intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vận dụng phương pháp biểu đồ trong dạy và học tiếng Việt ở trung học cơ sở

Chia sẻ: ViVatican2711 ViVatican2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

50
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong dạy học Tiếng Việt, giáo viên có thể vận dụng để dạy trên hầu hết các kiểu bài như dạng bài lí thuyết để tạo lập, phát hiện kiến thức mới; dạng bài ôn tập để củng cố và hoàn thiện kiến thức; dạng bài nâng cao để so sánh và phân loại khái niệm; dạng bài kiểm tra, đánh giá. Thực tế cho thấy phương pháp này đem lại hiệu quả cao trong dạy - học Tiếng Việt ở phổ thông theo hướng phát huy tính cực chủ động, phát triển năng lực cho người học hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vận dụng phương pháp biểu đồ trong dạy và học tiếng Việt ở trung học cơ sở

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY<br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL<br /> ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY<br /> Số 61 (01/2019) No. 61 (01/2019)<br /> Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn<br /> <br /> <br /> <br /> VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP BIỂU ĐỒ TRONG DẠY<br /> VÀ HỌC TIẾNG VIỆT Ở TRUNG HỌC CƠ SỞ<br /> Using the graphing method in teaching Vietnamese language in junior high school<br /> <br /> TS. Trần Thị Lam Thủy<br /> Trường Đại học Sài Gòn<br /> <br /> Tóm tắt<br /> Sử dụng biểu đồ trong dạy học là phương pháp khá phổ biến. Người dạy có thể sử dụng nhiều hình thức<br /> của biểu đồ song phổ biến nhất là hai dạng: sơ đồ hình cây, hình chậu hoặc bảng hệ thống, so sánh.<br /> Trong dạy học Tiếng Việt, giáo viên có thể vận dụng để dạy trên hầu hết các kiểu bài như dạng bài lí<br /> thuyết để tạo lập, phát hiện kiến thức mới; dạng bài ôn tập để củng cố và hoàn thiện kiến thức; dạng bài<br /> nâng cao để so sánh và phân loại khái niệm; dạng bài kiểm tra, đánh giá. Thực tế cho thấy phương pháp<br /> này đem lại hiệu quả cao trong dạy - học Tiếng Việt ở phổ thông theo hướng phát huy tính cực chủ<br /> động, phát triển năng lực cho người học hiện nay.<br /> Từ khóa: biểu đồ, dạy học tiếng Việt, sử dụng biểu đồ trong dạy học.<br /> Abtract<br /> Using graphs in education is a quite popular method. The teachers can use many types of graphs, the<br /> most of which are two types: tree or pelvic diagrams and systemized table or comparison chart. In<br /> teaching Vietnamese Language, teachers can apply them to teach most types of lessons such as<br /> theoretical ones to create and discover new knowledge, consolidation lessons to reinforce knowledge,<br /> advanced lessons to compare and classify concepts, assessment lessons. In fact, this method brings high<br /> efficiency in teaching Vietnamese language in high school in the direction of promoting the activeness<br /> and developing the capacity for learners in the current period.<br /> Keywords: graph, teach Vietnamese language, using graphs in education.