intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Văn hóa Nõ Nường : LỄ HỘI NÕ NƯỜNG Ở CÁC LÀNG

Chia sẻ: Thai Ngoc Han | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:34

134
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ở nước ta, vùng đồng bằng Bắc bộ xưa, những tập tục khởi nguyên từ xa xăm của lịch sử vẫn còn lưu truyền lại dấu ấn văn hóa mãnh liệt tới tận ngày nay. Trong các làng quê, có nơi dựng miếu thờ thần Nõ Nường như làng Dị Nậu và làng Tứ Xã (Phú Thọ), hoặc có làng thờ vật linh ở một nơi trong đình, vào đầu xuân mở lễ hội hèm tục: tranh cướp vật linh như quả cầu, cây đòn, bắt chệch trong chum bắt vịt dưới hồ v.v. Không rõ rang là trò chơi, vì...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Văn hóa Nõ Nường : LỄ HỘI NÕ NƯỜNG Ở CÁC LÀNG

  1. Văn hóa Nõ Nường : LỄ HỘI NÕ NƯỜNG Ở CÁC LÀNG
  2. cuốn “Văn hóa Nõ Nường” – Dương Đình Minh Sơn Ở nước ta, vùng đồng bằng Bắc bộ xưa, những tập tục khởi nguyên từ xa xăm của lịch sử vẫn còn lưu truyền lại dấu ấn văn hóa mãnh liệt tới tận ngày nay. Trong các làng quê, có nơi dựng miếu thờ thần Nõ Nường như làng Dị Nậu và làng Tứ Xã (Phú Thọ), hoặc có làng thờ vật linh ở một nơi trong đình, vào đầu xuân mở lễ hội hèm tục: tranh cướp vật linh như quả cầu, cây đòn, bắt chệch trong chum bắt vịt dưới hồ v.v. Không rõ rang là trò chơi, vì không nhất thiết ăn thua giữa hai phe, (tranh cướp) do đó mà thiếu quy tắc rành rành, diễn ra có thể trong đình, có thể trên sân đình, có khi trong hai không gian, nhưng rõ rang có liên quan đến lễ tế trong đình, dù không hề ở trung tâm của lễ thức ấy.
  3. Những vật linh tranh cướp trong lễ hội, sau hội được đem ngâm xuống hồ lấy nước tưới ruộng. Hình ảnh Linga Yoni của người Chăm ở miền Nam được biểu tượng như hình cối xay lúa (hình 1). Không những trong lễ hội mà hàng ngày, người thập phương đến lễ bái, người ta đều lấy nước mở máng để làm phước lành, may mắn, điều đó giống như ở Hà Nội, du khách có lệ sờ đầu rùa trong Văn Miếu.
  4. Hình 1
  5. Nó là vết tích của những lễ thức đã chìm vào dĩ vãng, đã thoát hẳn khỏi ký ức của con người tham gia lễ hội – trong những thời chưa quá xa. Nói về dòng lễ hội này, ở vùng Đoài xưa có câu ca: Bơi Đăm rước Gía hội Thầy Vui thì vui vậy không tầy rã La Bơi Đăm là hội bơi chải lớn của làng Đăm tên tục của làng Tây Tựu; rước Gía là đám rước lớn ở làng Gía tên tục của làng Yên Sở; còn hội Thầy ở núi Sài làng Thụy Khê, tỉnh Sơn Tây cũ. Song cả ba nội (bơi, rước và hội Thầy) đều không vui, chỉ vui ở hội rã La. Vậy tại sao chỉ vui ở rã La –
  6. tức là phút rã đám của hội làng La? – làng La Khê Nam tục gọi là làng Nam thuộc huyện Hoài Đức tỉnh Hà Đông cũ. Lâu nay người ta giải thích cho sự vui của rã La, đó là việc cuối lễ hội người ta “sờ soạng nhau” sau đó thì hội giải tán. Xoay quanh việc sờ soạng để người ta nảy ra nhiều tình huống khác nhau trong tiến trình của hội này, bởi do nhãn quan của từng tác giả viết. Nhưng đây là dòng lễ hội hèm tục người đời sau ở làng ấy chỉ biết làm theo từng động thái, cử chỉ hệt như nếp cũ, làm xong là thôi, cất cái sự hèm đi, không bàn tán, không nói cho ai biết, đợi sang năm mới làm lại. Hèm tục ấy như kiểu làm Đôi đũa bông trên bát cơm cúng người chết, chỉ biết làm đúng mẫu, không cần biết nội dung. Người làng ấy mà còn chỉ biết làm theo phong tục, không biết gì, nhưng người làng khác phỏng đoán nội dung mà nói ra. Người nghiên cứu ngày trước nhờ người ở làng khác nói ra mà viết thành chuyện Rã La.
