HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1067.2019-0041<br />
Social Sciences, 2019, Volume 64, Issue 8, pp. 12-22<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
<br />
<br />
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG H’MÔNG TRONG TIỂU THUYẾT<br />
LẶNG YÊN DƯỚI VỰC SÂU CỦA ĐỖ BÍCH THÚY<br />
<br />
Lê Trà My<br />
Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br />
<br />
Tóm tắt. Lặng yên dưới vực sâu của Đỗ Bích Thúy đã tạo dựng một không gian<br />
văn hóa với tầng lớp các mã văn hóa dân gian, văn hóa cộng đồng của miền cao<br />
cực bắc Việt Nam. Đó là một bức tranh đời sống với những đặc trưng của địa bàn<br />
cư trú, với các tập tục sinh hoạt, tập quán canh tác, cách thức mưu sinh, các thủ tục,<br />
lễ nghi của người H’mông. Hệ thống mã văn hóa H’mông đã tạo nên một không<br />
khí truyện đầy chất vùng cao. Lớp không gian tự sự vùng cao trở thành kí hiệu<br />
quyển (semiosphère), trường lực của nó chi phối mạnh mẽ và kết dính hệ thống<br />
motip truyện kể. Nhà văn đã tái sinh các motip dân gian như cướp vợ, mồ côi, tự<br />
vẫn, tạo nên những biến thể mới, duy trì và làm đa dạng gene văn hóa cộng đồng.<br />
Tác phẩm đã khơi vào kí ức tộc người, sử dụng nét văn hóa đặc thù truyền thống,<br />
kết hợp với những cách thức tự sự mới để nói những câu chuyện của người<br />
H’mông thời hiện đại.<br />
Từ khóa: Văn hóa H’mông, motip dân gian, mã văn hóa.<br />
<br />
1. Mở đầu<br />
Thế giới bước vào thời kì văn hóa hậu công nghiệp, thời đại hậu hiện đại, thời của<br />
số hóa, thế giới phẳng. Trong bối cảnh đương đại, khi nhiều nghệ sĩ thử nghiệm những<br />
phương thức sáng tạo mới, chọn những cách biểu hiện hiện đại cho những vấn đề có<br />
tính quốc tế, dễ hội nhập, xóa nhòa ranh giới khu vực, thì Đỗ Bích Thúy lại chọn cho<br />
mình con đường tìm về với những nét văn hóa độc đáo, giàu bản sắc của vùng cực bắc<br />
Việt Nam. Vùng đất Hà Giang quê chị và cuộc sống của đồng bào các dân tộc nơi đây<br />
đã trở thành nguồn chất liệu dồi dào, khơi mạch cho nhiều trang viết của chị. Có thể<br />
thấy, trong những đề tài mà chị đã viết, đề tài miền núi, không gian, con người vùng cao<br />
vẫn có chất dính riêng, làm nên sức cuốn hút của văn xuôi Đỗ Bích Thúy. Tiểu thuyết<br />
mới nhất của chị - Lặng yên dưới vực sâu – lại một lần nữa cho thấy cái duyên của chị<br />
với mảng đề tài này.<br />
Lặng yên dưới vực sâu xuất bản năm 2017. Tiểu thuyết được xuất bản sau khi tác<br />
giả hoàn thành 32 tập kịch bản phim cùng tên (phim đã được khởi quay và chiếu trên<br />
VTV3 vào tháng 4/2017). Nó có tiền thân là một truyện ngắn cùng tên chị đã xuất bản<br />
<br />
Ngày nhận bài: 19/6/2019. Ngày sửa bài: 29/7/2019. Ngày nhận đăng: 5/8/2019.<br />
Tác giả liên hệ: Lê Trà My. Địa chỉ e-mail: tramyle2311@gmail.com<br />
<br />
12<br />
Văn hóa truyền thống H’mông trong tiểu thuyết Lặng yên dưới vực sâu của Đỗ Bích Thúy<br />
<br />
trước đó. Với ba đời sống của Lặng yên dưới vực sâu, công chúng thì chủ yếu quan tâm<br />
đến phim, một số trang web của các nhà xuất bản, công ti sách giới thiệu sách thì chú ý<br />
đến review cho tiểu thuyết, một số rất ít độc giả có nhắc đến truyện ngắn. Về tiểu thuyết<br />
Lặng yên dưới vực sâu, đã có một số bài điểm sách giới thiệu nội dung của tiểu thuyết;<br />
nó cũng được nhắc đến như một sự đối sánh khi người ta giới thiệu và phân tích bộ<br />
phim. Tiểu thuyết này cũng đã bước đầu được nghiên cứu trong nhà trường (khóa luận<br />
tốt nghiệp Tiểu thuyết lặng yên dưới vực sâu của Đỗ Bích Thúy nhìn từ phạm trù thẩm<br />
mĩ cái bi kịch của sinh viên Từ Thị Tuyết Trinh, ĐHSPHN 2, 2018) [1]. Nhìn sơ bộ,<br />
lịch sử nghiên cứu tiểu thuyết này còn rất thưa thớt, nó chưa nhận được sự quan tâm của<br />
các nhà nghiên cứu.<br />
Bài viết này đề cập đến vấn đề dấu ấn văn hóa truyền thống H’mông trong một cấu<br />
trúc truyện kể hiện đại như là một cách nhận diện văn học từ văn hóa, một cách nhận ra<br />
những kết nối văn hóa, mã văn hóa trong tiểu thuyết.<br />
<br />
2. Nội dung nghiên cứu<br />
Lặng yên dưới vực sâu là câu chuyện của người H’mông thời đương đại. Dù dấu<br />
vết thời đại hơi mờ nhạt, người đọc vẫn nhận ra thời của xe máy đã lên núi thay bước<br />
chân người, thời của các trường dân tộc nội trú vùng cao, thời vùng cao đã có điện, có<br />
trường, trẻ con uống sữa bột… Tuy nhiên, cách sống, cách nghĩ của con người trong<br />