<br /> <br /> <br /> <br /> 1. Đặt vấn đề biểu cảm, trung hòa sắc thái. Nội dung<br /> Trong ba phân môn của Ngữ Văn cấp được đưa vào giảng dạy trong phân môn<br /> Trung học cơ sở (THCS), Tiếng Việt được Tiếng Việt ngày càng nhiều và độ phức tạp<br /> xem là môn học khó và khô khan, không càng tăng qua các lớp.<br /> mấy hứng thú đối với cả người dạy và Với mục tiêu giáo dục hướng tới phát<br /> người học (so với giờ Văn học). Điều này triển năng lực cho người học và yêu cầu<br /> do tính đặc thù: Tiếng Việt có nhiều khái đổi mới phương pháp giảng dạy, phát huy<br /> niệm khó, đòi hỏi tính chính xác, logic chặt tính tích cực, sáng tạo của học sinh như<br /> chẽ. Đây là môn học nặng về phân loại, mô hiện nay, đòi hỏi giáo viên phải tìm những<br /> tả, phân tích. Cách trình bày và thể hiện ít phương pháp mới, thoát hẳn khỏi truyền<br /> Email: dr.lamthuytran@gmail.com<br /> 76<br /> TRẦN THỊ LAM THỦY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br /> <br /> <br /> thống đọc chép hay phân tích một cách biểu đồ thường được sử dụng và giới thiệu<br /> khuôn mẫu. Qua phản hồi của nhiều giáo thêm một số hình thức sử dụng phù hợp<br /> viên đang trực tiếp giảng dạy hiện nay cho với từng dạng bài cụ thể trong phân môn<br /> thấy: chương trình Tiếng Việt nói chung Tiếng Việt.<br /> khá nặng, nhiều điểm mới và khó, chưa b. Cơ sở của vấn đề<br /> tinh giản. Nếu không có một tri thức Ngữ Chương trình Tiếng Việt ở THCS có<br /> văn tốt và cập nhật, một phương pháp thời lượng khá lớn. Theo khung phân phối<br /> giảng dạy khoa học thì rất khó hoàn thành chương trình của Bộ GD ban hành, lớp 6:<br /> chương trình và mục đích đề ra. 31/140 tiết; lớp 7: 33/140 tiết; lớp 8: 32/140<br /> Từ lí thuyết và thực tiễn giảng dạy tiết; lớp 9: 29/175 tiết – không kể những<br /> phân môn Tiếng Việt ở THCS, chúng tôi tiết trả bài chung với Văn học, Tập làm văn<br /> nhận thấy nguyên nhân và “chìa khóa” mấu – Chiếm tỉ lệ 21,0% chương trình); về nội<br /> chốt là phải tìm ra phương pháp thích hợp dung có thể nói khá nhiều trên cả các bình<br /> cho việc dạy – học phân môn này. Điều đó diện của ngôn ngữ: ngữ âm, từ vựng, ngữ<br /> có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng.<br /> đổi mới phương pháp và nâng cao chất Trước thời lượng và nội dung khá lớn,<br /> lượng giáo dục hiện nay. được xem là “căng thẳng” như vậy, nếu<br /> 2. Vận dụng phương pháp biểu đồ người dạy không đầu tư thời gian, tìm các<br /> 2.1. Cơ sở và khái niệm của phương phương pháp truyền dạy thì giờ học chắc<br /> pháp biểu đồ chắn sẽ kém hiệu quả, làm đậm thêm tình<br /> a. Khái niệm biểu đồ trạng “chán học văn” và nhất là “chán<br /> Phương pháp biểu đồ – còn gọi là học tiếng” mà dư luận gần đây ngày càng<br /> phương pháp Graph (trong tiếng Anh cũng chú ý.