intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Văn học Trung Quốc - Chương 7

Chia sẻ: Nguyễn Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:25

163
lượt xem
37
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Một số chủ đề truyện ngắn Trong sự phục hưng và phát triển của văn học trong thời kì mới, trước hết phải nói đến thể loại truyện ngắn. Thể loại văn học này có thành tựu chói sáng từ trước và sau “Ngũ tứ” (1919) mà đỉnh cao là những kiệt tác bất hủ của đại văn hào Lỗ Tấn. Có thể nói truyện ngắn Lỗ Tấn mà tiêu biểu là AQ chính truyện, Lễ cầu phúc, Khổng Ất Kỷ, Nhật kí người điên, Cố hương là những “phát đại bác” ầm vang mở dầu cho nền văn...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Văn học Trung Quốc - Chương 7

  1. CHƯƠNG 7. TIỂU THUYẾT ĐƯƠNG ĐẠI 8.1. Một số chủ đề truyện ngắn Trong sự phục hưng và phát triển của văn học trong thời kì mới, trước hết phải nói đến thể loại truyện ngắn. Thể loại văn học này có thành tựu chói sáng từ trước và sau “Ngũ tứ” (1919) mà đỉnh cao là những kiệt tác bất hủ của đại văn hào Lỗ Tấn. Có thể nói truyện ngắn Lỗ Tấn mà tiêu biểu là AQ chính truyện, Lễ cầu phúc, Khổng Ất Kỷ, Nhật kí người điên, Cố hương là những “phát đại bác” ầm vang mở dầu cho nền văn học hiện đại cách mạng Trung Quốc. Trong văn học thời k ì mới truyện ngắn là thể loại văn học “anh hùng”, “thủ công”. Nó là những “quả lựu đạn”, những “quả bộc phá” làm nổ tung ngục tù chính trị và văn nghệ đen tối mười năm “cách mạng văn hoá” của tập đo àn Lâm Bưu, Giang Thanh và “Bè lũ bốn tên”, mở ra một con đường mới cho văn học hiện thực chủ nghĩa Trung Quốc phát triển trong thời k ì cải cách, mở cửa. Nữ văn sĩ Vương An Ức, chủ tịch hội nhà văn Thượng Hải, sau khi đọc những tiểu thuyết hay và truyện ngắn hay nhất của các năm gần đây đã nhận xét: Cái mà tôi gọi là da thịt của cuộc sống trong các thiên truyện kia ngày một rắn chắc hơn. Chúng tựa hồ như bước ra khỏi quan niệm phức tạp. dị kì của những năm 1990, từ trong định nghĩa hư không mà tiến vào thế giới trải nghiệm vô danh mà sinh khí bừng bừng. Tiểu thuyết Trung Quốc đã sống bao nhiêu năm, đã có bao nhiêu người cầm bút mà vẫn cứ xuất hiện bao nhiêu sáng tạo mới mẻ, bởi vì những kinh qua của cá nhân đã không hề trùng lặp. Nó là một loại vật chất không có cách gì để quy nạp, trừu tượng hoá, cái này là cái này, cái kia là cái kia, là thực thể sống sinh tồn và phát triển theo lí do riêng lẻ. Xã hội đang trong đà vươn tới hiện đại, dầu vậy vẫn có nhiều cách giải thích khác nhau nếu xuất phát từ các góc độ khác nhau và tiểu thuyết của chúng ta đã phản ánh xu thế đó. (Thái Nguyễn Bạch Liên, 2003) Những hình tượng nhân vật trong văn học đương đại rất đa dạng và đặc sắc. Đó là một giáo viên mẫu mực với lí tưởng cao đẹp của sứ mệnh giáo dục thế hệ trẻ, đó là một người nghệ sĩ hết lòng vì nghệ thuật và trân trọng cái đẹp đúng nghĩa, đó có thể là một người nông dân thật thà chất phác sống chí t ình chí nghĩa, hay đó chỉ là một ông lão bơ vơ lạc lõng giữa chốn đô thị xa hoa hiện đại… Chúng ta nhận thấy rằng những hình tượng nhân vật này được khắc hoạ một cách chân thực độc đáo. Họ đã nhân danh cho tình người thiêng liêng và bao la để làm đẹp cuộc đời và làm đẹp lòng người. Họ đã làm sáng thêm ngọn lửa nhân văn cao đẹp và giữ cho nó sáng mãi theo thời gian. Từ những điều trên, chúng tôi cảm nhận rằng tìm hiểu hình tượng nhân vật trong các tác phẩm