intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Văn hóa Việt Nam thế kỷ X - XIV

Chia sẻ: Đinh Hoàng Minh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:10

163
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Từ thời Bắc thuộc, sự phân hoá xã hội theo hướng phong kiến Trung Quốc đã diễn ra, nhưng chỉ được đẩy mạnh trong các thế kỷ thời Lý - Trần. Dần dần hình thành những giai cấp chính của xã hội mới. Giai cấp thống trị bao gồm các vương hầu, quý tộc, quan lại cao cấp và một bộ phận địa chủ quan chức hoá. Chính sách phong cấp thái ấp, khuyến khích khẩn hoang lập nghiệp, những chính sách ưu đãi của Nhà nước v.v…đã tạo điều kiện cho những người này trở thành lãnh chúa, địa chủ,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Văn hóa Việt Nam thế kỷ X - XIV

  1. TÌNH HÌNH VĂN HOÁ – XÃ HộI ở CÁC THế Kỷ X- XIV I. Sự phân hoá xã hội Từ thời Bắc thuộc, sự phân hoá xã hội theo hướng phong kiến Trung Qu ốc đã di ễn ra, nhưng chỉ được đẩy mạnh trong các thế kỷ thời Lý - Trần. Dần dần hình thành nh ững giai cấp chính của xã hội mới. Giai cấp thống trị bao gồm các vương hầu, quý tộc, quan lại cao c ấp và m ột b ộ phận địa chủ quan chức hoá. Chính sách phong cấp thái ấp, khuyến khích khẩn hoang l ập nghiệp, những chính sách ưu đãi của Nhà nước v.v…đã tạo đi ều ki ện cho những người này trở thành lãnh chúa, địa chủ, với chủ trương của Nhà nước “ai có quan tước mà con cháu được tập ấm mới được ra làm quan, còn nếu người nào nhà giàu, kh ỏe mạnh mà không có quan tước thì đời đời làm dân”, giai cấp thống trị hầu như trở thành một bộ phận đóng kín, mặc dầu sự phát triển c ủa giáo d ục, khoa c ử cùng nhu c ầu nâng cao trình độ học vấn của quan chức có làm giảm dần sự đóng kín đó. Giai cấp bị trị bao gồm đông đảo nhân dân thuộc nhi ều t ầng l ớp khác nhau nh ư đ ịa chủ, nông dân, thợ thủ công, thương nhân. Làng xã vẫn là tế bào kinh t ế- xã h ội c ơ bản, mang trong mình khá nhiều tàn dư của xã hội nguyên thu ỷ. Giai c ấp nông dân chiếm tuyệt đại đa số trong cư dân và là lực lượng sản xuất chủ yếu, là những ng ười gánh chịu mọi trọng trách của xã hội: làm ruộng, đóng thu ế, đi lính, lao d ịch, chi ến đấu bảo vệ tổ quốc. Những thế kỷ XI- XIV, nhất là trong buổi đầu các triều đại, cuộc sống của người nông dân còn tương đối ổn định. Từ thế k ỷ XIV, sự phân hoá giàu nghèo trong họ gia tăng, làm lên tình trạng “dân gian nhi ều người du đãng, đ ến già cũng không có tên trong sổ, không chịu thuế dịch, sai phái tạp dịch không đến ch ơi”. Nhiều cuộc tranh đòi chẩn cứu cho dân nghèo” đã bùng nổ. Số lượng thợ thủ công không nhiều. Ngoài những người sống và làm ăn ở các ph ường của Thăng Long, có một số sống rải rác ở các làng, làm nghề thủ công phục v ụ dân làng mình là chính. Đã xuất hiện một vài làng thủ công nhưng người th ợ ở đây v ẫn gắn bó với đồng ruộng. Thương nhân ngày càng nhiều nhưng ít người chuyên buôn bán để sống. Nhờ buôn bán với thương nhân nước ngoài hay buôn bán lương thực, từ giữa thế kỉ XIV đã xuất hiện nhiều nhà giàu có. Trần Dụ Tông (1341- 1369) đã từng chiêu t ập các nhà buôn giàu ở Đình Bảng (Bắc Ninh) Nga Đính (Hà Tây) vào cung đánh bạc “có ti ếng đ ặt gần 300 quan”. Lớp địa chủ phi quan chức thuộc loại “thứ nhân”, bị trị dù đời sống kinh t ế khá h ơn, nhưng cũng như nông dân, thợ thủ công và thương nhân. Thấp nhất trong xã hội là tầng lớp nô tì với nhi ều tên gọi khác nhau: gia nô, gia đ ồng, nô tì, điền nhi, lộ ông, hoành. Nhà n ước đã tìm cách h ạn ch ế vi ệc nuôi nô tì, nh ưng s ự phát triển của chế độ điền trang lại làm tăng số lượng nô tì, nhất là vào những năm đói kém của thế kỉ XIV. Có 3 loại nô tì với thân phận khác nhau: Nô tì của nhà nước với những tên gọi như Toạ thượng nô, quan trung khách, đi ền hoành, điền nhi… Nô tì của nhà chùa như Tam bảo nô, điền nô… Nô tì tư nhân bao gồm cả điền nô, gia đồng v.v… Trong chiến tranh giữ nước, như ở thời Trần, gia nô, gia đ ồng c ủa các quý t ộc đã t ừng là một lực lượng quân sự có nhiều đóng góp.