cuộc sống hôm nay vẫn mang nhiều nét văn hóa truyền thống của người H’mông. Cuốn<br />
tiểu thuyết giống như một miếng thổ cẩm trên đó dày đặc các hoa văn trang trí ghép lại<br />
từ nhiều motip văn hóa truyền thống mang đặc trưng đời sống của người H’mông. Để<br />
kết dính các mảng mầu văn hóa, tác giả đã tạo ra một không gian tự sự phản chiếu tập<br />
tục sinh hoạt cùng những quan niệm sống lâu đời của tộc người H’mông.<br />
2.1. Địa bàn cư trú và không gian văn hóa<br />
Câu chuyện xảy ra ở U Khố Sủ. Tác giả lấy tên địa danh U Khố Sủ - một thôn<br />
nghèo của huyện Hoàng Su Phì (Hà Giang) - để gắn cho không gian của truyện. U Khố<br />
Sủ cũng là một trong những nơi có nhiều người H’mông sinh sống nhất ở Hà Giang. Cái<br />
tên địa danh trong truyện đã khiến người đọc có những liên tưởng và hình dung về vùng<br />
không gian mang đậm chất H’mông, một thế giới của người H’mông. Không gian hiện<br />
lên trong tác phẩm như núi cao, vực sâu, sông chảy xiết, mỏm đá chênh vênh, mùa đông<br />
tuyết phủ trắng núi đồi… cũng chính là hình ảnh của địa bàn cư trú quen thuộc và ưa<br />
thích của người H’mông. Không gian thiên nhiên phản ánh địa bàn sinh sống mà người<br />
H’mông đã lựa chọn, cũng là phản ánh văn hóa sinh tồn của người H’mông. Con<br />
người thuộc về các không gian. Người H’mông trong quá trình thiên di thường chọn<br />
nơi núi cao để sinh sống. Điều này được nói đến trong nhiều tư liệu. Những xã, huyện<br />
có địa hình núi cao ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam thường là nơi cư dân<br />
H’mông ở với mật độ cao so với các dân tộc thiểu số khác, có những nơi trên tám<br />
mươi đến trăm phần trăm là người H’mông (Nà Hẩu, Tà Xùa, Hồng Ngài, Bắc Hà,<br />
Simacai, Mèo Vạc…). Núi cao thì vực sâu. Trong tác phẩm này, độ cao không là đơn<br />
vị đo ý chí và đặc tính người H’mông như thường thấy, mà độ cao lại trở thành cái để<br />
quy chiếu độ sâu. Cả câu chuyện là thế giới của khổ đau, cuộc sống con người ngấp<br />
nghé bên bờ vực hoặc chọn điểm kết thúc ở nơi vực sâu không ai biết đâu là đáy.<br />
Không gian U Khố Sủ, đối với Súa, Phống, Chía (những nhân vật trong truyện) là nơi<br />
13<br />
Lê Trà My<br />
<br />
của những ngang trái, bất hạnh thì vực sâu lại là nơi giải thoát. Cấu trúc không gian<br />
mang tính kí hiệu cho cấu trúc xã hội.<br />
Trong tiểu thuyết của mình, Đỗ Bích Thúy đã khảm một bức tranh đời sống bằng<br />
các tập tục sinh hoạt, tập quán canh tác, cách thức mưu sinh, các thủ tục, lễ nghi của<br />
người H’mông. Tất cả đều trở thành kí hiệu thẩm mĩ, chuyển tải những thông điệp thẩm<br />
mĩ. Ông cháu Vừ làm nghề rèn. Đây là nghề truyền thống của người H’mông. Chỉ có họ<br />
mới rèn được những thứ lưỡi cày có thể cày loại đất ken giữa đá nhọn. Nay ở một số nơi<br />
vẫn còn giữ được nghề này. Ông Dìn thì phất lên nhờ buôn bò. Buôn bán trâu, bò, ngựa<br />
là hoạt động không thể thiếu ở nhiều phiên chợ vùng cao. Chợ gia súc vùng biên hay<br />
các cuộc đua ngựa (Bắc Hà) phản chiếu dấu vết của tập tục di chuyển và canh tác bản<br />
địa. Súa thì chăm cả đàn dê. Cho đến nay, việc nuôi gia súc vẫn là hoạt động chủ yếu<br />
trong các gia đình người H’mông. Phụ nữ H’mông vẫn giặt giũ ở suối và phơi áo váy<br />
trên các phiến đá. Đoạn Xí giặt áo cho Vừ làm ta nhớ thói quen này của họ. Ngoài ra,<br />
tục ma chay (đám ma ông nội của Vừ), sinh nở (chôn nhau đứa con trai của Súa dưới<br />
cây cột giữa nhà), cưới xin (xin cưới, đón dâu, cướp vợ)… đều là những luật tục lâu đời<br />
được lưu giữ trong cộng đồng người H’mông mà Đỗ Bích Thúy đã đưa vào trong sáng<br />
tác của mình. Hệ thống mã văn hóa H’mông đã kiến tạo một không khí truyện đầy chất<br />
vùng cao. Lớp không gian tự sự vùng cao trở thành kí hiệu quyển, trường lực của nó chi<br />
phối mạnh mẽ và kết dính hệ thống motip truyện kể.<br />
2.2. Các motip văn hóa truyền thống được tái sinh<br />
2.2.1. Cướp vợ<br />
Tiểu thuyết có bảy phần: 1. Cướp vợ/ 2. Nước mắt đã khô/ 3. Cuốn đi thật xa/ 4.<br />
Trời cho rơi xuống đâu thì đậu ở đấy/ 5. Trong bóng tối sực mùi phân bò/ 6. Đi mãi<br />
cũng về đến nhà/ 7. Lặng yên dưới vực sâu. Nhìn vào cấu trúc nội dung tiểu thuyết nhận<br />
ngay ra sự kiện khởi đầu, có tính quyết định đến toàn bộ tác phẩm là “cướp vợ”. Những<br />
phần sau, chỉ cần đọc tiêu đề là mường tượng thấy những hệ lụy của sự kiện cướp vợ<br />