<br /> có nhiều cách gọi khác nhau như Để góp phần nâng cao hiệu quả dạy -<br /> graph/chart/diagram). Đây là cách xâu học Tiếng Việt, chúng ta đã dùng nhiều<br /> chuỗi các nội dung rời rạc thành một hệ phương pháp khác nhau. Có phương pháp<br /> thống bằng các mô hình trực quan như hình đã thành truyền thống, “kinh điển” như lên<br /> ảnh, bảng thống kê, biểu đồ với nhiều dạng lớp: thầy giảng, trò nghe và ghi chép. Sau<br /> thức khác nhau. Với mỗi dạng thức, tiếng này, qua cuộc “cách mạng” đổi mới<br /> Việt có từ để gọi khác nhau như bảng, biểu phương pháp dạy – học, phát huy tính tích<br /> đồ, đồ thị, sơ đồ.v.v. Trong bài viết này, cực, sáng tạo của học sinh (HS), đặc biệt<br /> chúng tôi gọi chung là biểu đồ (BĐ) song chú trọng phát triển năng lực sử dụng tiếng<br /> trong quá trình giới thiệu các dạng thức, Việt cho HS, trên lớp thầy không chỉ có<br /> chúng tôi sẽ gọi tên theo đúng từ để gọi độc giảng mà còn phát vấn, tạo ra sự “đối<br /> cho từng dạng thức phổ biến hiện nay. thoại” hai chiều. Nhiều phương pháp như<br /> Thực ra phương pháp BĐ không mới, phân tích ngôn ngữ, rèn luyện theo mẫu,<br /> nhiều bộ môn khoa học, nhiều người đã các hình thức học qua trò chơi, thi đố… đã<br /> vận dụng chúng trong nghiên cứu, giảng được vận dụng. Quả thật, giờ học hứng thú<br /> dạy. Kể cả phần giảng dạy Tiếng Việt hơn, hấp dẫn hơn khi người thầy phát huy<br /> trong nhà trường. Trong khuôn khổ của bài được sự hứng thú và động não “tích cực” ở<br /> viết, chúng tôi chỉ tổng hợp lại các dạng HS. Nếu giáo viên vận dụng một cách tích<br /> <br /> <br /> 77<br /> SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019)<br /> <br /> <br /> cực phương pháp BĐ, chắc chắn không chỉ vừa khó và trừu tượng (vì được nhìn nhận<br /> tạo được hứng thú mà còn rèn luyện được và phân tích từ góc độ và thao tác khoa<br /> cho học sinh khả năng phân tích tổng hợp, học). Để giảm thiểu khó khăn và trừu<br /> tư duy logic và khái quát hệ thống vấn đề. tượng trong việc dạy – học môn Tiếng<br /> Phân môn Tiếng Việt ở THCS thực sự Việt, có thể nói, phương pháp biểu đồ góp<br /> rất phù hợp để áp dụng phương pháp này, phần làm cho sự phân tích, nắm bắt các<br /> theo chúng tôi, có hai lí do chính: kiến thức trở nên dễ dàng hơn.<br /> Thứ nhất, ngôn ngữ là một đối tượng 2.2. Phương pháp tiến hành<br /> phức tạp, có nhiều vấn đề, nhiều khái niệm, Tham khảo các tài liệu đã vận dụng<br /> nhiều đơn vị. Thoạt nhìn, ta thấy có vẻ hỗn phương pháp biểu đồ và bằng thực tiễn<br /> độn, nhưng kì thực chúng có lớp lang, có soạn và giảng bài trên lớp của giáo viên,<br /> hệ thống quan hệ với nhau. Vì thế, có thể chúng tôi rút ra hai cách lập biểu đồ phổ<br /> quy chúng thành những nhóm, loại theo biến trong các tiết học như sau:<br /> những mô hình nhất định. Phương pháp Cách thứ nhất: lựa chọn những nội<br /> biểu đồ vì vậy có thể áp dụng để quy các dung có liên quan, đi từ khái quát đến cụ<br /> hiện tượng của lời nói cụ thể (kiến thức cơ thể, theo tầng bậc từ cao đến thấp dần theo<br /> bản trong sách giáo khoa (SGK) phần các nhánh. Mô hình biểu diễn hệ thống<br /> Tiếng Việt là các đơn vị lời nói cụ thể) về kiến thức theo dạng này thường là BĐ hình<br /> các biểu đồ theo nhiều mức độ và cách cây hoặc là BĐ hình chậu.