đương đại Trung Quốc mà cụ thể là hình tượng nhân vật trí thức, hình tượng nhân vật nông dân và hình tượng nhân vật lao động khác là một vấn đề rất thú vị. Nghiên cứu ở nước ngoài Những nghiên cứu về Văn học Trung Quốc đương đại của các tác giả người Trung Quốc. Đó là “Đương đại Trung Quốc văn học” của Diêu Đại Lương chủ biên (1993) và “Hai mươi năm văn học thời kì mới” của Vương Thiết Tiên, Dương Kiếm Long, Vương Khắc Cường, Mã Di Lỗ, Lưu Đỉnh Sinh (2001). Cả hai đều nghiên cứu về tình hình văn học đương đại Trung Quốc với sự “nở rộ” và “cách tân đổi mới” của các thể loại văn học ở phương diện cả nghệ thuật lẫn nội dung. Họ khẳng định những thành tựu cũng như tiềm lực của văn học thời khì mới. Và cả hai sự nghiên cứu này đều quan tâm 20
  2. nhiều đến tiểu thuyết, tản văn và thơ ca mà chưa chú ý nhiều đến truyện ngắn. MỘT SỐ NỘI DUNG TIÊU BIỂU TRONG TRUYỆN NGẮN ĐƯƠNG ĐẠI Thứ nhất, đó là lên án những “vết thương” do ảnh hưởng của “Bè lũ bốn tên”, đề cập đến hoàn cảnh giáo dục và những quan niệm mới về con người. Tiểu biểu cho nội dung này là truyện Chủ nhiệm lớp của Lưu Tâm Vũ. Truyện nói lên sự ảnh hưởng dai dẳng của độc tố mà "Bè lũ bốn tên" đã gieo vào tâm trí của thế hệ trẻ làm họ suy nghĩ lệch lạc và thậm chí tha hoá, đồng thời truyện cũng đề cao trách nhiệm của nhà giáo dục trong việc cải tạo tâm hồn, thanh lọc trí óc cho lớp thanh niên lệch lạc ấy bằng một trách nhiệm lớn lao và tấm lòng cao cả. Hay đó là truyện Vết thương của Lưu Tân Hoa, truyện đã nêu bật lên sự ảnh hưởng nặng nề và sự phân biệt nghiệt ngã mà con người đã chịu từ nọc độc do “Bè lũ bốn tên” để lại. Họ không thể chối bỏ quá khứ, bị cho là phản bội (dù là nhiệm vụ hay bị hiểu lầm đi chăng nữa) và phải chịu sự khinh rẻ, đề phòng của mọi người. Hay đó là truyện Bảo vệ anh đào của Cừu Sơn Sơn nói về tấm lòng hi sinh cho sự nghiệp giáo dục, tất cả vì học sinh thân yêu, quyết không để sự bất công, dốt nát ảnh hưởng đến thế hệ sau. Hay đó là sự chiêm nghiệm về cuộc sống của nhà văn nặng nghiệp văn chương, muốn hết lòng thực hiện lý tưởng nhưng những quan niệm lỗi thời đã kìm hãm không cho những khát vọng nghệ thuật bay cao bay xa. Nhưng chung nhất vẫn là sự ý thức mạnh mẽ trách nhiệm của bản thân cùng lòng yêu nước thiết tha, muốn dùng hết sức lực và tài năng phục vụ tổ quốc, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Thứ hai, đó là những truyện viết về những mối quan hệ của xã hội, cộng đồng, vấn đề cải tạo những mối quan hệ ấy theo chiều hướng tốt đẹp, làm ngời sáng tình người với nhau. Đồng thời cũng nêu lên được những giá trị truyền thống tốt đẹp cần phải được gìn giữ. Những truyện Chim phóng sinh của Hoàng Mỹ Hoa, Lá thư tình của Cố Công, Kính của Giả Bình Ao là những suy ngẫm, trăn trở về giá trị truyền thống ngày càng bị mai một trong xã hội ngày nay. Sự phóng túng của lớn thanh niên, thói đạo đức giả tạo được che đậy đến nực cười hay sự lạc lõng của lớp người đi trước giữa cảnh xa hoa dị thường của lối sống hiện đại hoá điện cuồng đã làm cho người đọc phải gấp trang sách lại để suy gẫm. Đó như những tiếng chuông cảnh tỉnh con người hãy quay về cội nguồn để gìn giữ những giá trị tốt đẹp vốn có. Những truyện như Đinh hương tháng Mười của Vương Tùng, Song cầm tế của Lương Hiểu Thanh, Lá phong của Vương Mông thì cũng những vấn đề trên nhưng các tác giả đề cập đến có phần thẳng thiết và da diết hơn bằng những triết lí sâu sắc lay