  2. Sự phát trriển của chế độ nô tì ở thế kỉ XIV đã làm tăng mâu thu ẫn xã h ội và d ẫn đ ến hàng loạt cuộc đấu tranh. Tuy nhiên, trong nô tì phần đông là nông nô. Thân ph ận c ủa số còn lại không bị hạ thấp như ở thời đại của chế độ nô lệ. II. Tình hình văn hoá- Giáo dục Tôn giáo, tín ngưỡng Ở các thế kỉ X- XIV những tín ngưỡng cổ truyền vẫn phổ bi ến. Bên c ạnh các t ục th ờ tích cực ngày càng được mở rộng như tục thờ tổ tiên, th ờ nh ững anh hùng dân t ộc, những người có công với làng, với nước và các tục thờ nguyên th ủy "vạn vật h ữu linh" vẫn còn nhiều. Nhà nước cũng như các vị quan có ý thức đã nhiều lần ra lệnh hủy bỏ bớt các tục thờ có mang tính “mê tín, dị đoan" đó nh ưng ch ỉ h ạn ch ế đ ược m ột phần. Đáng chú ý là nhà nước, chủ yếu là thời Lý - Tr ần, đã góp ph ần tr ực ti ếp vào sinh hoạt tín ngưỡng...và tôn giáo chung của nhân dân. Nhà Lý đã d ựng đ ền "Đ ồ đ ại thành hoàng", đền ''Đồng cổ" (Trống đồng), đền thờ Hai Bà Trưng, đền thờ Phùng Hưng, đền thờ Phạm Cự Lạng ở kinh thành Thăng Long, nâng l ễ th ờ thần Phù Đ ổng (Bắc Ninh) lên trình độ ''quốc tế” (quốc gia) v.v… Trong một thời gian dài, tín ngưỡng dân gian c ổ truyền vẫn gi ữ m ột v ị trí quan tr ọng trong sinh hoạt tâm linh của cư dân Đại Việt. Các tôn giáo lớn như Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo được truyền vào nước ta t ừ th ời Bắc thuộc. Phật giáo sớm phổ cập trong nhân dân và đạt m ức c ực thịnh ở các th ế k ỉ XI - XIII. Chùa chiền mọc lên ở nhiều nơi. Từ thời Đinh - Tiền Lê, m ột số nhà s ư nh ư Ngô Chân Lưu, Pháp Thuận, Vạn Hạnh.v.v.. đã tham gia tích c ực vào việc xây d ựng chính quyền. Sớm mang nặng tư tưởng sùng Phật, Lý Công U ẩn m ới lên ngôi, đã cho d ựng nhiều chùa, cấp độ điệp cho hàng ngàn người làm sư, hàng ngàn l ạng vàng, b ạc thuê thợ đúc chuông lớn đặt ở các chùa... khiến nhà sử học Lê Văn Hưu ở thế kỉ XIII đã nhận xét: ''Lý Thái Tổ lên ngôi m ới được hai năm, tôn mi ếu ch ưa d ựng, xã t ắc ch ưa lập mà đã dựng 8 chùa ở phủ Thiên Đức, lại sửa chùa quán ở các lộ, c ấp độ đi ệp cho hơn 1000 người ở kinh sư làm tăng... Các vua nhà Lý kế nghiệp cũng không ngừng cho xây d ựng chùa chi ền, đúc chuông, tô tượng, cho người sang nhà Tống xin kinh Phật, biến các chùa th ờ Ph ật thành n ơi c ầu đảo, làm lễ tạ ơn khi chiến thắng quân xâm lược, lễ đại xá Quý tộc, quan lại, nhân dân theo đó, xây dựng chùa chiền ở khắp nơi, bia chùa Linh Xứng đã ca ngợi: "T ừ khi đạo Phật truyền sang nước ta đến nay đã hơn 2000 năm mà việc ph ụng th ờ ngày càng thêm mới. Hễ những chỗ nào núi cao, cảnh đẹp đều m ở mang đ ể l ập chùa chi ền, nh ư thế nếu không phải là nhờ bậc vương công, đại nhân giúp đỡ xây dựng thì làm sao nên được''. Thừa nhận thực tế đó, nhà sử học Lê Văn Hưu viết: "... cho nên đ ời sau m ới xây tường cao ngất trời, tạc cột chùa bằng đá, làm chùa thờ Phật lộng lẫy hơn cả cung điện của vua. Rồi người dưới bắt chước, kẻ hủy c ả thân thể, đổi lối m ặc b ỏ s ản nghiệp, trốn thân thích, nhân dân quá nửa làm sư, trong nước chỗ nào cũng có chùa. Phật giáo tiếp tục phát triển ở thời Trần, mặc dầu có phần hạn chế hơn. Các vua đầu thời Trần đã tìm đến cửa Phật, Trần Nhân Tông th ực sự v ứt b ỏ áo bào, c ạo đ ầu, tr ở thành một vị sư danh tiếng. Đầu thế kỉ XIV, nhà Nho Trương Hán Siêu đã kêu lên: "thiên hạ năm phần thì sư tăng chiếm một”; đến giữa thế kỉ đó, nhà Nho Lê Quát than thở: "nhà Phật lấy họa phúc để cảm động lòng người, sao mà đ ược người tin theo lâu bền như thế! Trên từ Vương công, dưới đến dân thường, hễ bố thí vào việc nhà Phật đến hết tiền của cũng không xẻn tiếc... chỗ nào có người ở t ất có chùa Ph ật, b ỏ đi r ồi