<br /> thức tổng hợp khác nhau. Chẳng hạn, để dạy bài “Câu ghép”<br /> Thứ hai, các kiến thức Tiếng Việt (Ngữ văn 8) hoặc “Tổng kết về Ngữ pháp”<br /> được trình bày trong SGK nói chung là một (Ngữ văn 9), giáo viên có thể lập BĐ để<br /> đối tượng vừa quen thuộc (vì ai cũng nói, giới thiệu hoặc tổng kết về hệ thống câu<br /> viết bằng tiếng Việt hàng ngày) nhưng lại tiếng Việt như sau:<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Biểu đồ 1. Phân loại câu tiếng Việt<br /> <br /> <br /> Phân loại như ví dụ trên đây là kiểu ba. Để chi tiết hóa hơn, rõ ràng hơn, ta có<br /> biểu đồ ở mức độ khái quát, tức là từ khái thể triển khai theo từng mục với các nhánh<br /> niệm và đơn vị tổng hợp, sau đó chia chi tiết hơn nữa. Chẳng hạn với mục “câu<br /> nhánh đến các ý cụ thể ở bậc hai hoặc bậc ghép” có thể lập tiếp biểu đồ:<br /> <br /> <br /> 78<br /> TRẦN THỊ LAM THỦY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Biểu đồ 2. Phân loại câu ghép tiếng Việt<br /> <br /> Cách lập biểu đồ theo tầng bậc từ khái so sánh, tìm điểm tương đồng và khác biệt.<br /> quát đến cụ thể có thể tiến hành đối với bất Trong thực tế, khi sử dụng thao tác này, các<br /> kì đơn vị nào khi cần làm rõ các nội dung đối tượng được đưa vào biểu đồ phải hội đủ<br /> trong Tiếng Việt. Có thể lập các tiểu ý và hai tiêu chí trở lên, giữa chúng phải có sự<br /> cuối cùng, có thể đưa ra các dẫn chứng và đồng nhất nào đó để quy chúng về một điểm<br /> phân tích dẫn chứng theo số liệu cho từng chung (một tập hợp, một nội dung lớn).<br /> tiểu ý đó. Chẳng hạn, để dạy bài “Tổng kết về<br /> Cách thứ hai: lập bảng tập hợp các ngữ pháp” (phần từ loại, Ngữ văn 9) hoặc<br /> hiện tượng, các đối tượng cụ thể có những trước khi dạy các từ loại trong chương<br /> nét tương đồng về những luận điểm, những trình SGK, giáo viên có thể giới thiệu hoặc<br /> chùm ý khái quát hơn. tổng kết bằng bảng sau (có thể để trống<br /> Với đối tượng kiến thức này, chúng ta bảng, tạo một bài tập tổng hợp để HS tự<br /> có thể sử dụng bằng bảng, lập các tiêu chí để điền vào các mục):<br /> Bảng 1. Hệ thống từ loại tiếng Việt<br /> Nhóm Từ loại Ý nghĩa Khả năng kết hợp Chức vụ ngữ pháp Ví dụ<br /> Thực từ Danh từ<br /> Động từ<br /> …<br /> Hư từ Phụ từ<br /> Quan hệ từ<br /> …<br /> <br /> 79<br /> SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019)<br /> <br /> <br /> Điều đặc biệt là cách thứ hai này có thể đơn vị thán từ với trợ từ hoặc thán từ với<br /> lập bảng để so sánh, đối chiếu để các luận tình thái từ, chúng ta có thể lập bảng phân<br /> điểm, các đơn vị được rõ ràng hơn, xác định biệt điểm khác nhau giữa các từ loại sau khi<br /> hơn. Chẳng hạn để giúp HS phân biệt các đã tìm các điểm chung giữa chúng. Ví dụ:<br /> <br /> Bảng 2. Phân biệt thán từ và trợ từ<br /> Tiêu chí phân biệt Thán từ Trợ từ<br /> Vị trí Thường đứng đầu câu hoặc Đi kèm một thực từ nào đó.<br /> tách thành câu riêng.