động lòng người, kết hợp với bút pháp t ượng trưng đầy ý nghĩa biểu cảm. Đề tài những người nông dân cũng được đề cập đến một cách chân thật và đầy ý nghĩa giáo dục, sự cảm phục cùng lòng yêu quí đã trở thành điểm nhấn cho những tác phẩm này. Chúng ta như được hiểu thêm về đời sống cơ cực của những người nông dân, hơn thế nữa còn thấy được ở họ vẻ đẹp tâm hồn đáng trân trọng. Những truyện ngắn về người nông dân của Giả Bình Ao là những truyện như thế. Hắc Thị, Thiên Cẩu, Triền núi hẹp đều là những thiên truyện cảm động về những người lao động thật thà, mộc mạc nhưng thanh cao thuần khiết. Trên nền phong cảnh hùng vĩ của núi non hay bạt ngàn của đồng lúa xanh mơn mởn, chân dung của những người lao động vẫn hiện lên sừng sừng và tỏa sáng nơi tâm hồn trong trẻo, cao đẹp, soi rọi cho những ước mơ cháy bỏng, khát vọng tự do, được là chính mình, sống bằng năng lực và tình yêu của bản thân mình. Thứ ba là những truyện có nội dung phản ánh cuộc sống và sự khát khao tình cảm của con người thời hiện đại. Đây là những câu truyện nhẹ nhàng, trầm lắng và sâu 21
  3. sắc. Những câu chuyện rất đỗi đời thường, xảy ra hằng ngày trong đời sống. Đó là truyện Nhà văn và thiếu nữ của Triệu Quảng Tồn, Chào em, Tiểu Mai của Vương Quân, San San và Sa Sa của Nhiêu Kiến Trung, Đoá hồng cuối cùng của Từ Tuệ Phấn, những câu chuyện tưởng chừng bình thường nhưng đó lại hiện thực của cuộc sống mà hằng ngày chúng ta vô tình hay hữu ý đã bỏ quên mất. Những cảm xúc bình thường nhất cũng tạo nên những vẻ đẹp tự nhiên nhất. Những câu chuyện trên như những bài tình ca êm đềm, thơ mộng tạo sự đồng cảm với người đọc. Thêm vào mảng nội dung này còn có những câu truyện về những thân phận của t ình yêu. Họ yêu nhau thật lòng nhưng vì nhiều lý do, mà áp đảo nhất là sự môn đăng hộ đối - sự phân biệt nghiệt ngã giữa giàu và nghèo làm cho tình yêu của họ thật buồn và đầy bi kịch. Tiêu biểu cho những mối t ình ngang trái ấy là truyện Hai vé xem phim của Khuyết Danh, Chuông gió của Lưu Quốc Phương. Nếu ở trên là những bản tình ca sâu lắng, lãng mạn của những chuyện hằng ngày trong cuộc sống bộn bề này thì các thiên truyện ở dưới như những khoảng lặng buồn của bản t ình ca trắc trở phân li làm cho chúng ta không khỏi bồi hồi xúc động. Còn truyện Thời đại ảo của Ngô Huyền như một tiếng chuông gióng lên cảnh báo con người trong thời đại khoa học kỹ thuật. Khi mà máy móc dần thay thế con người thì sự ảo ảnh mộng mị của thế giới ảo sẽ làm con người ta xa rời cuộc sống, biến ta thành môn đồ sùng tín đến mê muội không tìm ra lối thoát. Chính vì thế ngày nay tâm thế và phương châm sống của con người đã phần nào bị "ảo hoá". Trong cuộc sống, con người không thể chỉ chạy theo ảo tưởng mà quên đi hiện thực, phải biết chọn lọc những tác động để không bị sa vào thời đại ảo một cách mù quáng, tỉnh táo và ý thức là luôn luôn cần thiết và con người càng ngày càng phải thận trọng với những phát minh của mình. Trên đây là những nội dung tiêu biểu của một số truyện ngắn đương đại Trung Quốc. Vì tư liệu quá đồ sộ nên chúng tôi chỉ đi vào một số truyện tiêu biểu. Nhưng thiết nghĩ qua những thiên truyện này chúng ta phần nào thấy được xã hội Trung Quốc đương thời về bối cảnh cuộc sống cũng như tâm tư tình cảm của con người Trung Quốc hiện nay. Sơ lược chủ đề và tác phẩm Nhóm chủ đề 1 ”Vết thương’ do ảnh hưởng của 10 năm “Văn cách động loạn”. hoàn cảnh giáo dục và quan niệm mới về