TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL<br />
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY<br />
Số 61 (01/2019) No. 61 (01/2019)<br />
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn<br />
<br />
<br />
<br />
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP BIỂU ĐỒ TRONG DẠY<br />
VÀ HỌC TIẾNG VIỆT Ở TRUNG HỌC CƠ SỞ<br />
Using the graphing method in teaching Vietnamese language in junior high school<br />
<br />
TS. Trần Thị Lam Thủy<br />
Trường Đại học Sài Gòn<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Sử dụng biểu đồ trong dạy học là phương pháp khá phổ biến. Người dạy có thể sử dụng nhiều hình thức<br />
của biểu đồ song phổ biến nhất là hai dạng: sơ đồ hình cây, hình chậu hoặc bảng hệ thống, so sánh.<br />
Trong dạy học Tiếng Việt, giáo viên có thể vận dụng để dạy trên hầu hết các kiểu bài như dạng bài lí<br />
thuyết để tạo lập, phát hiện kiến thức mới; dạng bài ôn tập để củng cố và hoàn thiện kiến thức; dạng bài<br />
nâng cao để so sánh và phân loại khái niệm; dạng bài kiểm tra, đánh giá. Thực tế cho thấy phương pháp<br />
này đem lại hiệu quả cao trong dạy - học Tiếng Việt ở phổ thông theo hướng phát huy tính cực chủ<br />
động, phát triển năng lực cho người học hiện nay.<br />
Từ khóa: biểu đồ, dạy học tiếng Việt, sử dụng biểu đồ trong dạy học.<br />
Abtract<br />
Using graphs in education is a quite popular method. The teachers can use many types of graphs, the<br />
most of which are two types: tree or pelvic diagrams and systemized table or comparison chart. In<br />
teaching Vietnamese Language, teachers can apply them to teach most types of lessons such as<br />
theoretical ones to create and discover new knowledge, consolidation lessons to reinforce knowledge,<br />
advanced lessons to compare and classify concepts, assessment lessons. In fact, this method brings high<br />
efficiency in teaching Vietnamese language in high school in the direction of promoting the activeness<br />
and developing the capacity for learners in the current period.<br />
Keywords: graph, teach Vietnamese language, using graphs in education.<br />
<br />
<br />
<br />
1. Đặt vấn đề biểu cảm, trung hòa sắc thái. Nội dung<br />
Trong ba phân môn của Ngữ Văn cấp được đưa vào giảng dạy trong phân môn<br />
Trung học cơ sở (THCS), Tiếng Việt được Tiếng Việt ngày càng nhiều và độ phức tạp<br />
xem là môn học khó và khô khan, không càng tăng qua các lớp.<br />
mấy hứng thú đối với cả người dạy và Với mục tiêu giáo dục hướng tới phát<br />
người học (so với giờ Văn học). Điều này triển năng lực cho người học và yêu cầu<br />
do tính đặc thù: Tiếng Việt có nhiều khái đổi mới phương pháp giảng dạy, phát huy<br />
niệm khó, đòi hỏi tính chính xác, logic chặt tính tích cực, sáng tạo của học sinh như<br />
chẽ. Đây là môn học nặng về phân loại, mô hiện nay, đòi hỏi giáo viên phải tìm những<br />
tả, phân tích. Cách trình bày và thể hiện ít phương pháp mới, thoát hẳn khỏi truyền<br />
Email: dr.lamthuytran@gmail.com<br />
76<br />
TRẦN THỊ LAM THỦY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
thống đọc chép hay phân tích một cách biểu đồ thường được sử dụng và giới thiệu<br />
khuôn mẫu. Qua phản hồi của nhiều giáo thêm một số hình thức sử dụng phù hợp<br />