  7. Theo tư liệu của cụ Toan Ánh làng La có tục thờ thần ăn trộm dâm, do đó lễ hội của làng cũng phải thực hiện theo động thái của vị thần kia. Làng La vào đám trong hai ngày mồng 6 và mồng 7 tháng Giêng âm lịch. Vào chiều mồng 6 dân làng tập trung đông đủ già trẻ, gái trai tại đình làng. Khoảng bắt đầu tối có lễ cáo tế, dâng sớ rất long trọng, vào nửa đêm tiến hành lễ mật tắt đèn, dân làng bắt chước thần mà tiến hành ăn trộm lẫn nhau, cả trong đình và ngoài sân, sau đó thì đèn sáng lại – vì lễ hội này là “hèm” cho nên ai cũng phải đi dự trừ người quá già và trẻ em. Sáng hôm sau tiến hành rước thần ăn trộm, người đi chật cả đường: kiệu bà đi trước, kiệu ông đi sau. Ở sau kiệu bà có đặt cái cối, trước kiệu ông có treo cái chày. Chủ tế đi giữa thỉnh thoảng lấy chày ông đến giã vào cối bà mấy cái, cứ mỗi lần giã xuống lại day day cái chày vào cối mấy day. Đám rước đi
  8. từ đình vòng quanh làng rồi trở về đình. Vào chiều tan hội thì có cuộc “lễ thức” rã đám (Rã La). Chủ tế ném đôi Nõ Nường ra trước đám hội để cho mọi người tranh cướp, đến độ vật linh Nõ Nường dập nát ra từng mảnh. Ai cướp được một mảnh là may mắn cả năm cho bản thân và gia đình, ngược lại ai không cướp được mảnh nào nhưng được dự vào đám hội cướp Nõ Nường là vinh dự, may mắn và vui vẻ lắm rồi. Có câu: tả tơi xem hội là vậy, và đó là cái vui của rã La. Người ta tin rằng dự hội cướp vật linh sẽ đem lại sự may mắn cả năm cho bản thân và gia đình. Lễ hội Nõ Nường các làng mở vào các ngày chẵn. Làng Đông Kị tỉnh Bắc Ninh mở hội từ ngày 30 tháng Chạp đến 10 tháng Giêng, với nhiều tục cổ và trò vui, trong đó có tục rước Nõ Nường: đi từ miếu (Bà) về đình, rồi từ đình về miếu, do một bô lão dẫn đầu. Bô lão tay trái cầm Nõ tay phải cầm Nường, vừa đi vừa hát:
  9. Cái sự làm sao cái sự thế vầy Cái sự thế nầy cái sự làm sao Hát xong hai câu ca này, ông lấy Nõ “phộc” vào Nường. Hát và làm như thế ba lần rồi nghỉ một lát, sau đó lại hát và làm tiếp. Đoàn người rồng rắn đi sau, cũng theo ông ca hát và đến chữ cuối thì nắm tay trái “phộc” vào bàn tay phải. Cuộc diễn xướng này kéo dài cho đến kết thúc đám rước. Ngoài ra, để làm thuốc phòng bệnh, người ta còn làm bánh trái theo mẫu hình Nõ Nường để dùng trong ẩm thực và mở lễ hội vào đầu xuân hàng năm. Chẳng hạn làng Sơn Đồng, huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây có hội múa Mo: dùng gậy bằng gỗ vông “phộc” vào mo nang (cây măng). Hội tổ chức vào ngày mồng 6 tháng 3 âm lịch, trong cỗ cúng
  10. thần hoàng làng có bánh cuốn và bánh dầy. Cúng tế xong thì dành một phần bánh đem biếu các làng bên cạnh. Cao dao địa phương có câu: Sơn Đồng có hội múa mo Bánh dầy bánh cuốn đem cho các làng. Những năm được mùa thì hội tổ chức càng sôi nổi. Chiều ngày mồng 6 dân làng tập trung tại đình, trai chưa vợ gái chưa chồng là háo hức nhất. Một ả đào tay phải cầm Nường tay trái cầm Nõ hát câu ca quen thuộc như làng Đồng Kị: Cái sự làm sao cái sự thế vầy Cái sự thế nầy cái sự làm sao Hát xong hai câu này thì dùng Nõ “phộc” vào Nường. Hát và múa như thế ba lần. Đám người đứng dự hội xung quanh