con người. Chủ nhiệm lớp của nhà văn Tâm Vũ, Bảo vệ anh đào của Cừu Sơn Sơn, Vết thương của Lưu Tân Hoa Nhóm này chủ yếu miêu tả hình tượng nhân vật trí thức. Nhóm chủ đề 2 Quan hệ xã hội cộng đồng phức tạp với những giá trị truyền thống tốt đẹp cần gìn giữ Song cầm tế của Lương Hiểu Thanh, Lá phong của Vương Mông, Chim phóng sinh của Hoàng Mỹ Hoa, Đinh hương tháng mười của Vương Tùng, Lá thư tình của Cố Công, Triền núi hẹp, Kính , Thiên cẩu của Giả Bình Ao Nhóm này miêu tả hình tượng nhân vật nông dân. 22
  4. Nhóm chủ đề 3 Cuộc sống khao khát tình cảm của con người hiện đại Nhà văn và thiếu nữ (Triệu Quảng Tồn), Chào em Tiểu Mai của Vương Quân, Hai vé xem phim của Khuyết danh, Chuông gió của lưu Quốc Phong, San San và Sa sa của Nhiêu Kiến Trung. Nhóm này miêu tả hình tượng nhân vật một số kiểu người lao động thảo dân khác. (Trích Khóa luận tốt nghiệp của SV Huỳnh Phương Đan khóa 6C do GVC Phùng Hoài Ngọc hướng dẫn) 8.2. Tiểu thuyết thời kỳ đổi mới và nhà văn Mạc Ngôn Theo sự thống kê chưa đầy đủ, chỉ tính riêng năm 1978 đã xuất bản được hơn 55 bộ tiểu thuyết, năm 1979 tăng lên 61 bộ và năm 1980 tăng lên 90 bộ. Từ năm 1980 đến năm 1982 bình quân mỗi năm có hơn 200 bộ tiểu thuyết được xuất bản. Mười bảy năm trước “Cách mạng văn hóa” đỉnh cao của sáng tác tiểu thuyết là năm 1959, năm thứ 10 của Trung Hoa mới ra đời (1949) cũng chỉ có 32 bộ. Điều này chứng tỏ thể loại tiểu thuyết của thời k ì mới gặt hái nhiều kết quả rực rỡ. Không chỉ trên số lượng mà chất lượng của tiểu thuyết trong thời kì này cũng được nâng lên chưa từng thấy. Chất lượng của tiểu thuyết trong thời kì mới được thể hiện ở hai bình diện nghệ thuật và tư tưởng. Mở rộng phạm vi đề tài: Tiểu thuyết của “17 năm” (1949-1966) trước “Cách mạng văn hóa” thường viết về lịch sử cách mạng, chủ yếu tập trung miêu tả phong trào cách mạng quần chúng trong cuộc đấu tranh chống Quốc dân đảng, cuộc đấu tranh giải phóng chống xâm lược Nhật và cuộc đấu tranh phản phong của nhân dân Trung Quốc do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Dưới ngòi bút của nhà văn, phong trào cách mạng sau cách mang Tân Hợi (1911) đến khi thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc (1921) kéo dài thời kì đổi mới mở cửa đều được miêu tả chân thực, sống động và đầy kịch tính. Đó là sự phản kháng anh dũng và sự đàn áp tàn bạo, cuộc kình chống kịch liệt giữa các lực lượng chính phủ và các giai cấp; sự tranh giành quyền lực của chủ thể Trung Quốc; ghi chép lại những trang lịch sử quan trọng trong lịch sử phát triển của Trung Quốc; các tác phẩm dựa trên những bình diện khác nhau biểu hiện con đường trưởng thành của phần tử trí thức tiến bộ phản kháng lại sự gian ác, xấu xa để đi tìm chân lí và ánh sáng; lột tả một cách hình tượng vận mệnh bi thảm của người phụ nữ trong thời đại cũ và con đường sống mới của họ. Tăng cường tình cảm lịch sử và tình cảm thời đại: Tiểu thuyết miêu tả lịch sử cách mạng trong “mười bảy năm” (mười bảy năm trước “Cách mạng văn hóa”) coi trọng ở việc theo đuổi t ình tiết câu chuyện và sắc thái truyền kì, còn rất nhiều tiểu thuyết thời kì mới viết về lịch sử cách mạng thì coi trọng việc bộc lộ hoàn cảnh, phản ánh sự thay đổi, cuộc sống rộng lớn, đặc trưng bàn chất của thời đại và sự phát triển lịch sử. Thể hiện sự phát triển và bộ mặt thời đại của thời kì cách mạng dân chủ cũ Trung Quốc từ cách mạng Tân Hợi đến trước cuộc chiến tranh Bắc phạt, miêu tả sinh hoạt xã hội rộng lớn của thời đại đó: cuộc chiến tranh quân phiệt gay gắt; sự gian khổ của phần tử nhân sĩ trí thức; sự tha hóa của con người trong thời đại mới; những góc khuất của lịch sử cùng với sự chìm nổi của thân phận nhỏ bé. 23