viên đang trực tiếp giảng dạy hiện nay cho với từng dạng bài cụ thể trong phân môn<br />
thấy: chương trình Tiếng Việt nói chung Tiếng Việt.<br />
khá nặng, nhiều điểm mới và khó, chưa b. Cơ sở của vấn đề<br />
tinh giản. Nếu không có một tri thức Ngữ Chương trình Tiếng Việt ở THCS có<br />
văn tốt và cập nhật, một phương pháp thời lượng khá lớn. Theo khung phân phối<br />
giảng dạy khoa học thì rất khó hoàn thành chương trình của Bộ GD ban hành, lớp 6:<br />
chương trình và mục đích đề ra. 31/140 tiết; lớp 7: 33/140 tiết; lớp 8: 32/140<br />
Từ lí thuyết và thực tiễn giảng dạy tiết; lớp 9: 29/175 tiết – không kể những<br />
phân môn Tiếng Việt ở THCS, chúng tôi tiết trả bài chung với Văn học, Tập làm văn<br />
nhận thấy nguyên nhân và “chìa khóa” mấu – Chiếm tỉ lệ 21,0% chương trình); về nội<br />
chốt là phải tìm ra phương pháp thích hợp dung có thể nói khá nhiều trên cả các bình<br />
cho việc dạy – học phân môn này. Điều đó diện của ngôn ngữ: ngữ âm, từ vựng, ngữ<br />
có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng.<br />
đổi mới phương pháp và nâng cao chất Trước thời lượng và nội dung khá lớn,<br />
lượng giáo dục hiện nay. được xem là “căng thẳng” như vậy, nếu<br />
2. Vận dụng phương pháp biểu đồ người dạy không đầu tư thời gian, tìm các<br />
2.1. Cơ sở và khái niệm của phương phương pháp truyền dạy thì giờ học chắc<br />
pháp biểu đồ chắn sẽ kém hiệu quả, làm đậm thêm tình<br />
a. Khái niệm biểu đồ trạng “chán học văn” và nhất là “chán<br />
Phương pháp biểu đồ – còn gọi là học tiếng” mà dư luận gần đây ngày càng<br />
phương pháp Graph (trong tiếng Anh cũng chú ý.<br />
có nhiều cách gọi khác nhau như Để góp phần nâng cao hiệu quả dạy -<br />
graph/chart/diagram). Đây là cách xâu học Tiếng Việt, chúng ta đã dùng nhiều<br />
chuỗi các nội dung rời rạc thành một hệ phương pháp khác nhau. Có phương pháp<br />
thống bằng các mô hình trực quan như hình đã thành truyền thống, “kinh điển” như lên<br />
ảnh, bảng thống kê, biểu đồ với nhiều dạng lớp: thầy giảng, trò nghe và ghi chép. Sau<br />
thức khác nhau. Với mỗi dạng thức, tiếng này, qua cuộc “cách mạng” đổi mới<br />
Việt có từ để gọi khác nhau như bảng, biểu phương pháp dạy – học, phát huy tính tích<br />
đồ, đồ thị, sơ đồ.v.v. Trong bài viết này, cực, sáng tạo của học sinh (HS), đặc biệt<br />
chúng tôi gọi chung là biểu đồ (BĐ) song chú trọng phát triển năng lực sử dụng tiếng<br />
trong quá trình giới thiệu các dạng thức, Việt cho HS, trên lớp thầy không chỉ có<br />
chúng tôi sẽ gọi tên theo đúng từ để gọi độc giảng mà còn phát vấn, tạo ra sự “đối<br />
cho từng dạng thức phổ biến hiện nay. thoại” hai chiều. Nhiều phương pháp như<br />
Thực ra phương pháp BĐ không mới, phân tích ngôn ngữ, rèn luyện theo mẫu,<br />
nhiều bộ môn khoa học, nhiều người đã các hình thức học qua trò chơi, thi đố… đã<br />
vận dụng chúng trong nghiên cứu, giảng được vận dụng. Quả thật, giờ học hứng thú<br />
dạy. Kể cả phần giảng dạy Tiếng Việt hơn, hấp dẫn hơn khi người thầy phát huy<br />
trong nhà trường. Trong khuôn khổ của bài được sự hứng thú và động não “tích cực” ở<br />
viết, chúng tôi chỉ tổng hợp lại các dạng HS. Nếu giáo viên vận dụng một cách tích<br />
<br />
<br />
77<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019)<br />
<br />
<br />
