sở hữu của các chức<br /> dịch khoảng 3 mẫu chiếm số lượng lớn 32/35 chủ; Sự chênh lệch về sở hữu ruộng đất được thể hiện<br /> số chủ sở hữu diện tích ruộng đất từ 3 mẫu trở lên trong phân phối ruộng đất theo giới tính ở huyện<br /> chiếm số lượng ít. Trong khi đó, số chức dịch Hà Châu. Số chủ sở hữu là nữ có 10/398 chủ sở<br /> không có ruộng đất là 52/87 chủ, chiếm hơn 50% hữu tổng diện tích ruộng đất là 21/580 mẫu ruộng<br /> số chức dịch của huyện Hà Châu, riêng tổng Phú đất, trong khi đó chủ sở hữu là nam sở hữu diện<br /> Quốc có 20 chức dịch không có ruộng đất tư. tích là 559/580 mẫu ruộng đất. Điều đó cho thấy,<br /> Bình quân sở hữu ruộng đất của các chức dịch rất sự chênh lệch lớn về tình hình phân phối ruộng<br /> nhỏ, chỉ khoảng 1.5 mẫu/chủ tương đương với đất và quy mô sở hữu ruộng đất giữa nam và nữ ở<br /> mức bình quân sở hữu ruộng đất chung ở huyện huyện Hà Châu đồng thời phản ánh về vấn đề<br /> Hà Châu. Như vậy, quy mô sở hữu ruộng đất của bình đẳng giữa nam và nữ trong sở hữu ruộng đất<br /> bộ máy quản lý xã, thôn ở huyện Hà Châu có mức ở huyện Hà Châu nửa đầu thế kỷ XIX.<br /> sở hữu nhỏ. Họ chỉ là những người canh tác Sở hữu ruộng đất của bộ máy quản lý xã, thôn ở<br /> ruộng, chưa thể là tầng lớp đại địa chủ kiêm tính huyện Hà Châu còn cho thấy sự chênh lệch về<br /> ruộng đất như các khu vực khác ở Nam Kỳ. Vì thế diện tích và tỉ lệ diện tích ruộng đất tư hữu. Toàn<br /> đã tạo ra điểm khác biệt về tình hình sở hữu ruộng huyện có 87 chức dịch, trong đó 35/87 chức dịch<br /> đất ở huyện Hà Châu nửa đầu thế kỷ XIX. sở hữu 55/580 mẫu ruộng đất tư và số còn lại<br /> <br /> <br /> 33<br /> An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 20 (2), 23 – 36<br /> <br /> không có ruộng đất. Quy mô sở hữu của các chủ hữu ở huyện Hà Châu vẫn chiếm tỉ lệ cao hơn rất<br /> là chức dịch khoảng 1.5 mẫu/chủ. Qua đó đã phản nhiều so với ruộng đất thuộc sở hữu công.<br /> ánh, quy mô sở hữu nhỏ lẻ và manh mún đối với 3.3.3 Hình thức sở hữu ruộng đất mang tính<br /> ruộng đất của bộ máy quản lý xã, thôn ở huyện và đặc trưng là sở hữu đơn chủ<br /> họ chỉ là những người canh tác ruộng không hẳn<br /> Ở Nam Kỳ nửa đầu thế kỷ XIX, hai hình thức sở<br /> đã là đại địa chủ hay thuộc loại “cường hào cậy<br /> hữu song song là sở hữu đơn chủ và sở hữu đa<br /> mạnh, bá chiếm, người nghèo không đất cắm dùi”<br /> chủ đối với ruộng đất tư dần trở nên phổ biến, đặc<br /> (Quốc Sử quán triều Nguyễn, 2006, ĐNTL, t. 4, tr.<br /> biệt là sở hữu đa chủ - “sản phẩm của hoàn cảnh<br /> 915) như báo cáo của Kinh Lược sứ Trương Đăng<br /> hình thành và phát triển ruộng đất tư ở Nam bộ”<br /> Quế.<br /> (Trần Thị Thu Lương, 1994, tr. 209). Tuy nhiên, ở<br /> Nhìn chung, sự chênh lệch trong phân phối ruộng huyện Hà Châu thì ngược lại, sở hữu đơn chủ là<br /> đất là điều tất yếu vì phụ thuộc vào các yếu tố như phổ biến và là sản phẩm của điều kiện tự nhiên ở<br /> đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế, xã hội và vùng đất này.<br /> nguồn nhân lực ở huyện Hà Châu nửa đầu thế kỷ<br /> Huyện Hà Châu nằm trong khu vực thường xuyên<br /> XIX.<br /> xảy ra các tranh chấp giữa Xiêm, Chân Lạp và<br /> 3.3.2 Ruộng đất tư hữu chiếm ưu thế so với các Đại Nam nên tình hình xã hội khá phức tạp. Bên<br /> loại hình sở hữu ruộng đất công cạnh đó, điều kiện tự nhiên chủ yếu là địa hình bị<br /> Nửa đầu thế kỷ XIX, phần lớn đất đai tỉnh Hà chia cắt mạnh bởi núi đồi và ít sông ngòi, lại có cả<br /> Tiên nói chung chưa được khai khẩn nhiều và dân phần đất ở hải đảo. Những yếu tố ấy đã hạn chế<br /> cư hãy còn thưa thớt, đặc biệt là khu vực có địa rất lớn số lượng dân cư đến nơi đây khai khẩn<br /> hình thấp như huyện Kiên Giang và Long Xuyên. trong bối cảnh đất hoang hóa và rừng rậm còn khá<br /> Nhờ vào sự hỗ trợ của nhà nước nên diện tích nhiều. Vì vậy, việc khai hoang và canh tác nơi đây<br /> canh tác được mở rộng, đồng nghĩa với đó là cơ bản là vì sự tồn tại chứ không vì tham vọng<br /> ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước được xác lập. Vì làm giàu, do đó sở hữu đơn chủ đối với từng diện<br /> thế đã làm tăng tỉ lệ diện tích ruộng đất thuộc sở tích nhỏ là tất yếu. Điều này lý giải vì sao ở Hà<br /> hữu công ở tỉnh Hà Tiên cao nhất so với các tỉnh Châu không tồn tại sở hữu đa chủ nhiều như các<br /> khác ở Nam Kỳ. Tuy nhiên, có một thực tế trái khu vực đất đai trung tâm đồng bằng Nam bộ.<br /> ngược khi diện tích ruộng đất tư hữu ở huyện Hà 3.3.4 Quy mô sở hữu ruộng đất tư còn nhỏ lẻ,<br /> Châu là 580/738 mẫu chiếm 78,52% và ruộng đất mức độ tập trung về tư hữu ruộng đất<br /> công chỉ có 50/738 mẫu chiếm 6,84%, riêng chưa cao<br /> ruộng công chỉ có 15 mẫu (2,08%) và đất công là<br /> Huyện Hà Châu có nhiều khó khăn và cách xa<br /> 35 mẫu (4,75%). Tỉ lệ này phù hợp với xu thế<br /> trung tâm đồng bằng Nam bộ nên không là “vùng<br /> chung của tình hình sở hữu ruộng đất ở Nam Kỳ<br /> đất hứa” đối với những người có vật lực tìm đến<br /> nhưng lại là nét đặc trưng riêng ở tỉnh Hà Tiên<br /> sinh cơ lập n
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2