  3. lại dựng lên, nát đã rồi lại sửa lại lâu đài chiêng tr ống chi ếm đ ến n ửa ph ần so v ới dân cư" (bia chùa Chiêu Phúc). Các chùa đều có đất riêng. Nhiều chùa lớn như Quỳnh Lâm (Đông Tri ều, Qu ảng Ninh) có trên 2000 mẫu ruộng, hàng trăm Tam bảo nô... Do du nhập vào Đại Việt từ nhiều con đường khác nhau cũng như do sự ti ếp thu c ủa người dân Việt đương thời, Phật giáo không có một dòng duy nh ất. Có dòng hoà nh ập với tín ngưỡng dân giân Việt cổ truyền các chùa Pháp Vân, Pháp Vũ, chùa Diên H ựu (Một Cột)...), có dòng thiên về Mật tông (với những nhà sư gi ỏi pháp thuật và ch ữa bệnh...), có dòng tu ở chùa, thoát tục, có dòng tu tại gia l ấy cái tâm làm g ốc v.v... .Trong trào lưu chung đó, giai cấp thống trị đã mong mu ốn tìm ra m ột tôn giáo làm n ền cho sinh hoạt tinh thần và tâm linh của người Vi ệt, thoát kh ỏi nh ững ảnh h ưởng c ủa hệ tư tưởng Nho giáo phương Bắc. Dòng Thiền của Phật giáo đã đ ược l ựa, ch ọn. N ối tiếp ý tưởng của cha, ông, Lý Thánh Tông đã có ý định sáng l ập phái Thi ền Th ảo đường với nhiều nét của phương Nam, nhưng không thành. Dần dần hình thành m ột sự hòa hợp giữa Phật giáo và Nho giáo. Lý Nhân Tông đã khuyên thi ền s ư Mãn giác: ''bậc chí nhân hiện thân giữa cõi đời phải tế độ chúng sinh... chẳng những đắc lực v ề thiền định và trí tuệ mà cũng có công giúp đỡ nhà nước”. Văn bia chùa Linh Xứng cũng có đoạn: “Ôi! sinh nuôi ta, không ai lớn hơn vua, cha cho lên phải tôn kính...". Ý tưởng của các vua Lý được các vua đầu thời Trần ti ếp nh ận và th ực hi ện. Tr ần Thái Tông, một ông vua đã từng xông pha n ơi chiến trận, suốt đ ời ghi nh ớ câu nói c ủa quốc sư Phù Vân: "Phàm đã làm vua của thiên hạ phải lấy ý muốn c ủa thiên hạ làm ý muốn của mình, phải lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng c ủa mình'', nhưng không quên sùng Phật. Trong ''Thiền tông chỉ nam'' ông đã nói lên s ự k ết h ợp đ ạo v ới đ ời, "Đạo Phật không chia nam bắc, đều có thể tu cầu. Tính người có hi ền ngu, đ ều cùng được giác ngộ, vì vậy, đại giáo của đức Phật là phương ti ện để mở lòng mê mu ội, là con đường soi rõ lẽ tử sinh. Còn trách nhi ệm nặng n ề c ủa tiên thánh là đ ặt m ực th ước cho tương lai, nêu khuôn phép cho hậu thế". Hòa nhập Phật và Nho giáo vào cùng m ột đích chung của công cuộc ổn định xã hội. ''Tam giáo đồng nguyên'' là như vậy. Phát triển tư tưởng đó của ông mình và dựa vào lí thuyết c ủa Tu ệ Trung th ượng sĩ (Trần Tung), Trần Nhân Tông đã dựng nên dòng Phật Đại Việt với tên gọi Trúc Lâm. Xuất phát từ giáo lí Thiền Tông, dòng Phật Trúc Lâm lấy sự gắn li ền gi ữa ''tâm" và ''Phật'', ''Phật ở trong lòng'' làm hạt nhân. Bài ''Phật tâm ca'' của Tuệ Trung thượng sĩ có đoạn: Phật, Phật, Phật bất khả biến Tâm, Tâm, Tâm bất khả thuyết Nhược tâm sinh thời thị Phật sinh Nhược Phật diệt thời thị tâm di ệt Di ệt tâm tồn Phật thị xứ vô Diệt Phật tồn tâm hà thời yết (Nghĩa là phật không thể biến được Tâm không thể nói được tâm Tâm sinh thì Phật cũng sinh phật diệt ắt tâm cũng mất Không đâu tâm diệt mà còn phật Chẳng lúc nào Phật diệt mà còn tâm) Trần Nhân Tông cũng nói: ''Chỉn Bụt là lòng, sá ướm hỏi đòi cơ Mã tổ"
  4. Từ đó mà có quan niệm, ''lấy tâm truyền tâm, không dùng văn tự", "Ph ật ở trong lòng, lòng lặng lẽ và sáng suốt, đó chính là chân Phật", nghĩa là ''giác ng ộ đ ược b ản tâm'' có thể thành Phật. Một khi lòng đã giác ngộ, thanh tĩnh thì cũng ''Chẳng còn bị thử, tranh nhân chấp ngã Trần duyên rũ hết, thị phi chẳng nề ... Thân này chẳng quản bữa đói bữa no Công danh chẳng trọng, phú quý chẳng màng… (Trần Nhân Tông) Và lúc ấy, dù là vua quan, đại thần, thừa tướng hay quốc sư, c ư sĩ đều có thể thành phật. Tóm lại, Thiền Trúc Lâm lấy sự giác ngộ trong lòng làm gốc, mong muốn đ ưa Phật đến mọi nhà, mọi người đồng thời cũng gắn Phật với cuộc sống th ực t ại, v ới v ận mệnh dân tộc. Trân Nhân Tông được xem là vị tổ thứ nhất của Phật Trúc Lâm. Người k ế t ục là s ư Pháp Loa và sau đó là