<br /> Khả năng tạo câu - Làm câu đặc biệt. Không có khả năng làm thành<br /> - Làm thành phần biệt lập của phần câu hay độc lập tạo câu.<br /> câu.<br /> Ý nghĩa - Bộc lộ tình cảm, cảm xúc; - Nhấn mạnh hoặc bổ sung ý<br /> - Thể hiện thái độ, đánh giá; nghĩa cho từ mà nó đi kèm;<br /> - Dùng để gọi - đáp - Góp phần bày tỏ thái độ đánh<br /> giá của người nói.<br /> <br /> Bảng 3. Phân biệt thán từ và tình thái từ<br /> Tiêu chí phân biệt Thán từ Tình thái từ<br /> Vị trí Thường đứng đầu câu hoặc Thường đứng cuối câu.<br /> tách thành câu riêng.<br /> Khả năng tạo câu - Làm câu đặc biệt. Là thành phần thêm vào trong<br /> - Làm thành phần biệt lập của câu, không có khả năng độc lập<br /> câu. tạo câu.<br /> Ý nghĩa - Bộc lộ tình cảm, cảm xúc; - Tạo các kiểu câu: nghi vấn, cầu<br /> - Thể hiện thái độ, đánh giá; khiến, cảm thán;<br /> - Dùng để gọi – đáp. - Góp phần biểu thị sắc thái tình<br /> cảm.<br /> <br /> <br /> Qua Bảng 2 và Bảng 3, có thể thấy pháp làm việc trong quá trình học tập khi<br /> cùng các tiêu chí giống nhau như vị trí, khả gặp những đối tượng kiến thức có nhiều<br /> năng tạo câu, ý nghĩa phạm trù, người học điểm tương đồng, dễ nhầm lẫn.<br /> dễ dàng phân biệt được các đối tượng thán 3. Khả năng vận dụng của phương pháp<br /> từ, trợ từ, tình thái từ… vốn là những từ Phương pháp lập biểu đồ có thể áp<br /> loại dễ nhầm lẫn về cả lí thuyết lẫn thực dụng cho mọi môn học trong nhà trường bởi<br /> hành trong quá trình sử dụng. Từ đó giúp vì nó trực quan và tiết kiệm. Riêng trong<br /> HS nắm vững kiến thức hơn. Quan trọng phân môn tiếng Việt, GV có thể vận dụng<br /> hơn nữa là giúp HS nắm được phương để thực hiện trong một số dạng bài sau:<br /> <br /> <br /> 80<br /> TRẦN THỊ LAM THỦY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br /> <br /> <br /> 3.1. Dạng bài lí thuyết để tạo lập, Chẳng hạn, với bài Danh từ (Ngữ Văn 6,<br /> phát hiện kiến thức mới tập 1) chúng ta có thể xây dựng được biểu<br /> Như đã xác định từ đầu, kiến thức đồ. Theo từng bậc như sau:<br /> Tiếng Việt vô cùng phong phú. Thoạt nhìn, - Bậc 1: xác định khái niệm trung tâm:<br /> người học có thể thấy vô cùng rối song khi DANH TỪ<br /> được đưa vào biểu đồ, nó sẽ hiện ra một - Bậc 2: xác định các đối tượng chính<br /> cách hệ thống giúp người học dễ dàng nắm trong khái niệm: DANH TỪ RIÊNG và<br /> được các khái niệm và quy tắc thực hành DANH TỪ CHUNG<br /> ngôn ngữ. Theo từng bậc của biểu đồ, - Bậc 3: tiếp tục xác định các đơn vị<br /> người học sẽ dễ dàng nắm được khái niệm nhỏ hơn.<br /> và mối liên hệ giữa chúng trong hệ thống. Ví dụ:<br /> <br /> 1<br /> <br /> <br /> <br /> 2<br /> <br /> <br /> 3<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Biểu đồ 3. Danh từ tiếng Việt<br /> <br /> Tương tự như trên, HS dễ dàng khai số bài học (mỗi bài học là một đơn vị kiến<br /> triển tiếp bậc 4, 5 để hình thành khái niệm thức trong hệ thống), chúng ta sẽ có bài ôn<br /> danh từ một cách đầy đủ hơn, chi tiết hơn tập, hệ thống và tổng hợp kiến thức đã<br /> mà không hề bị bối rối vì hệ thống các khái được học cho HS. Với mục đích, yêu cầu<br /> niệm/thuật ngữ liên quan. Đồng thời, biểu của dạng bài này, giả sử người dạy cứ nhắc<br /> đồ cho phép người học tiếp nhận kiến thức lại kiến thức từng bài thì thật là nhàm chán,<br /> theo hướng đa phương thức: từ ngữ khái kiến thức lại dàn trải, rời rạc, khó ghi nhớ.