cực phương pháp BĐ, chắc chắn không chỉ vừa khó và trừu tượng (vì được nhìn nhận<br />
tạo được hứng thú mà còn rèn luyện được và phân tích từ góc độ và thao tác khoa<br />
cho học sinh khả năng phân tích tổng hợp, học). Để giảm thiểu khó khăn và trừu<br />
tư duy logic và khái quát hệ thống vấn đề. tượng trong việc dạy – học môn Tiếng<br />
Phân môn Tiếng Việt ở THCS thực sự Việt, có thể nói, phương pháp biểu đồ góp<br />
rất phù hợp để áp dụng phương pháp này, phần làm cho sự phân tích, nắm bắt các<br />
theo chúng tôi, có hai lí do chính: kiến thức trở nên dễ dàng hơn.<br />
Thứ nhất, ngôn ngữ là một đối tượng 2.2. Phương pháp tiến hành<br />
phức tạp, có nhiều vấn đề, nhiều khái niệm, Tham khảo các tài liệu đã vận dụng<br />
nhiều đơn vị. Thoạt nhìn, ta thấy có vẻ hỗn phương pháp biểu đồ và bằng thực tiễn<br />
độn, nhưng kì thực chúng có lớp lang, có soạn và giảng bài trên lớp của giáo viên,<br />
hệ thống quan hệ với nhau. Vì thế, có thể chúng tôi rút ra hai cách lập biểu đồ phổ<br />
quy chúng thành những nhóm, loại theo biến trong các tiết học như sau:<br />
những mô hình nhất định. Phương pháp Cách thứ nhất: lựa chọn những nội<br />
biểu đồ vì vậy có thể áp dụng để quy các dung có liên quan, đi từ khái quát đến cụ<br />
hiện tượng của lời nói cụ thể (kiến thức cơ thể, theo tầng bậc từ cao đến thấp dần theo<br />
bản trong sách giáo khoa (SGK) phần các nhánh. Mô hình biểu diễn hệ thống<br />
Tiếng Việt là các đơn vị lời nói cụ thể) về kiến thức theo dạng này thường là BĐ hình<br />
các biểu đồ theo nhiều mức độ và cách cây hoặc là BĐ hình chậu.<br />
thức tổng hợp khác nhau. Chẳng hạn, để dạy bài “Câu ghép”<br />
Thứ hai, các kiến thức Tiếng Việt (Ngữ văn 8) hoặc “Tổng kết về Ngữ pháp”<br />
được trình bày trong SGK nói chung là một (Ngữ văn 9), giáo viên có thể lập BĐ để<br />
đối tượng vừa quen thuộc (vì ai cũng nói, giới thiệu hoặc tổng kết về hệ thống câu<br />
viết bằng tiếng Việt hàng ngày) nhưng lại tiếng Việt như sau:<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Biểu đồ 1. Phân loại câu tiếng Việt<br />
<br />
<br />
Phân loại như ví dụ trên đây là kiểu ba. Để chi tiết hóa hơn, rõ ràng hơn, ta có<br />
biểu đồ ở mức độ khái quát, tức là từ khái thể triển khai theo từng mục với các nhánh<br />
niệm và đơn vị tổng hợp, sau đó chia chi tiết hơn nữa. Chẳng hạn với mục “câu<br />
nhánh đến các ý cụ thể ở bậc hai hoặc bậc ghép” có thể lập tiếp biểu đồ:<br />
<br />
<br />
78<br />
TRẦN THỊ LAM THỦY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Biểu đồ 2. Phân loại câu ghép tiếng Việt<br />
<br />
Cách lập biểu đồ theo tầng bậc từ khái so sánh, tìm điểm tương đồng và khác biệt.<br />
quát đến cụ thể có thể tiến hành đối với bất Trong thực tế, khi sử dụng thao tác này, các<br />
kì đơn vị nào khi cần làm rõ các nội dung đối tượng được đưa vào biểu đồ phải hội đủ<br />
trong Tiếng Việt. Có thể lập các tiểu ý và hai tiêu chí trở lên, giữa chúng phải có sự<br />
cuối cùng, có thể đưa ra các dẫn chứng và đồng nhất nào đó để quy chúng về một điểm<br />
phân tích dẫn chứng theo số liệu cho từng chung (một tập hợp, một nội dung lớn).<br />
tiểu ý đó. Chẳng hạn, để dạy bài “Tổng kết về<br />
Cách thứ hai: lập bảng tập hợp các ngữ pháp” (phần từ loại, Ngữ văn 9) hoặc<br />