này. Cướp vợ là một tục lệ của người H’mông. Trong truyện cổ H’mông có kể việc này,<br />
người cướp vợ thường là quỷ dữ, vua gian ác (truyện Chàng trai nghèo, Trâu Trua múa<br />
khèn…). Có thể thấy, ngoài hình thức dạm hỏi, người H’mông còn thực hiện hình thức<br />
hôn nhân cướp vợ (hoặc kéo vợ, bắt vợ). Cướp vợ (tiếng H’mông là Cxangr pox niêv)<br />
chỉ tình huống cô gái đã có người yêu nhưng bị người khác tổ chức cướp về làm vợ,<br />
khác với kéo vợ (tiếng H’mông là jix pox niêv) là hai bên tự nguyện yêu nhau nhưng do<br />
nhà trai không đủ điều kiện kinh tế để tổ chức kết hôn, khác với bắt vợ (tiếng H’mông là<br />
ntêl pox niêv) chỉ tình huống chàng trai thích cô gái và bắt về làm vợ dù cô gái không tự<br />
nguyện, chàng trai sẽ phải chấp nhận thách cưới cao. Các cách gọi này có ý nghĩa tương<br />
đối, đôi khi dùng không phân biệt. Có trường hợp chỉ là vờ tạo thành một cuộc cướp vợ<br />
trong khi hai bên đã có sự thỏa thuận ngầm. Dân ca của người H’mông cũng có nói tình<br />
huống này:<br />
Gặp nhau bàn chuyện<br />
Anh cướp em về<br />
Anh hẹn ngày kia<br />
Em gật đầu khẽ<br />
Giấu cha giấu mẹ<br />
14<br />
Văn hóa truyền thống H’mông trong tiểu thuyết Lặng yên dưới vực sâu của Đỗ Bích Thúy<br />
<br />
Em mặc váy hoa<br />
Mắt ướt nhìn nhà<br />
Chạy ra đầu bản<br />
Miệng vờ hô hoán<br />
“Trai họ cướp tôi!...”<br />
Nhưng đến đây rồi<br />
Lên lưng anh cõng<br />
(Cẩm Giang sưu tầm) [7; 176]<br />
Trong Lặng yên dưới vực sâu, nhân vật chính là Súa và Vừ cũng tổ chức một cuộc<br />
vờ cướp dâu như thế. Vừ và Súa yêu nhau. Nhà Vừ nghèo, Súa đồng ý cho Vừ “cướp”<br />
để giảm bớt gánh nặng chi tiêu. Họ hẹn nhau trong rừng một đêm tối trời. Nhưng người<br />
cướp Súa lại là Phống, con một nhà giàu trong bản. Như vậy, một cuộc vờ cướp vợ trở<br />
thành một cuộc cướp vợ thực sự.<br />
Khi đưa vào truyện motip cướp vợ, tác giả chú ý khơi sâu vào những phản ứng tâm<br />
lí của các nhân vật, điều không được diễn tả trong văn học dân gian. Phống ngạo nghễ,<br />
đắc thắng vì chiếm được Súa, “Tráng A Phống này, ông trời cũng chẳng sợ. Thích cái gì<br />
thì bằng mọi cách lấy thứ ấy về dùng. Vợ cũng thế. Phống đã thích thì dù thế nào Phống<br />
cũng sẽ cướp lấy”. Còn Vừ, khi nhận ra tình cảnh bị cướp vợ, “Vừ đấm bụp bụp vào<br />
ngực mình”, tuyệt vọng chạy tìm Súa “Gió quất vù vù bên ai Vừ, lá cây rụng tơi tả vì bị<br />
Vừ quệt qua, sương ướt sũng áo quần Vừ”, “Nước mắt chảy đầm trên mặt Vừ”, “Nước<br />
mắt cứ chảy, mờ hết cả mắt, vừa chạy vừa đưa tay lên quyệt để không đâm sầm vào gốc<br />
cây”. Còn Súa “kêu cứu muốn rách cả họng mà chả được, nhảy xổ vào Phống, Súa cào<br />
cấu, Súa đạp, Súa đấm bụp bụp…”, “Súa chỉ còn ý nghĩ duy nhất là lao đầu vào tường”,<br />
rồi thì Súa chạy trốn khỏi nhà Phống trong đêm.<br />
Sự kiện cướp vợ mở ra một chuỗi bi kịch của từng người trong câu chuyện. Sự<br />
chung tình với Vừ và bản tính mạnh mẽ khiến Súa chống cự Phống quyết liệt. Kể cả khi<br />
cô đã sinh cho Phống một đứa con trai thì trong cô vẫn không có tình yêu với Phống,<br />
chỉ có sự ghê sợ. Chuỗi ngày cô sống với Phống chỉ là đau đớn, cả thể xác và tâm hồn.<br />
Súa chấp nhận và chịu đựng, cô tự thấy mình chẳng khác gì một quả bí thối, đến lợn<br />
cũng chẳng ăn được; giống một bắp ngô luộc để từ sáng đến tối, vừa cứng như đá vừa<br />
lạnh như tuyết; giống một bông tuyết mùa đông, trời cho rơi xuống đâu thì đậu ở đấy;<br />
trống rỗng như cái chõ gỗ đã vét hết mèn mén, một hạt li ti cũng không còn... Trong sự<br />
chấp nhận và chịu đựng ấy, Súa vẫn le lói khát vọng giải thoát: trốn đi hoặc chết. Vừ thì<br />
đau đớn cùng cực khi bị người khác bắt mất Súa. Đôi khi Vừ tìm đến rượu, từ đứa trai<br />
ngoan thành kẻ say làm khổ người thân. Súa “cậy nhờ” cô bạn gái là Xí làm vợ Vừ,<br />
chăm sóc Vừ. Sáng sớm ngày cưới của Vừ và Xí, Xí đã trốn khỏi nhà, đến gặp Súa vì<br />
biết rằng trong Vừ không bao giờ nhạt phai hình ảnh Súa, cô có lấy Vừ chắc cũng<br />
không hạnh phúc. Đến khi kết thúc truyện, cuộc sống của Vừ vẫn dang dở với hy vọng<br />
sẽ cùng Súa trốn đi một nơi thật xa. Còn Phống, có được Súa, rất thích Súa, yêu thương<br />
Súa và con, nhưng chỉ chiếm được phần xác của Súa chứ không bao giờ chạm đến được<br />
trái tim Súa. Điều đó cũng làm cho Phống sống trong những trạng thái đối nghịch: yêu<br />
thương, ân hận, tuyệt vọng, điên cuồng, rồ dại, và trên hết là nỗi cô đơn.<br />
<br />