  5. Sự xuất hiện nhiều tác phẩm văn học có tính “sử truyện”: Tiểu thuyết có tính “sử truyện” là một thành tựu quan trọng của sáng tác tiểu thuyết thời cổ đại. Trong tiểu thuyết của thời k ì “mười bảy năm”, loại tác phẩm này rất ít. Trong thời k ì mới, sự “đứt đoạn” của “dòng chảy” này lại được tiếp tục và càng “chảy” mạnh hơn. Chỉ mấy năm ngắn ngủi, tác phẩm mang tính “sử truyện” xuất hiện không ít. Những tác phẩm này không những tái hiện lại bộ mặt tinh thần của một số nhân vật mà còn lưu lại rất nhiều sử liệu có liên quan đến những mặt chính trị, quân sự và văn hóa của thời đại đó.Sự đột phá của tiểu thuyết lịch sử đã dành được thu hoạch to lớn mà văn học thời kì mới đã đem đến cho độc giả. Trong tiểu thuyết của thời kì “mười bảy năm”, ngay cả thời “Ngũ tứ”, tiểu thuyết lịch sử của Trung Quốc là vùng trống vắng trong sáng tác hiện đại. Nguyên nhân chủ yếu là do sự can thiệp của tư trào “tả” làm cho đề tài lịch sử trở thành “vùng cấm” không có ai dám vi phạm. Trong văn học thời kì Đổi mới tình hình này có sự đổi khác. “Vùng cấm” được xóa bỏ, không còn ranh giới, không còn cấm kị. Tiểu thuyết lịch sử đã dám đột phá vào thể loại này, viết nên nhiều tác phẩm mang nhiều tính sử thi, “sử truyện”, t iêu biểu như “ Báu vật của đời” của Mạc Ngôn, được độc giả đón nhận nồng nhiệt. Tiểu thuyết mang tính sử truyện trong thời k ì mới có mấy đặc điểm sau đây: Phản ánh đời sống lịch sử rộng lớn mà sâu sắc. Có thể nói, những tác phẩm này đã phản ánh lịch sử lâu dài cuộc sống xã hội phức tạp và phong phú của xã hội phong kiến Trung Quốc, đến cuộc cách mạng Tân Hợi và kéo dài đến cả những năm Trung Quốc bước vào cải cách mở cửa. Những tác phẩm này không những chú ý dùng hình tượng sáng tạo trên cơ sở sử liệu tương đối chính xác, phản ánh sự chân thật của phong trào lịch sử mà còn chú ý tái hiện bộ mặt chân thực của thời đại. Tất cả đều không hạn chế ở việc miêu tả sự nghiệp và tinh thần của nhân vật chính mà từ bối cảnh thời đại rộng lớn để miêu tả nhân vật, miêu tả thời đại. Đa dạng hóa đề tài lịch sử. Tiểu thuyết lịch sử của thời kì mới về phương diện đề tài có sự đột phá và mở rộng hơn trước rất nhiều. Vấn đề mấu chốt của sáng tác tiểu thuyết là xử lí như thế nào về mối quan hệ giữa chân thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật. Vấn đề này, do quan niệm văn học của các tác giả không giống nhau nên trên biểu hiện nghệ thuật cũng khác nhau. Tuy vậy, đại thể có mấy con đường sau đây: Loại thứ nhất là: lấy tài liệu lịch sử làm căn cứ đối chiếu với t ình tiết câu chuyện và • tính cách của số nhân vật nào đó và nhất định phải hư cấu. Loại thứ hai: cũng là lấy tài liệu lịch sử làm căn cứ nhưng tình tiết câu chuyện có sự • hư cấu. Loại thứ ba là: tôn trọng sự thực lịch sử, yếu tố hư cấu rất ít, tức là kiểu “bác khảo • văn hiến, ngôn tất hữu cứ” (uyên bác ở việc tham khảo văn hiến, lời nói tất đều có căn cứ). Ở đây không có sự phân biệt phải trái, cao thấp. Bởi vì tiểu thuyết lịch sử không phải là sách sử đơn thuần mà là tác phẩm văn học lấy sử liệu làm căn cứ sáng tác. Tiểu thuyết của thời kì mới còn xuất hiện tác phẩm phản ánh cuộc sống của nước Trung Hoa mới. 24