hiện tượng, các đối tượng cụ thể có những trước khi dạy các từ loại trong chương<br />
nét tương đồng về những luận điểm, những trình SGK, giáo viên có thể giới thiệu hoặc<br />
chùm ý khái quát hơn. tổng kết bằng bảng sau (có thể để trống<br />
Với đối tượng kiến thức này, chúng ta bảng, tạo một bài tập tổng hợp để HS tự<br />
có thể sử dụng bằng bảng, lập các tiêu chí để điền vào các mục):<br />
Bảng 1. Hệ thống từ loại tiếng Việt<br />
Nhóm Từ loại Ý nghĩa Khả năng kết hợp Chức vụ ngữ pháp Ví dụ<br />
Thực từ Danh từ<br />
Động từ<br />
…<br />
Hư từ Phụ từ<br />
Quan hệ từ<br />
…<br />
<br />
79<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019)<br />
<br />
<br />
Điều đặc biệt là cách thứ hai này có thể đơn vị thán từ với trợ từ hoặc thán từ với<br />
lập bảng để so sánh, đối chiếu để các luận tình thái từ, chúng ta có thể lập bảng phân<br />
điểm, các đơn vị được rõ ràng hơn, xác định biệt điểm khác nhau giữa các từ loại sau khi<br />
hơn. Chẳng hạn để giúp HS phân biệt các đã tìm các điểm chung giữa chúng. Ví dụ:<br />
<br />
Bảng 2. Phân biệt thán từ và trợ từ<br />
Tiêu chí phân biệt Thán từ Trợ từ<br />
Vị trí Thường đứng đầu câu hoặc Đi kèm một thực từ nào đó.<br />
tách thành câu riêng.<br />
Khả năng tạo câu - Làm câu đặc biệt. Không có khả năng làm thành<br />
- Làm thành phần biệt lập của phần câu hay độc lập tạo câu.<br />
câu.<br />
Ý nghĩa - Bộc lộ tình cảm, cảm xúc; - Nhấn mạnh hoặc bổ sung ý<br />
- Thể hiện thái độ, đánh giá; nghĩa cho từ mà nó đi kèm;<br />
- Dùng để gọi - đáp - Góp phần bày tỏ thái độ đánh<br />
giá của người nói.<br />
<br />
Bảng 3. Phân biệt thán từ và tình thái từ<br />
Tiêu chí phân biệt Thán từ Tình thái từ<br />
Vị trí Thường đứng đầu câu hoặc Thường đứng cuối câu.<br />
tách thành câu riêng.<br />
Khả năng tạo câu - Làm câu đặc biệt. Là thành phần thêm vào trong<br />
- Làm thành phần biệt lập của câu, không có khả năng độc lập<br />
câu. tạo câu.<br />
Ý nghĩa - Bộc lộ tình cảm, cảm xúc; - Tạo các kiểu câu: nghi vấn, cầu<br />
- Thể hiện thái độ, đánh giá; khiến, cảm thán;<br />
- Dùng để gọi – đáp. - Góp phần biểu thị sắc thái tình<br />
cảm.<br />
<br />
<br />
Qua Bảng 2 và Bảng 3, có thể thấy pháp làm việc trong quá trình học tập khi<br />
cùng các tiêu chí giống nhau như vị trí, khả gặp những đối tượng kiến thức có nhiều<br />
năng tạo câu, ý nghĩa phạm trù, người học điểm tương đồng, dễ nhầm lẫn.<br />
dễ dàng phân biệt được các đối tượng thán 3. Khả năng vận dụng của phương pháp<br />
từ, trợ từ, tình thái từ… vốn là những từ Phương pháp lập biểu đồ có thể áp<br />
loại dễ nhầm lẫn về cả lí thuyết lẫn thực dụng cho mọi môn học trong nhà trường bởi<br />
hành trong quá trình sử dụng. Từ đó giúp vì nó trực quan và tiết kiệm. Riêng trong<br />
HS nắm vững kiến thức hơn. Quan trọng phân môn tiếng Việt, GV có thể vận dụng<br />
hơn nữa là giúp HS nắm được phương để thực hiện trong một số dạng bài sau:<br />
<br />
<br />
80<br />
TRẦN THỊ LAM THỦY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
3.1. Dạng bài lí thuyết để tạo lập, Chẳng hạn, với bài Danh từ (Ngữ Văn 6,<br />
phát hiện kiến thức mới tập 1) chúng ta có thể xây dựng được biểu<br />
Như đã xác định từ đầu, kiến thức đồ. Theo từng bậc như sau:<br />
Tiếng Việt vô cùng phong phú. Thoạt nhìn, - Bậc 1: xác định khái niệm trung tâm:<br />