<br />
15<br />
Lê Trà My<br />
<br />
Sự kiện cướp vợ trở thành khung truyện để tác giả khơi sâu vào cuộc sống dang dở,<br />
bế tắc của những bạn trẻ vùng cao U Khố Sủ. Nếu nhìn từ góc độ xã hội học thì câu<br />
chuyện của Vừ, Súa, Phống là sự cảnh báo cho tục hôn nhân không trên cơ sở tự nguyện<br />
của người H’mông. Hiện nay vẫn còn có người lợi dụng lề tục này để tiến hành những<br />
cuộc cướp vợ, gây đau khổ cho con người, nhất là người phụ nữ. Nếu nhìn từ góc độ tự<br />
sự học, sự kiện cướp vợ là biến cố tạo cao trào cho truyện kể ngay từ đầu, nó mở ra một<br />
không khí truyện kể mang màu sắc bi kịch, báo hiệu một kết cục tương tự mô hình bi<br />
kịch trong kịch – sân khấu trắng (các nhân vật chết, không có lối thoát), do đó làm cho<br />
truyện giống như một vở kịch mà đây là hành động kịch bao trùm.<br />
2.2.2. Mồ côi<br />
Motip mồ côi, con riêng thường trở đi trở lại trong sáng tác của Đỗ Bích Thúy. Ở<br />
Lặng yên dưới vực sâu, các nhân vật chính đều là những kiểu nhân vật mồ côi mà chúng<br />
ta từng bắt gặp trong thơ ca, truyện cổ H’mông với những biến thể của nó. Vừ mồ côi<br />
bố, mẹ đi lấy chồng, ở với ông bà nội. Súa mồ côi mẹ, ở với bố và mẹ kế. Phống có nhà,<br />
có cha, có mẹ nhưng thực sự lại là người không cha không mẹ.<br />
Có thể bắt gặp kiểu nhân vật mồ côi trong nhiều thể loại văn học dân gian của<br />
người H’mông. Tiếng hát mồ côi trong dân ca H’mông thật xót xa:<br />
Mặt trời mọc, mồ côi theo mặt trời khóc<br />
Mặt trời lặn, mồ côi theo mặt trời mà than<br />
(Doãn Thanh sưu tầm) [5; 289]<br />
Riêng trong truyện cổ tích, theo Lê Trung Vũ, dạng truyện nhân vật mồ côi chiếm<br />
khoảng 50% [8; 56]. Nhân vật mồ côi trong truyện cổ tích thường là những nhân vật bất<br />
hạnh, chịu nhiều đau khổ, thiệt thòi do bị đối xử không công bằng, địa vị xã hội thấp.<br />
Lặng yên dưới vực sâu lặp lại motip mồ côi để khai thác những chủ đề cuộc sống<br />
hiện tại. Sắc thái khổ đau ở các nhân vật mồ côi vẫn còn lưu giữ được, nhưng đó là sự<br />
luyến nhớ mẹ cha, sự thiệt thòi tình cảm, sự trống chếnh tâm hồn. Tác giả chú ý những<br />
biến động nội tâm, những cung bậc cảm giác của người mồ côi. Những diễn biến tâm<br />
trạng này được biểu hiện thông qua những yếu tố ngoại hiện của nhân vật như hành<br />
động, cử chỉ và kết hợp với sự chừng mực trong miêu tả tâm lí của người kể chuyện.<br />
Người kể chuyện đứng từ điểm nhìn nhân vật nêu những cảm nghĩ của nhân vật, có khi<br />
bỏ lửng bằng các câu hỏi mà chính nhân vật cũng không trả lời được, không biết vì sao<br />
mình lại cảm thấy như vậy. Cách thức này phù hợp với nét tâm lí của những con người<br />
thô phác, non trẻ, với lối tư duy cụ thể, không hẳn tự ý thức, tự phân tích được tâm trạng<br />
của mình. Mà người kể chuyện thì không làm thay họ điều ấy, chỉ khơi gợi để người<br />
đọc tưởng tượng. Đây là một nét độc đáo trong phong cách văn xuôi Đỗ Bích Thúy.<br />
Nhân vật Vừ có dáng dấp của kiểu người mồ côi cả bố lẫn mẹ. Dù mẹ Vừ còn sống<br />
nhưng đã đi lấy chồng khác, ở một nơi xa, hầu như Vừ rất ít gặp mẹ, “Vừ đã lớn lên mà<br />
không có mẹ”. Vừ ở với ông bà nội, những người yêu thương Vừ hết mực. Vừ gắn bó<br />
với ông bà trong từng hành động, suy nghĩ hàng ngày. Những đau khổ của Vừ khi mất<br />
người yêu cũng chỉ có ông bà san sẻ, theo cách của người già. Vừ say rượu vì buồn, ông<br />
bà vẫn bên cháu: “Vừ nói được có thế, rượu đã ngấm kĩ quá rồi, liền đổ kềnh giữa sân.<br />
<br />
<br />
<br />
16<br />
Văn hóa truyền thống H’mông trong tiểu thuyết Lặng yên dưới vực sâu của Đỗ Bích Thúy<br />
<br />
Hai người già đứng nhìn đứa cháu đổ kềnh dưới đất, buồn quá. Buồn đến mức<br />
không nói nổi câu gì. Nước mắt chảy thành dòng trên má bà, theo những nếp nhăn chảy<br />
xuống vạt áo, cũng chẳng muốn quyệt đi.<br />
(…)<br />
Ông bà bây giờ già yếu rồi, không bế được nó như lúc bé nữa, khiêng cũng không<br />
xong, đành phải để nó nằm yên như con chó mất mẹ giữa sân vậy. Hai ông bà lấy hai<br />
cái ghế ra ngồi cạnh Vừ”<br />
Nhưng bầu không khí gia đình ấy cũng không bù đắp được nỗi cô đơn của Vừ. Bố<br />
mất từ khi Vừ còn nhỏ. Vừ mười tuổi thì mẹ đi lấy chồng, “Những ngày mẹ mới đi lấy<br />
chồng, đêm nào Vừ cũng khóc, đêm nào cũng rúc vào nách bà, thấm nước mắt lên áo<br />
bà”. Thái độ vùng vằng, giận dỗi của Vừ trong một hai lần ít ỏi mẹ về thăm cho thấy<br />