  11. cũng hát và hai tay làm theo động tác “phộc” vào nhau. Trò diễn múa Mo kết thúc thì vật linh Nõ Nường cất lên bàn thờ, hội chuyển sang các hình thức chơi các trò diễn khác. Chiều ngày mồng 7 lại diễn trò múa mo và tiến hành như hôm trước. Kết thúc trò diễn múa mo, ả đào ném tung đôi Nõ Nường ra giữa đám hội để cho mọi người tranh cướp như làng La Khê. Theo lời truyền lại, năm nào làng không cử hành lễ hội này thì trong làng sinh ra lắm điều ngang trái: ốm đau, dịch bệnh, gia súc bệnh hoạn, mùa màng thất bát, người buôn bán thua lỗ v.v… Vì thế, những gia đình giàu có và nhất là nhà cần cầu tự, nhưng do người nhà yếu sức không vào tranh cướp được, người ta phải thuê trai tráng vào cướp thay mình. Trước khi thực hiện, phải làm lễ giao ước cẩn trọng giữa hai bên thì tinh thần của cuộc tranh cướp vật thiêng đó mới thuộc về chủ
  12. thuê. BẮT CHỆCH TRONG CHUM Làng Văn Trương (phủ Vĩnh Tường, Vĩnh Yên) nay là tỉnh Vĩnh Phúc, mở hội xuân vào mồng 6 tháng giêng âm lịch, thu hút rất đông nhân dân quanh vùng. Ca dao có câu: Bỏ con bỏ cháu Chẳng ai bỏ mồng 6 hội Dưng Dưng là tên tục của làng Văn Trương. Trong ngày hội có nhiều trò vui được tổ chức trước cửa đình, bên cạnh chợ như bơi thuyền, thi chạy, đốt pháo…và đặc biệt nhất là cuộc thi “Bắt chệch trong chum”. Trước sân đình bày một hàng 4 chiếc chum, mỗi chum đựng
  13. 2/3 nước và thả một đôi chệch. Giải thưởng gồm khăn lụa hồng, trà Tầu, trầu cau, tiền. Cuộc thi mở cho tất cả mọi người, nhưng muốn dự thì phải một nam, một nữ (hình 2). Theo tục “hèm” của thần hoàng làng, cuộc thi bắt chệch trong chum của các đôi trai gái phải được tiến hành theo các thể thức như sau: cô gái, tay phải ôm ngang lưng trai, tay trái khoắng vào trong chum nước, và chàng trai, tay trái ôm qua người con gái, bàn tay nắm lấy vú, còn tay phải khoắng vào trong chum nước. Đôi trai gái vừa ôm nhau vừa bắt cho kì được một con chệch mới thôi. Có bao chum thì có bấy nhiêu cặp trai gái dự thi. Ban giám khảo gồm các bô lão và quan viên trong làng. Họ ngồi trên thềm đình ngắm những đôi trai gái và bắt bẻ nếu như có những cặp vì mải bắt chệch mà bỏ lơi tay ôm nhau. Cặp nào bắt được chệch trước là được giải. Có năm một đôi ông bà già cũng xin vào thi. Nằm trong dòng lễ hội hèm tục này, ở miền Bắc nước ta ngày xưa nhiều làng có tục mở hội bắt chệch, hoặc hội bắt vịt dưới hồ ở miền
  14. Trung (làng Bích La Trung, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong tỉnh Quảng Trị).
  15. Hình 2 - Làng Ngô Xá (huyện Võ Giàng – Bắc Ninh) thờ một “dâm thần”. Hàng năm cứ vào hội xuân (12 tháng 3) và hội thu (18 tháng 9) gọi là xuân tế thu tế. Trong cuộc tế có hát ả đào thờ thần. Giữa cuộc, trai gái đốt pháo lên, nghi lễ tạm ngừng, ả đào nghỉ hát, bao nhiêu đèn nến trong đình tắt hết, trai gái trong làng tha hồ đùa nghịch nhau vài khắc sau, đèn nến lại thắp lên, cuộc tế tiếp tục. - Làng Niêm thượng (Khắc Niệm thượng) tục gọi làng Ném (huyện Võ Giàng – Bắc Ninh) thờ một vị thần, sinh thời đi ăn cướp nên trong hai ngày hội làng (mồng 5,6 tháng giêng) có nhiều tục kỳ lạ, trong đó có tục tắt đèn. Làng có ba giáp. Đêm mồng 5 hai giáp thì thổi xôi tại đình. Giáp nào xong trước đổ