sư Huyền Quang… Tuy nhiên công cuộc xây dựng một nhà n ước theo mô hình Hán- Đ ường, vi ệc ti ếp xúc thường xuyên với nền văn minh Trung Hoa và sự nghiệp chống ngo ại xâm c ủa dân tộc đã không cho phép Phật giáo- dù là phái Trúc Lâm, phát tri ển thành qu ốc giáo. Các vua quan nhà Trần sau thời Nhân Tông đã xa dần Phật giáo. Giáo dục và Nho giáo: Từ đầu công nguyên, chính quyền đô hộ đã du nhập chữ nho, m ở tr ường dạy h ọc trên đất Âu Lạc. Nhưng với quan niệm đó là công cụ đồng hoá của giai cấp thống trị ngoại tộc, nhân dân ta đã chống lại. Cho đến thế kỉ X, tuy ch ữ Hán đã tr ở thành ch ữ vi ết chính thức nhưng số người biết chữ, biết Nho học còn ít ỏi. Các nhà sư th ường là l ớp trí thức quan trọng bên cạnh các viên chi hậu, viên ngoại lang. việc xây dựng nhà nước theo mô hình phương Bắc trở thành tất yếu thì Nho học cũng ngày càng có vai trò quan trọng. Năm 1070, Lý Thánh Tông cho xây dựng Văn Miếu ở kinh thành, đ ắp t ượng Kh ổng Tử, Chu Công, tứ phối và 72 người hiền của đạo Nho, cho thái t ử ra đó h ọc. Giáo d ục Nho học chính thức được thiết lập. Năm 1075, nhà Lý mở khoa thi Minh kinh đầu tiên. Người đỗ đầu là Lê Văn Thịnh (người Già Bình- Bắc Ninh) được đưa vào cung dạy thái tử rồi sau đó, được cử làm quan (thăng dần hết chức thái sư). Năm 1076, nhà Lý đã mở kì thi viết, toán và luật để chọn người làm lại viên và năm 1195 m ở kì thi tam giáo đầu tiên. Tuy nhiên, giáo dục Nho học dưới thời Lý chưa phát tri ển. Với mong muốn tăng nhanh trình độ học vấn của quan chức, ngay từ năm 1232, nhà Tr ần đã m ở khoa thi đầu tiên của triều đại mình. Năm 1247, nhà Trần đặt lệ lấy Tam khôi (3 người đỗ đầu: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) và quy định cứ 7 năm mở 1 khoa thi. Năm 1255, vua Trần đặt lệ lấy 2 trạng nguyên: 1 kinh (cho các tỉnh phía b ắc) 1 tr ại (cho Thanh Hoá- Nghệ An) để khuyến khích việc học tập của các lộ ph ương Nam. Năm 1275 lệ này bị bãi bỏ vì thấy không cần thiết nữa. Năm 1804, nhà nước quy định ra nội dung thi 4 trường: Trường l: Thi ám tả cổ văn Trường 2: Thi kinh nghi, kinh nghĩa, thơ, phú. Trường 3: Thi chế, chiếu, biểu
  5. Trường 4: Thi đối sách Sau đó mở kì thi Đình để phân hạng cao thấp các thái học sinh. Năm 1396, nội dung thi 4 trường được quy định lại Trường 1: Thi kinh nghĩa Trường 2: Thi thơ phú Trường 3: Thi chế, chiếu, biểu. Trường 4: Thi văn sách Kỳ thi Hương ở địa phương cũng bắt đầu được tổ chức. Các sách h ọc chính cũng được quy định: Ngũ kinh, Tứ thư, Bắc sử… Những người đỗ đạt được bổ vào các chức ở viện Hàn lâm, các, c ơ quan hành khi ển, sung vào các phái bộ sứ thần hay tiếp sứ Trung Quốc. Dần d ần h ọ tr ở thành m ột b ộ phận quan trọng trong bộ máy nhà nước, đặc biệt ở thời Trần Nhi ều người trong s ố đó đã đóng góp quan trọng vào công cuộc ngoại giao cũng nh ư chính tr ị, nh ư Nguy ễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Phạm sư Mạnh, Lê Quát... Trong nhân dân, Nho học cũng từng bước phát triển. Ban đầu các nhà chùa là n ơi d ạy học chữ nho, các sách kinh sử. Về sau, nhiều nhà nho, nhi ều thái h ọc sinh không làm quan, ở nhà dạy học. Một trong những người thầy giáo xuất sắc hồi ấy là Chu Văn An. Sự phát triển của giáo dục Nho học đã góp phần phổ cập Nho giáo trong nhân dân v ới các quan niệm về tam cương, ngũ thường, trung quân. Truyền thống tôn sư tr ọng đ ạo cũng hình thành. Tuy nhiên, Nho giáo phổ biến chủ yếu trong tầng l ớp quan lại, các nho sĩ. Nhân dân chỉ tiếp nhận những gì gần gũi với họ, góp phần c ủng c ố những t ục lệ cổ truyền của họ. Vì vậy mà sứ thần nhà Nguyên sang Đại Vi ệt vào cu ối th ế k ỉ XIII đã nhận xét: Hạ tục kiêu phù thạm Trung Hoa lễ nhạc vô (Nghĩa là “Tục dân rất nông nổi, không lễ nhạc Trung Hoa”) Giữa thế kỉ VIV, nhà nho Lê Quát nhận xét “ta từng d ạo xem núi sông d ấu