một khoảng trống trong tâm hồn Vừ, một khoảng trống không gì khỏa lấp được của một<br />
đứa con mất cha thiếu mẹ. Lúc bé, khi nhìn cánh chim trên trời cao, Vừ đã từng ước<br />
mình bay được, “Bay được thì sẽ đi tìm mẹ”.<br />
Còn Súa thì mất mẹ, bố lấy vợ kế. Nhân vật Súa là kiểu nhân vật mồ côi - người<br />
con riêng thường gặp trong cổ tích H’mông. Tiêu biểu nhất cho kiểu nhân vật này trong<br />
cổ tích H’mông là Cầu Nô trong truyện Cầu Nô, Cầu Xênh (tương tự truyện Tấm Cám<br />
của người Kinh). Thông thường, “Nhân vật mồ côi mẹ mang thân phận con riêng của<br />
chồng ra đời trong truyện cổ tích với tư cách là nạn nhân của mọi âm mưu đen tối của<br />
nhân vật mẹ kế” [8;120]. Tuy nhiên, Lặng yên dưới vực sâu lại phá vỡ mô hình này,<br />
không có chuyện dì ghẻ ghét con chồng, ngược lại, Súa có vẻ “bất hợp tác” với mẹ kế,<br />
“Súa không thích mẹ kế, càng không thích ngồi cùng ăn. Từ khi bố lấy mẹ kế về, Súa<br />
chưa ngồi ăn cùng bao giờ. Hằng bữa, cứ để hai người ăn xong rồi Súa mới ăn. Một bát<br />
mèn mén, chan đầy canh, mang ra hè ngồi ăn, con chó nằm bên cạnh gối đầu vào chân”.<br />
Vẻ lủi thủi của một đứa trẻ mất mẹ thật tội nghiệp, nhưng là nó thích thế. Trong thâm<br />
tâm của đứa trẻ mất mẹ, không ai có thể thế chỗ mẹ nó, “Súa càng không thích khi<br />
người ấy lại chiếm mất chỗ của mẹ. Người ấy sẽ nằm trên cái giường mà mẹ đã từng<br />
nằm, sẽ múc nước bằng cái thùng mà mẹ đã từng múc, sẽ ăn cơm bằng cái bát mà mẹ đã<br />
từng ăn, sẽ hằng ngày qua cái ngưỡng cửa mà mẹ đã đi suốt bao nhiêu năm…”. Khi trải<br />
qua những ngày làm vợ Phống, được sự đồng cảm từ mẹ kế, dần hiểu được những nỗi<br />
niềm của người phụ nữ, Súa bắt đầu thay đổi cách đối xử với mẹ kế, quan tâm, săn sóc<br />
hơn dù bề ngoài vẫn chưa thực sự tỏ ra thân thiện.<br />
Đỗ Bích Thúy đã khơi sâu vào nỗi đau của đứa con mồ côi bằng những trang viết<br />
xúc động về những hành động của Súa: “Bữa cơm nào Súa cũng lấy thêm một bát, một<br />
đũa, để ngay ngắn ở nơi mẹ vẫn ngồi. Hai bố con lặng lẽ ăn, thỉnh thoảng Súa gắp vào<br />
bát mẹ một miếng rau, một miếng thịt”, “Súa mất mẹ từ hôm ấy. Hơi ấm của mẹ chỉ còn<br />
lại trên chiếc gối bông gạo. Hàng năm liền Súa không dám giặt chiếc gối. Sợ giặt rồi thì<br />
không còn mùi của mẹ nữa”, “Đêm này qua đêm khác, Súa ngủ lơ mơ trong nỗi nhớ mẹ,<br />
và chiếc gối luôn ướt đẫm nước mắt”…<br />
Trong tâm hồn Súa, mẹ là niềm an ủi lớn nhất. Khi cô bị bắt làm vợ Phống, trong<br />
cơn hoang mang và đau khổ cực độ, như một lẽ tự nhiên, cô nghĩ đến mẹ trước khi nhận<br />
thức được rằng mình còn bố, “Có một người, đáng lẽ Súa phải nhớ đến, mà vì hai ngày<br />
liền sống chẳng ra sống, chết chẳng được chết, Súa đã quên mất.<br />
Là bố”.<br />
17<br />
Lê Trà My<br />
<br />
Với Súa, hiện thân của mẹ là chiếc gối thêu hoa cúc đỏ nhồi quả bông cây gạo<br />
chính tay mẹ làm cho Súa, “Mỗi khi nằm xuống cái gối ấy Súa lại thấy như mẹ đang ở<br />
phía sau, mẹ gãi lưng cho mà ngủ”, “Súa muốn mang cái gối của mẹ về nhà chồng, lại<br />
cũng muốn để ở nhà, thỉnh thoảng về có cái để gối, để nhớ mẹ”. Hình ảnh “Súa ngồi<br />
trên giường ôm chặt cái gối, lòng dạ trống rỗng” khi Súa từ nhà chồng trốn về nhà cho<br />
thấy nơi bấu víu cuối cùng của cô gái trẻ lần đầu xa nhà cũng là lần bị đẩy vào quãng<br />
đời đầy gập ghềnh, khổ ải vẫn là mẹ. Cô tìm kiếm mẹ trong chiếc gối cho dù đến tàn hơi<br />
của mẹ cũng chẳng còn.<br />
Nhân vật Phống lại là một biến thể khác của kiểu nhân vật mồ côi. Đây là nhân vật<br />
phức hợp. Ban đầu, nhân vật Phống có dáng dấp của kiểu con riêng (là con ruột ông<br />
Dìn, còn bà Máy vợ ông Dìn chỉ có công nuôi Phống). Phần cuối của truyện lại hé lộ<br />
thân phận thật của Phống, Phống cũng không phải con ruột ông Dìn. Phống có mẹ, có<br />
bố ruột nhưng không biết bố là ai, còn mẹ thì đến tận lúc hấp hối mới cho người tìm<br />
Phống về gặp mặt. Thực chất Phống có bố có mẹ ruột nhưng cả đời không biết họ,<br />
không gặp họ, không khác gì mồ côi. Tuy nhiên, ở nhà ông Dìn, Phống được chăm sóc,<br />
chiều chuộng. Phống thương ông Dìn bà Máy, “Dù mẹ không phải là người đẻ ra Phống<br />
nhưng Phống chưa bao giờ dám láo với mẹ. Phống yêu mẹ hơn tất cả những thằng con<br />
trai mà Súa biết. Phống luôn nghĩ phống sẽ bé mãi khi ở bên cạnh mẹ”. Phống vô tri về<br />
thân phận “mồ côi” của mình, không cảm thấy được nỗi trống vắng của đời mình. Song,<br />