  16. xôi ra nong rồi ra hiệu tắt đèn nến trong đình, một người đội nong xôi, đi theo có mấy người khác vác đuốc chạy quanh định báo cho dân làng biết giáp mình đã chiếm giải. Trong lúc đó trẻ con chạy xô đuổi theo. Reo hò ầm ĩ, nhưng trai gái trong làng thì ở lại trong đình đùa nghịch nhau trong bóng tối. Xã Đông Yên tỉnh Bắc Ninh cũng có tục tương tự. - Làng Đan Nhân (Bắc Ninh) thờ thần hổ, hội làng cử hành trong tháng giêng, đêm rã đám có buổi tế cuối cùng, sau đó có cả đào hát thờ thần, một kì mục đội lốt cọp nấp dưới bàn thờ. Vào khoảng nửa đêm ả đào đang hát bỗng đèn nến tắt hết, kì mục nhảy ra cắn ả đào, trai gái cũng vồ nhau mà đùa nghịch, một lát sau lại thắp đèn, kì mục cọp cởi lốt lạy tạ thần, trai gái trở lại chỗ cũ nghiêm chỉnh ngồi nghe hát. Đến canh ba con gái ra về, con trai ở lại cùng bô lão quan viên ăn uống suốt đêm, hôm sau là hết hội. - Làng Duyên tục (phủ Tiên Hưng, Thái Bình) thờ một thần
  17. dâm lúc sống làm nghề ăn trộm dâm bị bắt quả tang và bị đánh chết, chết gặp giờ thiêng hiển linh được thờ dưới tên là thần “Dâm”. Trong đêm rã đám, mọi người tụ họp trong đình thôn thượng đủ cả già trẻ trai gái. Rồi đèn đóm tắt hết mọi người túm lấy nhau mà dâm. Dâm qua, lại đùa nghịch nhau hồi lâu, đèn nến lại thắp lên mọi người bình tĩnh ra về coi như không xảy ra việc gì. - Làng Khúc Lạc và làng Dị Nậu (Phú Thọ) cũng thờ “dâm thần”, vào những ngày 07 và 26 tháng giêng đồ lễ cúng thần ngoài trầu cau, rượu thịt có 36 sinh thực khí, 18 âm 18 dương tục gọi là “Nõ Nường” (đọc trại theo tiếng địa phương là Nõ Nàng) được đặt trên bàn thờ. Tế xong cỗ, thì đám rước Nõ Nường đi quanh làng với 18 thanh nam và 18 thanh nữ tuổi từ 16 – 18 chọn trong hàng gái xinh, trai lịch mỗi người
  18. mang một sinh thực khí, trai mang Nõ gái mang Nường vừa đi vừa hát những câu khơi gơi. Ví dụ trai hát: “Dịch dình dinh, anh có cái yếm lưỡi cày Anh chẳng cho mày, thì để cho ai” Gái hát: “Dịch dình dinh, em có cái vò rượu tăm Em để anh uống anh nằm với em” Đám rước đi quanh lảng rồi trở về đình chuẩn bị tổ chức tranh dành những Nõ Nường. Nõ Nường được treo lên một cành tre, rồi vị bô lão lớn tuổi nhất rung cho Nõ Nường rơi xuống, trai gái và dân làng xô đẩy nhau và đùa nghịch nhau cướp lấy Nõ Nường. Cướp được là một may mắn, nhất là những đôi trai gái sắp cưới nhau hay những cặp vợ chồng
  19. mới cưới nhau. Cướp được chiếc âm sinh con gái, được chiếc dương sẽ sinh con trai, được thần phù hộ. Có khi Nõ Nường treo lên cây, rồi rung cho rơi từng cái một để mọi người cướp được cho cuộc vui kéo dài. Ở một làng khác của vùng Hải Dương – chúng tôi quên đặt tên (Lê Văn Hảo) giáp giới Bắc Ninh có tục thờ, rước và cướp Nõ Nường khi rước cũng có hát: Trai hát: “Cái sự thế sừ là cái sự thế nào” Gái hát: “Cái nạy thế này là cái sự thế này”
  20. Trong khi đó ông bô lão đi đầu đám rước mang hai sinh thực khí ở hai tay vừa múa vừa lắp hai vật vào với nhau. Việc dùng “dùi đục” “mo nang” cũng được diễn ra trong triều đình đến thời nhà Trần. Sách Cương mục ghi: Trần Thái Tông lên ngôi ở điện Thiên An trăm quan đến dự, đến tiệc có người tay cầm “dùi đục” đầu đội “ma nang” đứng chỉ huy múa hát và uống rượu và sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi: Vua ban yến ở nội điện, các quan đều dự. Đến khi say, mọi người đứng cả dậy, dang tay mà hát. Ngự sử Trung tướng (sau đổi là Trung úy) Trần Chu Phổ cũng dang tay theo mọi người, nhưng không hát câu gì khác, chỉ nói: “Sử quan ca rằng, sử quan ca rằng”. Qua hai hiện tượng trên, Phạm Đình Hổ sách Vũ trung tùy bút ở mục Bàn về âm nhạc đã viết: Đời Lý đời Trần tập tục còn chất phác, còn sử thần Ngô Sĩ Liên phê phán rằng: “Trong yến tiệc, có người đội mo nang, cầm dùi đục làm tửu
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2