chân đi hằng nửa thiên hạ mà tìm nhà học và văn miếu thì chẳng thấy đâu”. Vì vậy, nảy sinh cuộc đấu tranh phê phán Phật giáo trong gi ới nho sĩ. T ừ cu ối th ế k ỉ XIII, Lê Văn Hưu đã phê phán nhà Lý quá tôn sùng Phật giáo “tiêu phí c ủa và s ức dân vào việc thổ mộc”. Sang thể kỉ XIV, Trương Hán Siêu viết bài kí tháp Linh T ế núi Dục Thúy (Ninh Bình) cho là "Phật giáo mê ho ặc chúng sinh... phá ho ại di lu ận, hao phí của cải, nườm nượp mà đi, nhung nhúc mà theo, ít k ẻ không phải là yêu ma gian tà" Bất bình vì lắm kẻ "Trốn việc quan đi ở chùa", nhiều vị sư sa đọa, ông vi ết ở bài văn bia chùa Khai Nghiêm: "một bọn giảo hoạt gian ngoan, mất hết c ả bản ý kh ổ hạnh, không hư, chỉ ham chiếm đoạt được vườn xinh, cảnh đẹp, để nhà c ửa lộng l ẫy như vàng ngọc" Tình hình đó buộc Hồ Quý Ly, năm 1396 phải ra lệnh sa, th ải b ớt tăng đ ồ, ai ch ưa đ ến 50 tuổi đều phải hoàn tục. Đồng thời, tư tưởng Nho học "gắn li ền học với hành" c ủa Chu An cũng nổi lên làm cơ sở cho nhà Hồ chống lại những quan điểm gò bó c ủa Tống nho Địa vị của Nho giáo dần dần được nâng cao. Đ ạo giáo du nh ập và Đ ại Vi ệt, đến đây nhanh chóng hòa vào các tín ngưỡng cổ truyền của nhân dân ho ặc chuy ển hoá sang Phật giáo. - Văn học - nghệ thuật:
  6. + Tình hình xã hội và sự phát triển của giáo dục đã góp phần quan tr ọng tạo nên m ột nền văn học phong phú và đậm đà bản sắc dân tộc. Điều đáng ti ếc là hiện nay số th ơ văn đương thời còn lại rất ít Từ thế kỉ X nhà sư Ngô Chân Lưu đã vi ết nên những bài thơ đầy cảm xúc Vạn trùng sơn thủy thiệp thương tang Cửu thiên quy lộ trường Tình thảm thiết, dối ly thưởng Phan luyến sứ linh lang (nghĩa là: Muôn trùng non nước mênh mang, Đường xa bao dặm tr ường, Tình l ưu luyến, chén đưa đường, Nhớ vị sứ lang) Có thể phân thành 2 giai đoạn: Trước thế kỉ XIII và thế kỉ XIII- XIV. Ở giai đo ạn đầu, thơ văn để lại chủ yếu là sáng tác của các nhà sư, đậm đà màu sắc Phật giáo. Chẳng hạn như những câu thơ của nhà sư Lã Định Hương Bản lai vô xứ sở Xứ sở thị chân tông Chân tông như thị huyễn Huyễn hữu tức không không (chân dữ huyễn) (nghĩa là: Vốn xưa không xứ sở, Xứ sở là chân tông, Chân tông như th ị huyễn, Gi ả, có cũng không không) Sư Hải Thiền cũng viết trong bài Cảm hoài: Nhân tâm tận thức vô vi lạc Nhược đắc vô vi thủy thị gia (nghĩa là: Người người hiểu rõ vô vi là vui, Nếu được vô vi mới chính là nhà) Tuy nhiên, cuộc sống sôi động cũng lôi kéo các nhà sư về v ới nh ững nét đ ẹp c ủa đ ất trời, Nhà sư Mãn Giác đã viết: Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận Đình tiền tạc dạ nhất chi mai (Cáo tật thị chúng) (nghĩa là: Chớ tưởng xuân tàn hoa rụng hết Đêm qua sân trước nở cành mai) hoặc như nhà sư Quảng Nghiêm viết: Nam nhi tự hữu xung thiên chí Hữu hướng Như Lai hành xứ hành (nghĩa là: Làm trai tự có chí xông lên, Sao chỉ biết làm theo đúng Như Lai) Chúng ta cũng còn được đọc lời Chi ếu dời đô đậm đà ni ềm tin vào s ự t ự c ường c ủa dân tộc hoặc bài ''thơ thần'' ''Nam quốc sơn hà Nam đế c ư" v ốn đ ược xem là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên ở giai đoạn hai, tuy văn h ọc Ph ật giáo còn ti ếp t ục phát triển với nhiều bài văn bia, tập Khóa hư lục của Trần Thánh Tông, các bài ng ữ l ục của Trần Nhân Tông, Tuệ trung thượng sĩ ngữ lục V.V… nhưng cùng v ới s ự phát triển của giáo dục, một dòng văn học trần tục, yêu n ước đã n ổi lên làm rạng r ỡ cho thơ văn một thời. Bản thiên cổ hùng văn Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo có th ể xem là áng văn m ở đầu cho dòng văn học đó. Ngày nay chúng ta không kh ỏi xúc đ ộng khi đ ọc l ại nh ững câu: ''Huống chi ta cùng các ngươi sinh ra vào lúc rối ren, l ớn lên trong bu ổi ho ạn n ạn, thấy sứ giả của giặc qua lại dọc ngang ngoài đường, khua tấc lưỡi cú v ọ mà khinh r ẻ triều đình, đem cái thân chó dê mà ngạo mạn tể tướng, thác lệnh của Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để thoả lòng tham vô cùng…ta từng tới bữa quên ăn, n ửa đêm đ ập g ối,