phận mồ côi đã như một sự mặc định đối với nhân vật Phống, như là số phận của người<br />
H’mông. Đời Phống hóa ra cũng là một kiểu “lưu lạc”, xa lìa nguồn cội. Điều đó khiến<br />
chúng ta nghĩ đến những ám ảnh mồ côi, cảm thức mồ côi được diễn giải như là vô thức<br />
cộng đồng, được coi như vết tích tâm lí của tộc người lưu vong. Nguyễn Mạnh Tiến cho<br />
rằng người H’mông “Trong quá trình thiên di hàng ngàn năm tìm đất sống, chấn thương<br />
mất quê hương đã hằn lên thân phận tộc người, khắc sâu vào kí ức tập thể “phức cảm<br />
mồ côi” [6; 95]. Sự xa lìa nguồn cội được nhắc đến trong câu hát than thân của người<br />
H’mông:<br />
Con quạ không có nơi đậu<br />
Người Mông không có quê hương<br />
(Lê Trung Vũ sưu tầm) [9; 22]<br />
Một bài dân ca H’mông được Lâm Tuyền Khách (Lan Khai) sưu tầm cũng có âm<br />
hưởng của nỗi ai hoài xứ sở:<br />
Xứ Mèo, biết ở nơi nao<br />
Sông sâu mấy dải, non cao mấy tầng<br />
Trong sương ai hát vang lừng<br />
Lửa thông, ai nhóm trong rừng rậm khơi<br />
Chuyện ngày xưa nhớ chăng ai<br />
Tổ tiên lưu lạc qua ngoài Hồ Nam [3;13]<br />
Hiện nay, người H’mông định cư ở nhiều nơi trên thế giới, trong đó có một bộ phận<br />
ở Việt Nam. Những người này đã coi Mèo Vạc (Miêu vương) là đất tổ. Người H’mông<br />
lưu truyền câu hát:<br />
Cá bơi ở dưới nước<br />
Chim bay ở trên trời<br />
18<br />
Văn hóa truyền thống H’mông trong tiểu thuyết Lặng yên dưới vực sâu của Đỗ Bích Thúy<br />
<br />
Chúng ta sống ở vùng cao<br />
Và con chim có tổ<br />
Người Mông ta cũng có quê<br />
Quê ta Mèo Vạc<br />
Phái sinh từ mẫu gốc mồ côi trong văn học H’mông, ba nhân vật chính Vừ, Súa,<br />
Phống là những biến thể sáng tạo trong tiểu thuyết hiện đại. Tâm thức mồ côi - con<br />
riêng chi phối hệ thống nhân vật chính trong tiểu thuyết Lặng yên dưới vực sâu. Cũng<br />
có thể bắt gặp dấu vết của kiểu nhân vật này trong một số tác phẩm khác của Đỗ Bích<br />
Thúy như Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, Gió không ngừng thổi… Đúng như một nhà<br />
nghiên cứu đã nói “Con người là sản phẩm của văn hóa, tiếp nhận và tích lũy những<br />
truyền thống văn hóa có nội hàm lịch sử vô cùng phong phú, vì vậy nhà văn cùng với<br />
việc khắc họa con người hiện thực, còn khắc họa kết cấu tâm lý văn hóa truyền thống<br />
dân tộc độc đáo và tâm thái dân tộc đương đại” [1], nhân vật của Đỗ Bích Thúy đã<br />
chứng minh sự kết hợp và biến đổi văn hóa trong không gian đương đại.<br />
2.2.3. Tự vẫn<br />
Người H’mông có một cá tính rất mạnh mẽ. Có lẽ sự hiểm trở của địa bàn cư trú<br />
cùng chiều dài lịch sử tộc người đầy sóng gió đã tạo nên những con người bộc trực, tự<br />
do, quyết liệt, dũng mãnh, liều lĩnh.<br />
Người H’mông cho rằng con người chết đi là hồn ma được về đoàn tụ với tổ tiên,<br />
chết chưa phải là hết mà sẽ được đi đầu thai kiếp khác. Do vậy, họ coi cái chết như là<br />
bước ngoặt, trả họ lại sự sống. Họ dễ dàng tìm đến cái chết. Khi gặp bế tắc trong cuộc<br />
sống, người H’mông thường phản kháng hoặc tìm lối thoát bằng cách tự tử. Tự tử là “để<br />
tìm một nơi khác hơn: “Nơi ấy hồn ta quyết cầm ô lên tận cửa trời ta đứng đợi mình…”<br />
[5; 27], “Chết như là sự khởi đầu cho cuộc sống mới “Anh chết, em chết, hai ta cùng<br />
chảy hội thong dong” [3; 49]. Hiện nay, vẫn còn có những người H’mông, nhất là<br />
những người trẻ hoặc rất trẻ (lứa tuổi học sinh) sẵn sàng chết vì những lí do như bị ngăn<br />
cản tình yêu, bị xúc phạm, không thỏa mãn ước mơ, xích mích gia đình… Hiện tượng tự<br />
tử ở người H’mông đôi khi trở thành một vấn nạn, chính quyền địa phương phải can<br />
thiệp và có những biện pháp ngăn chặn. Người H’mông hay tự tử bằng lá ngón. “Ma lá<br />
ngón” vẫn là một nỗi ám ảnh thường trực của người vùng cao.<br />
Gầu Mông vẫn sợ ăn lá ngón<br />
Nhưng làm sao hết được đau lòng<br />
Ăn lá ngón thật đắng ngông<br />
Gầu Mông vẫn sợ nuốt là độc<br />
Nhưng làm sao khỏi được đau tim [4; 96]<br />
Trong Lặng yên dưới vực sâu, motip tự vẫn được sử dụng làm điểm kết thúc của<br />
truyện kể - hai nhân vật Chía và Phống đều tự tìm cái chết dưới vực sâu. Màu sắc bi<br />
kịch bao trùm toàn bộ câu chuyện. Các tình tiết dẫn dắt nhân vật đến quyết định đột<br />
ngột nhưng vẫn nằm trong mạch diễn biến tâm lí. Biến cố dẫn đến kết cục bi thảm của<br />
Chía là chuyện Chía cùng Phống làm tình trong nhà của Súa và Phống. Chía là em dâu<br />