người học có thể thấy vô cùng rối song khi DANH TỪ<br />
được đưa vào biểu đồ, nó sẽ hiện ra một - Bậc 2: xác định các đối tượng chính<br />
cách hệ thống giúp người học dễ dàng nắm trong khái niệm: DANH TỪ RIÊNG và<br />
được các khái niệm và quy tắc thực hành DANH TỪ CHUNG<br />
ngôn ngữ. Theo từng bậc của biểu đồ, - Bậc 3: tiếp tục xác định các đơn vị<br />
người học sẽ dễ dàng nắm được khái niệm nhỏ hơn.<br />
và mối liên hệ giữa chúng trong hệ thống. Ví dụ:<br />
<br />
1<br />
<br />
<br />
<br />
2<br />
<br />
<br />
3<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Biểu đồ 3. Danh từ tiếng Việt<br />
<br />
Tương tự như trên, HS dễ dàng khai số bài học (mỗi bài học là một đơn vị kiến<br />
triển tiếp bậc 4, 5 để hình thành khái niệm thức trong hệ thống), chúng ta sẽ có bài ôn<br />
danh từ một cách đầy đủ hơn, chi tiết hơn tập, hệ thống và tổng hợp kiến thức đã<br />
mà không hề bị bối rối vì hệ thống các khái được học cho HS. Với mục đích, yêu cầu<br />
niệm/thuật ngữ liên quan. Đồng thời, biểu của dạng bài này, giả sử người dạy cứ nhắc<br />
đồ cho phép người học tiếp nhận kiến thức lại kiến thức từng bài thì thật là nhàm chán,<br />
theo hướng đa phương thức: từ ngữ khái kiến thức lại dàn trải, rời rạc, khó ghi nhớ.<br />
quát, hình ảnh mang tính trực quan… tạo Biểu đồ hóa quả thật là phương pháp tối ưu<br />
cho HS có thể thay đổi về “điểm nhìn” nhất có thể để giúp người học nhìn lại một<br />
trong tiếp nhận, các em không chỉ tiếp cận cách tổng quát, rõ ràng những kiến thức đã<br />
kiến thức bằng thị giác mà còn có thể tạo học. Chúng ta có thể xây dựng bảng như<br />
sự liên tưởng hiệu quả với những gì đã Bảng 1 để hệ thống những khái niệm cùng<br />
được học. bậc hoặc sử dụng BĐ để hệ thống các khái<br />
3.2. Dạng bài ôn tập, củng cố và hoàn niệm khác bậc như BĐ1 và BĐ2.<br />
thiện kiến thức Kết hợp phương pháp này với những<br />
Thông thường sau khi triển khai một câu hỏi gợi mở hoặc yêu cầu HS tự xây<br />
<br />
81<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019)<br />
<br />
<br />
dựng bảng/biểu đồ, GV đã có thể giúp HS không được HS yêu thích nếu không nói là<br />
nắm vững được kiến thức trọng tâm của gây cảm giác nặng nề đối với người học.<br />
các bài học, tổng hợp được nhiều kiến thức Tuy nhiên, đây lại là việc làm cần thiết và<br />
lại với nhau thành hệ thống, so sánh và đối phải tiến hành thường xuyên để thúc đẩy<br />
chiếu, nhìn thấy được sự tương ứng và quá trình tự giác học tập, biến kiến thức<br />
khác biệt cũng như mối quan hệ logic giữa thành kĩ năng của người học. Bởi vậy, GV<br />
các khái niệm, kiến thức đã được học về cả cần lựa chọn nhiều hình thức kiểm tra khác<br />
nội dung và hình thức một cách dễ dàng. nhau nhằm tạo hứng khởi cho HS. Theo<br />
3.3. Dạng bài nâng cao so sánh và đó, phương pháp sử dụng biểu đồ cũng là<br />
phân loại khái niệm cách để giảm thiểu áp lực kiểm tra, đánh<br />
Đây là dạng vận dụng bảng để đưa vào giá mà vẫn đạt được hiệu quả cao. Tùy<br />
hệ thống mà chúng tôi đã trình bày ở bảng theo mức độ yêu cầu của bài kiểm tra<br />
1, 2, 3. Điều quan trọng khi vận dụng dạng (chúng ta có 4 mức độ kiểm tra đánh giá cơ<br />
bảng này là GV và HS phải xác lập được bản: mức độ 1: ghi nhớ; mức độ 2: hiểu;<br />