  7. nước mắt giàn giụa, lòng dạ như dần, vẫn căm giận muốn ăn thịt n ằm da, nhai gan uống máu của giặc. Dẫu trăm thây ta phơi ngoài bãi đồng, nghìn xác ta b ọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm…” Đó là đạo lí làm người dân Vi ệt tr ước ho ạ xâm lăng của một kẻ thù hung bạo. Và từ ý thức dân tộc kiên cường đó mà có những câu thơ của Trần Quang Khải Đoạt sáo Chương Dương độ Cầm hồ Hàm tử quan Thái bình tu trí lực Vạn cổ cựu giang san (Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm tử bắt quân thù, Thái bình phải gắng s ức, non nước ấy ngàn thu) Hoặc niềm tự hào của Trần Nhân Tông: Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã Sơn hà thiên cổ điện kim âu (Xã tắc hai phen chồn ngựa đá, Sơn hà muôn thuở vững âu vàng) hoặc lời tự vịnh đầy khí phách của Phạm Ngũ Lão: Hoành sáo giang sơn cáp ki thu Tam quân tì hổ khí thôn ngưu Nam nhi vị liễu công danh trái Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu (Vung giáo non sông đã mấy thu, Ba quân như hổ nuốt phăng trâu, Công danh trai ch ửa đền xong nợ, những thẹn khi nghe chuyện Vũ hầu) Niềm tự hào dân tộc, lòng yêu nước chân chính lan truyền trong các nhà Nho c ủa n ửa đầu thế kỉ XIV làm nên hàng loạt thơ, phú “khôi kì, hùng vĩ”. Bài phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu với những câu (bản dịch) Bấy giờ muôn dặm thuyền bè Cờ bay phấp phới Sáu quân oai hùng, gương giáo sán loáng… Tướng Bồ Kiêm trong trận Hợp Phì, chỉ nháy mắt đã hồn bay thành khói… Đến nay dòng sông vẫn chưa rửa sạch nhuốc nhơ Công tái tạo ngàn năm còn chói lọi... Và kết luận: "Bụi Hồ không dám động chừ, ngàn năm thanh bình tin rằng không ph ải vì sông hiểm chừ mà vì đức lớn mênh mông... Tinh thần đó cũng thể hiện rõ trong bài Bạch Đằng của Phạm S ư M ạnh ho ặc trong hàng loạt bài thơ của ông trong Hiệp Thạch tập, trong Giới hiên thi t ập c ủa Nguy ễn Trung Ngạn như bài Ung châu với câu: chúng quân lão thú tằng kinh chiến Thuyết đáo nam chinh các tự sầu (Lính già từng trải mùi chinh chiến, Nói đến nam chinh ủ mặt mày) bên cạnh đó là hàng loạt bài thơ ca ngợi cảnh thiên nhiên, giàu đ ẹp c ủa đ ất n ước hay đầy cảm xúc tự nhiên như: Đứng mãi nào hay ngày đã muộn Khắp đồng lúa tốt tựa mây xanh (Thơ Bùi Công Quán, d ịch) ho ặc: Ru ộng xanh nh ư gấm nay lại thấy Mây phủ nhà vua mất lối đi (Dịch thơ Phạm S ư Mạnh) ho ặc: Sáng dậy mở cửa sổ Xuân đi nào có hay Một đôi bươm bướm trắng
  8. Phất phới lướt hoa bay (dịch thơ Trần Nhân Tông) Vào nửa sau thế kỉ XIV, cùng với sự suy thoái của nhà Trần, xuất hi ện nh ững nhà th ơ Trần Nguyên Đán, Chu An, Nguyễn Phi Khanh... với những bài, th ấm đ ượm tình thương yêu nhân dân, thông cảm với cuộc sống khổ cực c ủa nhân dân. M ột thành t ựu lớn của thời kì này là sự sáng tạo ra chữ Nôm trên cơ sở chữ Hán. Không lâu sau khi ra đời, chữ Nôm là được hoàn thiện dần và được dùng để sáng tác th ơ văn, xu ất hi ện những nhà thơ nôm nổi tiếng như Nguyễn Thuyên, Nguyễn Sĩ C ố, Hồ Quý Ly.... S ử cũ cũng từng ghi, khi vua Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Chămpa, nhiều người đã "làm thơ Nôm để chê cười... Thời Lý- Trần cũng để lại nhiều văn bia dài, nhiều bài phú "lưu loát, đẹp đẽ'' như Đông hồ bút, Trảm xà ki ếm, Ng ọc t ỉnh liên,Thiên Hưng trấn Ngoài ra thể loại truyện cũng ra đời như Báo cực truyện, Vi ệt đi ện u linh, Lĩnh nam chích quái, Nam ông mộng lục Với ý thức dân tộc sâu sắc, nhân dân Đại Việt không chỉ xây dựng cho mình m ột n ền văn học phong phú mà còn cả một nền nghệ thuật đặc sắc. Các công trình xây dựng từ cung điện của vua đến dinh thự của các quan lại, đền đài, chùa quán