họ của Phống. Vợ chồng Chía là vợ chồng trẻ con, chồng vợ vẫn tranh nhau cái bát ăn<br />
cơm, chả bao giờ nhìn nhau, cũng không trò chuyện được vì vợ câm chồng điếc, đêm<br />
đến chồng vẫn ngủ với mẹ. Kiểu tảo hôn này không hiếm trong cộng đồng người<br />
19<br />
Lê Trà My<br />
<br />
H’mông. Khi Chía dần trở thành một cô gái ở tuổi dậy thì thì chồng cô vẫn chỉ là một<br />
đứa trẻ đần ngố mải chơi. Như một sự trỗi dậy của bản năng, Chía có những rung cảm<br />
về thân xác với Phống. Còn Phống, dù không bao giờ có ý nghĩ sẽ lợi dụng Chía, nhưng<br />
vẫn lao vào Chía trong cơn khủng hoảng tột cùng khi cho rằng vợ là nguyên nhân dẫn<br />
đến những nỗi bất hạnh của mình, lao vào Chía như một sự trả thù Súa. Hành động Chía<br />
từ nhà Súa chạy thẳng ra bờ vực và kết thúc cuộc sống của mình có thể do những cảm<br />
xúc hỗn loạn, cả hạnh phúc, đớn đau, bẽ bàng, sợ hãi, nhục nhã, điều mà trái tim non trẻ<br />
của Chía không dung chứa nổi. Chía là người câm. Tiếng nói đầu tiên cũng là cuối cùng<br />
của cô là sự kháng cự lại Phống khi Phống cố tình phơi bày chuyện làm tình của hai<br />
người cho Súa chứng kiến. Một người sống đơn giản và đầy bản năng như Chía không<br />
thể kịp phân tích tình hình hay tự ý thức về tâm trạng. Cô tìm đến sự giải thoát khỏi thứ<br />
cảm xúc hỗn loạn trong một trạng thái thần kinh căng thẳng tột độ như sự trỗi dậy bột<br />
phát của bản năng chết vốn được cho là tiềm chứa trong vô thức cộng đồng người<br />
H’mông.<br />
Có nhiều nguyên cớ dẫn đến hành động tự vẫn của Phống. Những éo le thân phận<br />
cùng sự tẻ nhạt của tình chồng vợ, cộng thêm việc Chía nhảy xuống vực đã đẩy nhân<br />
vật Phống tìm đến cái chết. Phống muốn “có cách nào đấy để quên sạch đi mọi chuyện<br />
đã từng xảy ra trong suốt những năm tháng qua”. Có thể thấy, trong số các nhân vật của<br />
truyện, nhân vật Phống nhiều sắc thái hơn cả, mang dáng dấp của nhân vật tiểu thuyết,<br />
tính cách đa dạng, nhiều chiều: vừa biết yêu thương vừa tàn nhẫn, vừa sống có trách<br />
nhiệm vừa đểu giả, giành giật, vừa tử tế vừa bất chấp, vừa biết sợ vừa liều lĩnh… Và<br />
chính tính cách đa diện đó đã làm nên quãng đời mà Phống muốn quên đi, đồng thời<br />
thúc đẩy hành động tự vẫn ở Phống. Nhưng trên tất cả có lẽ là nỗi cô độc: có vợ nhưng<br />
không có hạnh phúc; có căn nhà sống cùng bố mẹ lâu năm gắn bó thì giờ bị bắt ở riêng;<br />
có Chía yêu thương Phống thì Chía đã nhảy xuống vực sâu; có bố mẹ mà không là bố<br />
mẹ. Nỗi trống trải, thất vọng khủng khiếp nhất đối với Phống chính là Phống nhận ra<br />
mình là kẻ bị đánh tráo thân phận, bị dối lừa.<br />
Câu chuyện tạo ra những ám ảnh về sự tự vẫn. Truyện kết thúc bằng cái chết của<br />
hai nhân vật mà người đọc ít ngờ nhất trong khi toàn bộ diễn trình cốt truyện có nhiều<br />
dự báo cho một cuộc tự vẫn của Súa. Súa nhiều lần nghĩ đến cái chết. Khi bị cướp về<br />
nhà Phống, Súa đã đến miệng vực trong khu rừng già, “Súa nghĩ, mình sẽ nằm dưới<br />
kia, tít dưới kia, lặng yên mãi mãi”, rồi Súa tìm cách treo cổ trong buồng để “Hết sạch<br />
cả vui cả buồn, hết sạch cả đau đớn, tủi nhục”. Chi tiết cuối cùng của truyện, khi Súa<br />
đứng trên bờ vực, nơi hai người Chía và Phống vừa nhảy xuống, Súa cảm thấy “Cuộc<br />
sống đã dừng lại. Súa chỉ cảm thấy duy nhất điều đó, khi gió từ đáy vực đang cuộn lên<br />
như muốn lôi tuột theo cả Súa”, thì dự cảm về cái chết của Súa lại dội về trong tâm trí<br />
người đọc.<br />
Trong Lặng yên dưới vực sâu, vực sâu đã trở thành một biểu tượng cho sự kết thúc,<br />
cho cái chết, cho ước mơ giải thoát (bổ sung vào hệ thống biểu tượng cho sự tự vẫn là lá<br />
ngón hay cuộn dây thường thấy trong văn hóa dân gian H’mông). Tự vẫn là cách để<br />
nhân vật chạy trốn số phận, là cách giải quyết những vấn đề gai góc của đời sống, là<br />
cách phản kháng quyết liệt. Lối thoát tiêu cực này làm cho bản tình ca H’mông trở nên<br />
bi ai. Câu chuyện về tình yêu, về cuộc sống gia đình trở thành bi ca.<br />
<br />
<br />
20<br />
Văn hóa truyền thống H’mông trong tiểu thuyết Lặng yên dưới vực sâu của Đỗ Bích Thúy<br />
<br />
<br />
3. Kết luận<br />
Có thể bắt gặp trong nhiều sáng tác của Đỗ Bích Thúy một không gian văn hóa với<br />
tầng lớp các mã văn hóa dân gian, văn hóa cộng đồng của vùng đất Hà Giang, “thủ phủ”<br />
của người H’mông Việt Nam. Điều này khiến ta nghĩ đến sức sống của chuỗi “gene văn<br />