các tiêu chí chung giữa các đối tượng đem mức độ 3: vận dụng; mức độ 4: vận dụng<br />
ra so sánh. Từ đó chúng ta dễ dàng chỉ ra sáng tạo), chúng ta có thể xây dựng các<br />
tính chất tương đồng và khác biệt giữa các biểu đồ khác nhau theo yêu cầu của từng<br />
đối tượng cùng bậc, cùng loại. Vậy nên, mức độ.<br />
nếu không đưa vào bảng so sánh, HS khó Ở mức độ (1), kiểm tra khả năng ghi<br />
phân biệt bao nhiêu thì ngược lại, sau khi nhớ tích cực của HS để tránh lối học vẹt,<br />
xác lập bảng, người học khó có thể nhầm thụ động. Chúng ta có thể tạo sơ đồ hệ<br />
lẫn được. Chẳng hạn như các đối tượng trợ thống kiến thức để trống một số ô nhất<br />
từ, thán từ và tình thái từ trong tiếng Việt. định, buộc HS phải điền vào. Chẳng hạn<br />
3.4. Dạng bài kiểm tra, đánh giá với kiến thức về nghĩa của câu:<br />
“Kiểm tra”, “đánh giá” là hai từ vốn<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Biểu đồ 4. Kiểm tra khả năng ghi nhớ nghĩa của câu<br />
(Nguồn: 3; tr.199)<br />
<br />
82<br />
TRẦN THỊ LAM THỦY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
Dạng bài kiểm tra này giúp HS trong Cho đoạn văn:<br />
việc chuyển hóa từ việc “ghi nhớ máy móc Những bông hoa đồng tiền héo quắt<br />
và thu thập tài liệu sang cách “gia công tư trong lọ, chắc không được thay nước.<br />
liệu” ở mức độ cao hơn, sâu hơn, biến Dòng chữ trên cánh cửa "anh chờ em về ăn<br />
những tri thức đã học thành cái vốn “của cơm" bạc phếch màu phấn như trêu người<br />
mình”, “cho mình” [3; tr. 199]. ở lại… Đã có con nhện bé xíu chớp nhoáng<br />
Ở mức độ (2), kiểm tra khả năng thời cơ, buông mình giăng tơ mỏng, những<br />
nhận biết và hiểu kiến thức đã học. GV có sợi tơ trắng tinh đan cẩn thận góc nhà.<br />
thể cho HS làm việc thực tế với ngữ liệu. Yêu cầu tìm từ có trong đoạn văn trên<br />
Ví dụ, bài kiểm tra sau phần từ loại: và điền đúng vào cột tương ứng:<br />
<br />
Bảng 5. Xác định từ loại<br />
<br />
Danh từ Động từ Tính từ Tình thái từ …<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Đây là dạng bài kiểm tra khả năng trắng tinh… để điền vào đúng cột đã cho.<br />
nhận biết và hiểu vấn đề của học sinh. Ở mức độ (3) và (4), kiểm tra khả<br />
Với yêu cầu ở mức độ hiểu, GV phải năng vận dụng và vận dụng sáng tạo, GV<br />
lựa chọn những ngữ liệu có độ khó tương có thể đưa ra những yêu cầu cao hơn, buộc<br />
đối, đảm bảo cho việc HS phải hiểu kiến HS phải lựa chọn tình huống hoặc ngữ<br />
thức mới có thể xác định đúng đối tượng. cảnh sử dụng gắn với thực tế. Chẳng hạn:<br />
Chẳng hạn, nếu không hiểu một cách thấu Điền các từ chắc chắn, hình như, hay,<br />
đáo kiến thức về tính từ, HS khó có thể hoặc vào dòng phù hợp trong bảng dưới<br />
chọn được các từ như héo quắt, bạc phếch, đây; đặt câu với mỗi trường hợp.<br />
<br />
Bảng 6. Kiểm tra khả năng vận dụng từ ngữ<br />
<br />
Mục đích Từ tương ứng Đặt câu ví dụ<br />
Thể hiện độ tin cậy cao<br />
Thể hiện độ tin cậy thấp<br />
Lựa chọn khẳng định<br />
Lựa chọn nghi vấn<br />
<br />
<br />
Một điểm đặc biệt của việc vận dụng đã có thể cho HS thực hiện xong một bài<br />
phương pháp biểu đồ trong kiểm tra đánh kiểm tra. Điều này giúp GV có thể triển<br />
giá là tính tiện lợi về cách thức và tiết kiệm khai việc kiểm tra thường xuyên và nắm<br />