  6. Các tác phẩm miêu tả “cuộc đại cách mạng văn hóa” là một lĩnh vực hoàn toàn mới, mở ra một đề tài của tiểu thuyết thời kì mới. Không chỉ viết về “cách mạng văn hóa” mà đối với lịch sử cũng có sự tìm tòi, suy nghĩ làm cho độc giả tiếp nhận một cách tích cực. Những tác phẩm này có đề tài mới, chủ đề mới và quan trọng hơn là sự lí giải, nắm vững, đề xuất và biểu hiện của tác giả đối với cuộc sống cũng là mới. loại tác phẩm này mang đến dòng máu mới để mọi người đi vào thời kì mới. Có thể rút ra những thành tích đáng chú ý của tiểu thuyết thời kì mới: -Trước hết, nhiều tác phẩm đã duy trì, ủng hộ và phát huy một số truyền thống ưu tú của sáng tác tiểu thuyết truyền thống. Từ trong dòng chảy mạnh mẻ của đời sống, các tác giả đã chọn lựa chủ đề và đề tài có liên quan mật thiết đến vận mệnh của nhân dân và tình hình của đất nước. Về mặt nghệ thuật, nhiều tác giả đã thể hiện nhiều hình thức thể hiện mới, tỏ rõ phong cách, phong thái của người sáng tác văn học, làm cho mọi người phấn khởi sáng tạo ra cái mới, nhất là việc sáng tạo ra hình tượng nghệ thuật mới. Nhân vật anh hùng mới được xây dựng đep đẽ, sáng tạo và có sức thuyết phục cao. Đề tài của tiểu thuyết thời kì mới tương đối rộng lớn, bao quát có tính khái quát cao. Trong thời kì mới, tầm nhìn của các nhà văn được mở rộng và được giải phóng. Họ một mặt vẫn không từ bỏ việc miêu tả cuộc đấu tranh của giai đoạn cách mạng, mặt khác họ đem tầm nhìn đó đặt vào đời sống với giá trị thẩm mĩ mới. Tiểu thuyết của thời kì mới về mặt phương pháp nghệ thuật cũng dần dần có sự cách tân sáng tạo. Tiết tấu trần thuật, kể chuyện được tăng nhanh; phê phán, trần thuật cũng dần dần đa dạng hóa. Về mặt kết cấu, các nhà văn sử dụng phương pháp “từ đầu, nối đầu, nối tới”, đồng thời xuất hiện phương pháp kết cấu nhiều kiểu, nhiều dạng độc đáo. Về khắc họa tính cách nhân vật, các tác giả đã sử dụng đặc trưng tính cách từ hành động đặc trưng đơn nhất dần dần đi sâu vào miêu tả thế giới nhân vật làm cho thủ pháp miêu tả phong phú, mới mẻ, gây sự hấp dẫn cho người đọc. (PSG.TS Hồ Sĩ Hiệp, 2003) Mạc Ngôn và Báu vật của đời Mạc Ngôn tên thật là Quản Mạc Nghiệp, người huyện Cao Mật, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ông sinh ngày 17 tháng 02 năm 1955, xuất thân trong một gia đình nông dân. Do “Cách mạng văn hóa”, ông phải nghỉ học khi đang học đở tiểu học và phải tham gia lao động nhiều năm ở nông thôn. Trong thời gian đó ông đã làm rất nhiều việc, từng làm công nhân hợp đồng ở nhà máy chế biến bông, có cuộc sống gần gũi với người nông dân. Tháng 02 năm 1976, ông nhập ngũ, từng làm chiến sĩ, rồi tiểu đội trưởng, giáo viên, rồi sau đó chuyển sang làm sáng tác. Năm 1984, trúng tuyển vào khoa Văn thuộc Học viện nghệ thuật Quân Giải phóng và tốt nghiệp năm 1986. Năm 1988, ông lại trúng tuyển lớp nghiên cứu sinh sáng tác thuộc Học viện văn học Lỗ Tấn, trường Đại học Sư phạm Bắc Kinh, năm 1991 tốt nghiệp với học vị thạc sĩ. Hiện nay, ông là sáng tác viên bậc một của Cục Chính trị, Bộ Tổng tham mưu Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Từ năm 1980, Mạc Ngôn bắt tay vào sáng tác. Những tác phẩm nổi tiếng của ông có: Gia tộc Hồng Cao Lương (Cao lương đỏ), Báu vật của đời, Đàn hương hình, Tửu quốc, Sống 25