nhi ều không k ể xiết, mặc dầu di tích còn lại không nhiều. Năm 984, Lê Đại Hành ''làm đi ện Bách b ảo thiên tuế ở núi Đại Vân, cột điện dát vàng làm nơi coi ch ầu, bên đông là đi ện Phong lưu, bên tây là điện Tử hoa, bên tả là điện Bồng Lai, bên h ữu là đi ện C ực l ạc... Năm 1010, Lý Thái tổ dời đô về Thăng Long, ở cung thành "Phía tr ước d ựng đi ện Càn Nguyên làm chỗ coi chầu, bên tả làm điện Tập Hiền, bên hữu làm điện Giảng Võ... đều có thềm rồng, bên trong thềm rồng có mái cong, hàng hiên bao quanh 4 m ặt. Sau điện Càn Nguyên dựng hai điện Long An và Long Thụy làm n ơi nghỉ ngơi''. Lý Thái Tông làm thêm điện Tuyên Đức, điện Diên Phúc có thềm trước gọi là th ềm r ồng (long trì), bên trong hai phía đông tây có điện Văn Minh và điện Quảng Vũ lại đặt l ầu chuông, phía trước làm điện Phụng Thiên trên điện dựng lầu Chính Dương ch ỉ gi ờ khắc, phú sau làm điện Trường Xuân, ... phía ngoài cung điện cho đắp Long thành... Chùa chiền dựng lên khắp nơi và trở thành biểu tượng của nghệ thuật Phật giáo. N ổi lên các ngôi chùa lớn như Dâu, Phật Tích, Dạm ... Năm 1049, Lý Thái Tông cho xây chùa Diên Hựu "dựng cột đá ở giữa ao, làm tòa sen của phật Quan Âm ở trên cột"; năm l105 Lý Nhân Tông cho sửa lại, "vét hồ Liên Hoa đài, gọi là hồ linh Chi ểu, ngoài h ồ có hành lang chạm vẽ chạy xung quanh, ngoài hành lang lại đào hồ gọi là Bích Chì có c ầu bắc qua để đi lại... Các chùa thường có tháp lớn như tháp Báo Thiên (Hà N ội) 12 t ầng, cao m ấy ch ục mét, tháp Phổ Minh (Nam Định) 14 tầng, cao 21m v.v.. Một công trình kiến trúc lớn đánh đấu tự phát tn ển c ủa ngh ệ thuật xây d ựng thành lũy đương thời là thành nhà Hồ ở Vĩnh Lộc (Thanh Hoá). Thành hình vuông, mỗi cạnh dài 500m Cống thành hình vòm xây b ằng nh ững kh ối đá lớn, có khối dài 7m, cao 1m 5, dày 1m nặng khoảng 15 tấn. Thành đ ắp bằng đ ất có khối lượng khoảng 80.000 m3,xung quanh,có hào sâu, có cống ngầm thông trong ngoài. Phía trong thành là cung điện và dinh thự các quan. Nghệ thuật đúc chuông tô tượng rất phát triển. Người Trung Quốc đã t ừng nói đ ến “An nam tứ đại khí” là tháp Báo Thiên, chuông Quy điền (ở chùa Diên Hựu), vạc Ph ổ Minh (chùa Phổ Minh- Nam Định) và tượng phật chùa Quỳnh Lâm (Đông Tri ều- Quảng Ninh) cao 6 trượng (khoảng 20m). Bên cạnh đó còn có trượng Phật Adiđà (chùa
  9. Phật Tích- Bắc Ninh), nhiều tượng linh điểu (Garuda), người có cánh đánh tr ống (Kinnari) mang phong cách nghệ thuật Chămpa, rồng nằm dài theo bậc th ềm, t ượng người, voi, ngựa..v.v… Điêu khắc tinh tế với những bức phù điêu trang trí những mô típ hoa văn hoa cúc nhi ều cánh, hoa sen, lá cây và đặc biệt là con rồng giun mình trơn n ằm gọn trong chiếc lá đ ề. Đặc điểm chung là chân thực, khoẻ mạnh, đơn giản. Điêu khắc trên các bệ cột thường hình hoa sen. Ngoài ra cũng còn một số bức phù điêu khắc trên đá hình các nh ạc công đang biểu diễn mang phong cách Chămpa. Cách trang trí hoa lá nói trên cũng đ ược đ ưa vào nghệ thuật dân dụng (bát, chén, hình, vại)… Âm nhạc, sân khấu đều phát triển, Ban đầu âm nhạc Việt Nam chịu ảnh h ưởng ít nhiều của nhạc Chăm. Năm 1060, Lý Thánh Tông đã cho d ịch các khúc nh ạc Chămpa và cho nhạc công ca hát. Về sau ảnh hưởng của nhạc phương Bắc tăng lên. Sử li ệu cũ còn ghi lại các khúc “Nam thiên nhạc”, “Ngọc lâu xuân”, “Mộng du tiên”, nh ững bài hát “Trang chu nằm mộng hoá ra con bướm”, “Bạch lạc thiên mẹ li bi ệt con”v.v…Nhà nước có kép hát, đào nương. Sứ giao tập của Trần Cương Trung (cu ối th ế k ỉ XIII) mô tả lễ yến ở điện Tập hiền “tiếng hát tiếng đàn hoà lẫn nhau…” hoặc “m ỗi lần rót rượu lại hô to lên rằng: “Phường nhạc tấu khúc nhạc” thì dưới gi ải vũ lại tấu nhạc theo luôn với những khúc như Giáng Châu Long, Nhập hoàng đô…âm đi ệu cũng gi ống âm điệu cổ nhưng ngắn hơn…” Nhạc cụ có trống cơm, tiêu, não