hóa” trong chiều dài lịch sử dân tộc và lịch sử văn học. Nếu gene là vật liệu di truyền<br />
của sự vật, lưu giữ hạt nhân cơ thể sống, xác định tính đặc thù của sự vật thì các yếu tố<br />
văn hóa, văn học truyền thống chính là bộ gene nuôi dưỡng văn học hiện đại, duy trì và<br />
tạo nên bản sắc của vùng văn học. Trong quá trình gene được mã hóa, phiên mã, tái bản<br />
mã, nhiều yếu tố trong đó có yếu tố môi sinh có thể hình thành các gene mới hoặc đột<br />
biến gene tạo cơ chế đa dạng sinh học. Tương tự như vậy, những motip, mẫu gốc hình<br />
thành trong lịch sử sinh tồn của cộng đồng trở thành vật di truyền kế thừa và tiếp nối<br />
trong sáng tạo văn học và văn hóa, ngưng tụ tâm thức cộng đồng, mở ra các biến thể,<br />
tạo sự đa dạng cho văn học và văn hóa. Đỗ Bích Thúy không phải là người H’mông,<br />
nhưng bằng những quan sát và sự thấu hiểu của mình về đời sống người H’mông, chị<br />
đã kết dệt một thế giới nghệ thuật từ các kí hiệu văn hóa H’mông, bồi đắp hình hài<br />
cho các nhân vật mà từ hành động cho đến tâm tư đều mang bản tính cổ truyền của<br />
người H’mông. Nhà văn đã tái sinh các motip dân gian, lồng chúng vào không gian<br />
cuộc sống đương đại, tạo nên những biến thể mới. Cách mà Đỗ Bích Thúy đã làm<br />
cũng là con đường mà nhiều nhà văn thành danh đã chọn, đó là khơi vào kí ức cộng<br />
đồng, sử dụng nét văn hóa đặc thù truyền thống kết hợp với những cách thức tự sự<br />
mới để nói những câu chuyện thời hiện đại (chúng ta nhớ đến Mạc Ngôn, Diêm Liên<br />
Khoa, Nguyễn Xuân Khánh...).<br />
Tuy nhiên, để gene văn hóa thực sự trở thành mạch sống của văn học thì lại là một<br />
vấn đề khác. Làm sao để các kí hiệu văn hóa không bị biến thành tấm áo khoác ngoài<br />
chỉ có tính chất trang trí, thiếu đi sự sống bên trong, thiếu đi cái hồn vía cộng đồng khởi<br />
lên từ bầu khí quyển của cuộc sống đương đại là điều các nhà văn như Đỗ Bích Thúy có<br />
thể đã đặt ra và trong chừng mực nhất định, cố gắng đi tìm câu trả lời bằng chính những<br />
sáng tạo nghệ thuật của mình.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
[1] Từ Thị Tuyết Trinh, 2018. Tiểu thuyết lặng yên dưới vực sâu của Đỗ Bích Thúy<br />
nhìn từ phạm trù thẩm mĩ cái bi kịch. Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Sư<br />
phạm Hà Nội 2.<br />
[2] Trần Lê Bảo, 2009. Giải mã văn hóa trong tác phẩm văn học,<br />
http://www.vanhoanghean.com.vn<br />
[3] Hùng Thị Hà, 2015. Thơ ca dân gian Mông từ góc nhìn văn hóa. Luận án Tiến sĩ<br />
Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.<br />
[4] Hùng Đình Quý, 2000. Dân ca Mông Hà Giang, tập 1. Sở Văn hóa Thông tin Hà<br />
Giang.<br />
[5] Doãn Thanh (sưu tầm, dịch), 1984. Dân ca Hmông. Nxb Văn học, Hà Nội.<br />
[6] Đỗ Bích Thúy, 2017. Lặng yên dưới vực sâu, Nxb Hội nhà văn.<br />
<br />
<br />
21<br />
Lê Trà My<br />
<br />
[7] Nguyễn Mạnh Tiến, 2017. Những đỉnh núi du ca – Một lối tìm về cá tính H’mông<br />
(Biên khảo). Nxb Tri thức.<br />
[8] Lê Trung Vũ, 2010. Khảo sát nhân vật mồ côi trong truyện cổ H’mông. Nxb Dân trí.<br />
Lê Trung Vũ (sưu tầm, biên soạn), Phan Thanh (hiệu đính), 1994. Tục ngữ và câu<br />
đố Mông. Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
<br />
Traditional culture of H’mong in novel Be silent in abyss (Do Bich Thuy)<br />
Le Tra My<br />
Faculty of Philology, Hanoi National University of Education<br />
Be silent in abyss by Do Bich Thuy, which carries layers of traditional cultural<br />
codes of the Northernmost in Vietnam built a space of culture. It depicts a picture of the<br />
characteristics of the habitat, living practices, farming practices, livelihoods, procedures<br />
and the rituals of the H`mong. The code system of H’mong culture created a<br />
mountainous nature atmosphere for this novel. The narrative space of the novel<br />
becomes symbolic sphere (semiosphère). It has a force which dominates every symbol<br />
and genarates the connections between all symbols to produce a system of motif. Author<br />
rivived traditional motif such as robbing wife, suicide or orphan.etc. This helps to create<br />
a new variation to continue and enrich the gene of H’mong culture. Author combines<br />
traditional cultural features and new narrative method to tell a story of H’mong in<br />
modern time.<br />
Keywords: H’mong culture, traditional motif, cultural code.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
22<br />