<br /> quát, hình ảnh mang tính trực quan… tạo Biểu đồ hóa quả thật là phương pháp tối ưu<br /> cho HS có thể thay đổi về “điểm nhìn” nhất có thể để giúp người học nhìn lại một<br /> trong tiếp nhận, các em không chỉ tiếp cận cách tổng quát, rõ ràng những kiến thức đã<br /> kiến thức bằng thị giác mà còn có thể tạo học. Chúng ta có thể xây dựng bảng như<br /> sự liên tưởng hiệu quả với những gì đã Bảng 1 để hệ thống những khái niệm cùng<br /> được học. bậc hoặc sử dụng BĐ để hệ thống các khái<br /> 3.2. Dạng bài ôn tập, củng cố và hoàn niệm khác bậc như BĐ1 và BĐ2.<br /> thiện kiến thức Kết hợp phương pháp này với những<br /> Thông thường sau khi triển khai một câu hỏi gợi mở hoặc yêu cầu HS tự xây<br /> <br /> 81<br /> SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019)<br /> <br /> <br /> dựng bảng/biểu đồ, GV đã có thể giúp HS không được HS yêu thích nếu không nói là<br /> nắm vững được kiến thức trọng tâm của gây cảm giác nặng nề đối với người học.<br /> các bài học, tổng hợp được nhiều kiến thức Tuy nhiên, đây lại là việc làm cần thiết và<br /> lại với nhau thành hệ thống, so sánh và đối phải tiến hành thường xuyên để thúc đẩy<br /> chiếu, nhìn thấy được sự tương ứng và quá trình tự giác học tập, biến kiến thức<br /> khác biệt cũng như mối quan hệ logic giữa thành kĩ năng của người học. Bởi vậy, GV<br /> các khái niệm, kiến thức đã được học về cả cần lựa chọn nhiều hình thức kiểm tra khác<br /> nội dung và hình thức một cách dễ dàng. nhau nhằm tạo hứng khởi cho HS. Theo<br /> 3.3. Dạng bài nâng cao so sánh và đó, phương pháp sử dụng biểu đồ cũng là<br /> phân loại khái niệm cách để giảm thiểu áp lực kiểm tra, đánh<br /> Đây là dạng vận dụng bảng để đưa vào giá mà vẫn đạt được hiệu quả cao. Tùy<br /> hệ thống mà chúng tôi đã trình bày ở bảng theo mức độ yêu cầu của bài kiểm tra<br /> 1, 2, 3. Điều quan trọng khi vận dụng dạng (chúng ta có 4 mức độ kiểm tra đánh giá cơ<br /> bảng này là GV và HS phải xác lập được bản: mức độ 1: ghi nhớ; mức độ 2: hiểu;<br /> các tiêu chí chung giữa các đối tượng đem mức độ 3: vận dụng; mức độ 4: vận dụng<br /> ra so sánh. Từ đó chúng ta dễ dàng chỉ ra sáng tạo), chúng ta có thể xây dựng các<br /> tính chất tương đồng và khác biệt giữa các biểu đồ khác nhau theo yêu cầu của từng<br /> đối tượng cùng bậc, cùng loại. Vậy nên, mức độ.