bạt, sáo, đàn cầm, đàn tranh, đàn tì bà, đàn 7 dây, đàn hai dây, đàn bầu… Nhảy múa thường được tổ chức ở cung đình cũng như trong nhân dân. Ngoài ra, ngh ệ thuật chèo, tuồng rất phát triển. Chèo hát là sinh hoạt được các quý tộc ham thích. Cùng với chèo, hề cũng phổ biến. Sau kháng chiến chống Nguyên, tu ồng cũng xu ất hiện với nghệ nhân người Tống là Lý Nguyên Cát. Múa r ối là m ột ngành ngh ệ thu ật đặc sắc. Cùng với âm nhạc, sân khấu, các ngày lễ hội trong nhân dân cũng có nhi ều trò vui chơi, đua tài như leo dây, vật, đua thuyền, trò chơi tang c ưu, ném còn, đánh c ầu…Trò “vật cù” của Phạm Ngũ Lão rất được ham chuộng: Hai bên tranh lấy quả cầu Dân an quốc thái sống lâu vững bền. Tóm lại sự phát triển của văn học nghệ thuật phong phú, đa dạng, đã tạo nên m ột b ộ phận quan trọng của nền văn minh Đại Việt đương thời. - Khoa học - kỹ thuật: Công cuộc xây dựng đất nước và củng cố nền đôc lập dân tộc sớm làm n ảy sinh nhu cầu ghi chép lịch sử. Các nhà nước Lý- Trần đều có Vi ện quốc sử chuyên ghi chép những hoạt động của nhà nước - chủ yếu của vua. Nguồn sử liệu cũ đã nhắc đến sách sử của Đỗ Thiện thời Lý, tuy nhiên, bộ sử chính thống đầu tiên chỉ ra đ ời ở th ời Tr ần. Theo lệnh của vua, năm 1272, nhà sử học- quốc sử viện giám tu Lê Văn Hưu đã so ạn xong bộ Đại Việt sử kí 30 tập, viết lịch sử n ước ta từ Triệu Vũ đ ế đ ến Lý Chiêu Hoàng. Bộ sử này không còn nữa, chỉ được nhắc đến trong các b ộ sử th ời Lê. Ti ếp theo, một số người đã viết thêm các bộ sử khác (có tính chất tư nhân) nh ư Vi ệt s ử lược (vô danh), Việt sử cương mục và Việt Nam thế chi c ủa Hồ Tông Th ốc. Cu ối th ế kỉ XIII, đầu thế kỉ XIV, các vua Trần đã cho biên soạn Trung hưng th ực l ục nói v ề cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông – Nguyên, các bộ thực lục (c ủa Đoàn Nh ữ Hài và của Nguyễn Trung Ngạn...) nhưng đều không còn n ữa. Đ ồng th ời ở n ước
  10. ngoài, một người Việt là Lê Trắc đã viết An nam chí lược bổ sung thêm t ư li ệu cho lịch sử. Các nhà sư cũng có sách sử riêng, nay còn lại Thi ền uyển t ập anh ng ữ l ục và Tam t ổ thực lục. Các bộ sách đương thời đã được viết theo những dạng khác nhau như biên niên, chuyên đề... Những tư liệu về địa lý đất nước đã được biên soạn. Năm 1172, Lý Anh Tông đã đi tuần ở các địa giới phiên bang Nam Bắc “vẽ bản đồ và ghi chép phong vật rồi về”. Toán học được sử dụng và ban đầu là m ột môn thi c ủa các lại viên, v ề sau, H ồ Quý Ly biến thành môn thi thứ năm trong thi Hội. Tuy không cò lại các tác ph ẩm toán h ọc nhưng việc xây dựng kinh thành, thành An tôn (thành nhà H ồ), các b ảo tháp cao hàng chục trượng chắc chắn đòi hỏi một trình độ toán học cao. Thiên văn học thành một bộ môn rất được quan tâm. Các sách l ịch s ử đã nói đ ến những cuộc đồng Hồ ở cung vua, nhà thiên văn học Đặng Lộ làm ra lịch mới ( hiệp kỉ) dùng cho nước ta vừa làm ra một dụng cụ gọi là Linh Lung Nghi để khảo nghi ệm th ời tiết. Tư đồ Trần Nguyên Đán cũng làm một nhà thiên văn học. Từ cuối thế kỉ XIV, do nhu cầu quốc phòng, nhà chỉ huy quân sự Hồ Nguyên Trừng (con của Hồ Quý Ly) đã sáng chế ra loại súng lớn nhỏ gọi là Thần c ơ sang pháo và cùng các thợ thủ công đóng loại thuyền chiến có lầu. Tóm lại, trong những thế kỉ đầu độc lập, với tinh thần dân tộc và ý th ức t ự c ường, nhân dân Đại Việt đã phát huy mọi khả năng để tạo nên m ột n ền văn hoá dân t ộc đa dạng, phong phú, đặc sắc vừa có những nét ti ếp nối n ền văn hoá c ổ truy ền v ừa có những nét sáng tạo, mới mẻ, xuất phát từ sự tiếp nhận ảnh hưởng của các n ền văn hoá các nước xung quanh. Nền văn hoá Đại Viêt thời Lý- Trần đã trở thành cơ sở vững bền cho những thành tựu văn hoá của các giai đoạn lịch sử tiếp sau của dân tộc. (Theo Đại cương Lịch sử Việt Nam)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2