  7. đoạ thác đày,… Ngoài tiểu thuyết ra ông còn viết 24 truyện vừa, trên 60 truyện ngắn và nhiều vở kịch cho sân khấu. Nhà văn Mạc Ngôn từng được thế giới biết đến qua tác phẩm Cao lương đỏ. Bộ phim cùng tên do đạo diễn nổi tiếng Trương Nghệ Mưu chuyển thể từ tác phẩm này đã đoạt giải “Cành cọ vàng” tại Liên hoan phim Canne (Pháp) năm 1994. Mạc Ngôn đã đóng góp cho nền văn học Trung Quốc nhiều tác phẩm có giá trị và được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Báu vật của đời, nguyên tác: (丰乳肥臀 Phong nhũ phì đồn), là một tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Mạc Ngôn. Tác phẩm được xuất bản tháng 9 năm 1995 đã trở thành một hiện tượng đặc biệt, tác phẩm đã được trao giải cao nhất của Hội Nhà văn Trung Quốc về truyện trong năm đó. Tiểu thuyết đã cung cấp cho bạn đọc một lượng thông tin lớn, khái quát cả giai đoạn lịch sử hiện đại của Trung Quốc thông qua câu chuyện về các số phận của các thế hệ gia đình nhà Thượng Quan. Bối cảnh chính của câu truyện là vùng Cao Mật, tỉnh Sơn Đông. Báu vật của đời của Mạc Ngôn, một trong những tác phẩm được đánh giá là xuất sắc nhất của văn học Trung Quốc hiện đại. Trong nền văn học đương đại Trung Quốc, Mạc Ngôn cùng với Vương Mông, Giả Bình Ao, Trương Hiền Lượng, Phùng Ký Tài, Lục Văn Phu, Trương Tử Long, Cao Hiểu Thanh, Hàn Thiếu Công... đã trở thành nhà tiểu thuyết có tên tuổi được bạn đọc trong và ngoài nước biết đến. Đề tài truyện của Mạc Ngôn rất rộng. Phản ánh sinh hoạt của quân đội thời hiện đại có Bãi cát đen, Đoạn Thủ,...; miêu tả phong tục tập quán nông thôn có Vết hõm trong dép cỏ, Âm nhạc dân gian...; “Phản tư lịch sử”, suy ngẫm nhân sinh có Dòng sông khô cạn, Củ cà rốt trong suốt, Thu thủy, Làm đường...; phản ánh hiện thực nông thôn, miêu tả sự xung đột giữa ý thức cũ và mới trong công cuộc cải cách có Ánh chớp hình cầu, Bùng nổ, Cây đu chó trắng...; phản ánh cuộc kháng chiến chống quân xâm lược có Gia tộc Cao lương đỏ (gồm 5 truyện: Cao lương đỏ, Rượu cao lương, Nhà quàn cao lương, Cẩu đạo, Da chó), Báu vật của đời (Mông to vú nở), Đàn hương hình… Nhiều người gọi những tác phẩm của Mạc Ngôn là tiểu thuyết “cảm giác mới”. Cảm giác mới bắt nguồn từ nhận thức luận của chủ nghĩa biểu hiện và phương pháp biểu hiện tư tưởng của chủ nghĩa đa đa. Tiểu thuyết cảm giác mới đối lập với tiểu thuyết hiện thực truyền thống, nó không đơn thuần miêu tả hiện thực bề ngoài, mà nhấn mạnh cảm thụ trực giác, đưa cảm giác chủ quan vào trong khách thể đặng sáng tạo ra một hiện thực mới mẻ. Tiểu thuyết của Mạc Ngôn chịu ảnh hưởng của trường phái cảm giác mới của chủ nghĩa hiện đại phương Tây và của Nhật Bản những năm 20 - 30. Mạc Ngôn cho rằng trạng thái sáng tác nhẹ nhàng thoải mái, tự do, muốn nói gì thì nói là trạng thái tốt nhất đối với nhà văn. Khi cánh cửa hồi ức được mở ra, ông thường dùng cảm tính để phê phán, bình phẩm cuộc sống chứ không dùng lí tính để phê phán, bình phẩm cuộc sống. 26
  8. Tiểu thuyết của Mạc Ngôn không còn là cốt truyện hoàn chỉnh như tiểu thuyết truyền thống mà nó chỉ còn là “cái khung truyện” mà thôi. Nhưng trong cái khung truyện ấy chứa đầy cảm giác, đó là linh hồn của tiểu thuyết Mạc Ngôn. Ông có biệt t ài nắm bắt cảm giác. Thế giới cảm giác trong tiểu thuyết Mạc Ngôn mang sắc thái chủ quan mãnh liệt. Đứng trước khách thể, ông “rót” ấn tượng chủ quan của mình vào để tạo ra hiện trạng khác lạ. Dường như khi sáng tác, Mạc Ngôn huy động mọi tế bào của cơ thể để khám phá hiện thực. Dù là một làn gió nhẹ, một nhánh cỏ, một cây cao lương, một giọt nước trong... cũng được tác giả miêu tả