<br /> nếu không đưa vào bảng so sánh, HS khó Ở mức độ (1), kiểm tra khả năng ghi<br /> phân biệt bao nhiêu thì ngược lại, sau khi nhớ tích cực của HS để tránh lối học vẹt,<br /> xác lập bảng, người học khó có thể nhầm thụ động. Chúng ta có thể tạo sơ đồ hệ<br /> lẫn được. Chẳng hạn như các đối tượng trợ thống kiến thức để trống một số ô nhất<br /> từ, thán từ và tình thái từ trong tiếng Việt. định, buộc HS phải điền vào. Chẳng hạn<br /> 3.4. Dạng bài kiểm tra, đánh giá với kiến thức về nghĩa của câu:<br /> “Kiểm tra”, “đánh giá” là hai từ vốn<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Biểu đồ 4. Kiểm tra khả năng ghi nhớ nghĩa của câu<br /> (Nguồn: 3; tr.199)<br /> <br /> 82<br /> TRẦN THỊ LAM THỦY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br /> <br /> <br /> Dạng bài kiểm tra này giúp HS trong Cho đoạn văn:<br /> việc chuyển hóa từ việc “ghi nhớ máy móc Những bông hoa đồng tiền héo quắt<br /> và thu thập tài liệu sang cách “gia công tư trong lọ, chắc không được thay nước.<br /> liệu” ở mức độ cao hơn, sâu hơn, biến Dòng chữ trên cánh cửa "anh chờ em về ăn<br /> những tri thức đã học thành cái vốn “của cơm" bạc phếch màu phấn như trêu người<br /> mình”, “cho mình” [3; tr. 199]. ở lại… Đã có con nhện bé xíu chớp nhoáng<br /> Ở mức độ (2), kiểm tra khả năng thời cơ, buông mình giăng tơ mỏng, những<br /> nhận biết và hiểu kiến thức đã học. GV có sợi tơ trắng tinh đan cẩn thận góc nhà.<br /> thể cho HS làm việc thực tế với ngữ liệu. Yêu cầu tìm từ có trong đoạn văn trên<br /> Ví dụ, bài kiểm tra sau phần từ loại: và điền đúng vào cột tương ứng:<br /> <br /> Bảng 5. Xác định từ loại<br /> <br /> Danh từ Động từ Tính từ Tình thái từ …<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Đây là dạng bài kiểm tra khả năng trắng tinh… để điền vào đúng cột đã cho.<br /> nhận biết và hiểu vấn đề của học sinh. Ở mức độ (3) và (4), kiểm tra khả<br /> Với yêu cầu ở mức độ hiểu, GV phải năng vận dụng và vận dụng sáng tạo, GV<br /> lựa chọn những ngữ liệu có độ khó tương có thể đưa ra những yêu cầu cao hơn, buộc<br /> đối, đảm bảo cho việc HS phải hiểu kiến HS phải lựa chọn tình huống hoặc ngữ<br /> thức mới có thể xác định đúng đối tượng. cảnh sử dụng gắn với thực tế. Chẳng hạn:<br /> Chẳng hạn, nếu không hiểu một cách thấu Điền các từ chắc chắn, hình như, hay,<br /> đáo kiến thức về tính từ, HS khó có thể hoặc vào dòng phù hợp trong bảng dưới<br /> chọn được các từ như héo quắt, bạc phếch, đây; đặt câu với mỗi trường hợp.<br /> <br /> Bảng 6. Kiểm tra khả năng vận dụng từ ngữ<br /> <br /> Mục đích Từ tương ứng Đặt câu ví dụ<br /> Thể hiện độ tin cậy cao<br /> Thể hiện độ tin cậy thấp<br /> Lựa chọn khẳng định<br /> Lựa chọn nghi vấn<br /> <br /> <br /> Một điểm đặc biệt của việc vận dụng đã có thể cho HS thực hiện xong một bài<br /> phương pháp biểu đồ trong kiểm tra đánh kiểm tra. Điều này giúp GV có thể triển<br /> giá là tính tiện lợi về cách thức và tiết kiệm khai việc kiểm tra thường xuyên và nắm<br /> về thời gian. Chỉ cần 5 phút đầu/cuối giờ được mức độ hiểu bài của HS một cách<br /> học, bằng hình thức phát phiếu học tập, GV nhanh chóng.