về thời gian. Chỉ cần 5 phút đầu/cuối giờ được mức độ hiểu bài của HS một cách<br />
học, bằng hình thức phát phiếu học tập, GV nhanh chóng.<br />
<br />
83<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019)<br />
<br />
<br />
4. Thực nghiệm và kết quả sơ đồ như các cách đã trình bày. Có thể<br />
Để khẳng định được mức độ khả thi soạn riêng thành các sơ đồ, các bảng biểu<br />
của phương pháp, chúng tôi đã tiến hành để đến lớp trình bày. Phương pháp biểu đồ<br />
thực nghiệm tại một số lớp của các trường càng phát huy được hiệu quả hơn với sự hỗ<br />
THCS tại Nghệ An (THCS Hưng Tây, trợ của phương tiện công nghệ như bảng<br />
THCS Lam Thành, THCS Nguyễn Trường chiếu, bảng tương tác hiện nay.<br />
Tộ của huyện Hưng Nguyên) bằng cách Về phía HS, các em hoàn toàn có thể<br />
phân thành 2 nhóm lớp: lớp thực nghiệm (3 độc lập tạo các bảng/biểu đồ theo cách hiểu<br />
lớp, 120 HS) và lớp đối chứng (3 lớp, 120 của mình để hiểu bài và nắm vững kiến<br />
HS) với một số bài học cụ thể. Ví dụ với thức nhanh chóng. Bằng việc độc lập xây<br />
bài Tổng kết về từ loại (Ngữ văn 9). Với dựng biểu đồ, HS có thể hiểu rõ quan hệ<br />
lớp thực nghiệm, chúng tôi cho tiến hành của các đơn vị khái niệm trong biểu đồ là<br />
xây dựng bảng tổng kết các từ loại trong hiểu được bài chắc chắn. Đồng thời khả<br />
tiếng Việt (theo Bảng 1); với lớp đối năng tư duy logic, khái quát hệ thống của<br />
chứng, chúng tôi để tiến hành theo hình các em cũng được hình thành.<br />
thức “cuốn chiếu”. Chúng tôi đã tiến hành Nhìn từ hai phía người dạy và người<br />
kiểm tra ngay sau khi học với đề bài: học, phương pháp sử dụng bảng/biểu đồ<br />
“Phân biệt hệ thống thực từ và hư từ trong giúp hình dung được vấn đề (nội dung bài<br />
tiếng Việt”. Kết quả là 100% HS lớp thực học) được rõ hơn, nhanh hơn, có ấn tượng<br />
nghiệm tiến hành phân biệt hai hệ thống hơn. Từ đó, học sinh tích cực, chủ động hơn;<br />
thực từ và hư từ bằng cách lập bảng theo 3 bài học ấn tượng hơn, đơn giản, tiết kiệm<br />
tiêu chí: ý nghĩa phạm trù, khả năng kết thời gian hơn, hiệu quả đạt được cao hơn.<br />
hợp, chức vụ ngữ pháp trong khi 75.5% HS<br />
lớp đối chứng lần lượt trình bày khái niệm TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
thực từ rồi đến hư từ. Chỉ 24.5% phát triển 1. Bộ Giáo dục & Đào tạo (2015), Sách giáo<br />
thêm được phần so sánh, chỉ ra điểm khác khoa Ngữ Văn (các lớp 6, 7, 8, 9), NXB<br />
giữa hai nhóm từ này. Giáo dục Việt Nam.<br />
Như vậy, sự khác biệt giữa hai lớp HS 2. M.N. Iakovlev (1983), Phương pháp và kỹ<br />
này không chỉ ở cách làm bài mà cả cách thuật lên lớp trong trường Phổ thông, H,<br />
tư duy. NXB Giáo Dục.<br />
5. Kết luận 3. Phạm Thị Minh Thúy (2009), Sử dụng<br />
Qua thực tiễn áp dụng phương pháp Graph trong dạy học tiếng Việt, Tạp chí<br />
này, chúng tôi nhận thấy: Khoa học ĐHSP TP.HCM, số 17.<br />
Về phía người dạy, thầy cô giáo chỉ 4. Tony Buzan (2009), Master your memory<br />
cần bám sát nội dung từng bài và chương (Bản dịch tiếng Việt của Lê Huy Lâm),<br />
trình, tổng hợp kiến thức rồi vẽ thành các NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.<br />
<br />
<br />
Ngày nhận bài: 09/07/2018 Biên tập xong: 15/12/2018 Duyệt đăng: 20/01/2019<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
84<br />