<br /> <br /> 83<br /> SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019)<br /> <br /> <br /> 4. Thực nghiệm và kết quả sơ đồ như các cách đã trình bày. Có thể<br /> Để khẳng định được mức độ khả thi soạn riêng thành các sơ đồ, các bảng biểu<br /> của phương pháp, chúng tôi đã tiến hành để đến lớp trình bày. Phương pháp biểu đồ<br /> thực nghiệm tại một số lớp của các trường càng phát huy được hiệu quả hơn với sự hỗ<br /> THCS tại Nghệ An (THCS Hưng Tây, trợ của phương tiện công nghệ như bảng<br /> THCS Lam Thành, THCS Nguyễn Trường chiếu, bảng tương tác hiện nay.<br /> Tộ của huyện Hưng Nguyên) bằng cách Về phía HS, các em hoàn toàn có thể<br /> phân thành 2 nhóm lớp: lớp thực nghiệm (3 độc lập tạo các bảng/biểu đồ theo cách hiểu<br /> lớp, 120 HS) và lớp đối chứng (3 lớp, 120 của mình để hiểu bài và nắm vững kiến<br /> HS) với một số bài học cụ thể. Ví dụ với thức nhanh chóng. Bằng việc độc lập xây<br /> bài Tổng kết về từ loại (Ngữ văn 9). Với dựng biểu đồ, HS có thể hiểu rõ quan hệ<br /> lớp thực nghiệm, chúng tôi cho tiến hành của các đơn vị khái niệm trong biểu đồ là<br /> xây dựng bảng tổng kết các từ loại trong hiểu được bài chắc chắn. Đồng thời khả<br /> tiếng Việt (theo Bảng 1); với lớp đối năng tư duy logic, khái quát hệ thống của<br /> chứng, chúng tôi để tiến hành theo hình các em cũng được hình thành.<br /> thức “cuốn chiếu”. Chúng tôi đã tiến hành Nhìn từ hai phía người dạy và người<br /> kiểm tra ngay sau khi học với đề bài: học, phương pháp sử dụng bảng/biểu đồ<br /> “Phân biệt hệ thống thực từ và hư từ trong giúp hình dung được vấn đề (nội dung bài<br /> tiếng Việt”. Kết quả là 100% HS lớp thực học) được rõ hơn, nhanh hơn, có ấn tượng<br /> nghiệm tiến hành phân biệt hai hệ thống hơn. Từ đó, học sinh tích cực, chủ động hơn;<br /> thực từ và hư từ bằng cách lập bảng theo 3 bài học ấn tượng hơn, đơn giản, tiết kiệm<br /> tiêu chí: ý nghĩa phạm trù, khả năng kết thời gian hơn, hiệu quả đạt được cao hơn.<br /> hợp, chức vụ ngữ pháp trong khi 75.5% HS<br /> lớp đối chứng lần lượt trình bày khái niệm TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> thực từ rồi đến hư từ. Chỉ 24.5% phát triển 1. Bộ Giáo dục & Đào tạo (2015), Sách giáo<br /> thêm được phần so sánh, chỉ ra điểm khác khoa Ngữ Văn (các lớp 6, 7, 8, 9), NXB<br /> giữa hai nhóm từ này. Giáo dục Việt Nam.<br /> Như vậy, sự khác biệt giữa hai lớp HS 2. M.N. Iakovlev (1983), Phương pháp và kỹ<br /> này không chỉ ở cách làm bài mà cả cách thuật lên lớp trong trường Phổ thông, H,<br /> tư duy. NXB Giáo Dục.<br /> 5. Kết luận 3. Phạm Thị Minh Thúy (2009), Sử dụng<br /> Qua thực tiễn áp dụng phương pháp Graph trong dạy học tiếng Việt, Tạp chí<br /> này, chúng tôi nhận thấy: Khoa học ĐHSP TP.HCM, số 17.<br /> Về phía người dạy, thầy cô giáo chỉ 4. Tony Buzan (2009), Master your memory<br /> cần bám sát nội dung từng bài và chương (Bản dịch tiếng Việt của Lê Huy Lâm),<br /> trình, tổng hợp kiến thức rồi vẽ thành các NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.<br /> <br /> <br /> Ngày nhận bài: 09/07/2018 Biên tập xong: 15/12/2018 Duyệt đăng: 20/01/2019<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 84<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0