có hồn mang đậm chất chủ thể hóa. Bằng bút pháp tả thực kết hợp với bút pháp tượng trưng, biến hình, huyền ảo khoa trương... tác giả đã khiến cho một ánh mắt, một nụ cười, một tiếng thở dài, một cảm xúc nhỏ... cũng trở thành hình ảnh có hương có sắc có mùi có vị. Nhờ có cảm giác mới lạ, làm cho bộ mặt cuộc sống mà tác giả mô tả không còn như nguyên dạng nữa. Tác giả mượn nhân vật trong truyện Hồng hoàng nói lên ý đồ sáng tác của mình: “Sẽ có một ngày tôi soạn một vở kịch chân chính, trong đó mộng ảo và hiện thực, khoa học và đồng thoại, thượng đế và ma quỷ, ái tình và mãi dâm, cao quý và ti tiện, mĩ nữ và đại tiện, quá khứ và hiện tại, huân chương và bao cao su... đều đan xen với nhau, gắn chặt với nhau, cái nọ nối cái kia, tạo thành một thế giới hoàn chỉnh”(Mạc Ngôn và những lời tự bạch, Nguyễn Thị Thại dịch, NXB Văn học, 2004) Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn còn chịu ảnh hưởng của học thuyết phân tâm học của Freud (tên đầy đủ là Sigmund Schlomo Freud; (1856 - 1939) là một bác sĩ về thần kinh và tâm lý người Áo. Freud đã được công nhận là người đặt nền móng và phát triển lĩnh vực nghiên cứu về phân tâm học, đồng thời hấp thụ cả thuyết dân tộc học, nhân loại học của Frazer (1854-1941, người Anh). Mạc Ngôn từng nói ông dùng văn học để thể hiện sự tưởng tượng độc đáo. Tiểu thuyết của ông đậm đà màu sắc nguyên sơ, man dại. Những tác phẩm đầu tay như Dòng sông khô cạn, Thu thủy, Âm nhạc dân gian nói nhiều đến bản năng sinh tồn, thể nghiệm nhân sinh mô tả cảnh vật nông thôn cổ xưa qua lăng kính của tuổi thơ. (Lê Huy Tiêu, 2003) Chủ đề trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn thường nói về những vấn đề sinh tồn của nhân loại: cái đói, cái rét, tính dục, thù oán, tôn giáo, cái sống cái chết, mê tín dị đoan, chiến tranh... Trong một bài báo viết về ảnh hưởng của G.G Marquez và Faulkner đối với mình, Mạc Ngôn viết: “Trong vũ trụ bao la, vị trí của con ng ười là vô cùng bé nhỏ, lịch sử quá khứ và thế giới hiện tại liên quan mật thiết với nhau, máu của lịch sử lại chảy trong mạch máu của người đương đại” (Mạc Ngôn và những tự bạch, Nguyễn Thị Thại dịch, NXB Văn học, 2004). Dưới ngòi bút của Mạc Ngôn, vừa có sự vạch trần, phê phán thói dâm dục, quan liêu hách dịch của các ông “quan mới” ở nông thôn (Cây tỏi nổi giận), vừa có sự phẫn nộ căm ghét những thói ác của con người (Tội ác, Bỏ con thơ) và có cả hiện tượng sa đọa về luân lí đạo đức cùng sự xót thương sinh mệnh bấp bênh (Ánh chớp hình cầu, Bùng nổ). Mạc Ngôn vừa mô tả sự trỗi dậy của sinh mệnh trước mọi thế lực áp bức, đồng thời cũng chứng minh sự trỗi dậy phản kháng là tốn công vô ích, do đấy tiểu thuyết của ông mang màu sắc bi thương. 27
  9. Nghệ thuật tự sự của tiểu thuyết Mạc Ngôn khá độc đáo. Tiểu thuyết truyền thống thường dùng ngôi thứ ba để thuật chuyện, còn ở t iểu thuyết Mạc Ngôn thường được kể theo ngôi thứ nhất “tôi”. “Tôi” có khi là người, có khi là đồ vật hoặc động vật; có cái “tôi” là hiện thực, có cái “tôi” là sự kết hợp giữa vật và người. Trong Cao lương đỏ, “tôi” kể về câu chuyện của “ông tôi” (Từ Chiếm Ngao), “bà tôi” (Phương Liên), “bố tôi” (Đậu Quan). Trong Báu vật của đời, - một truyện đề cao vai trò của nữ giới - nhân vật “tôi” (đứa con trai thứ chín của Thượng Quan Lỗ thị) cũng dùng con mắt tuổi thơ để nhìn nhận những chuyện của ông bà cha mẹ, anh chị của mình. Ở đây nhân vật “tôi” dường như chỉ là giả thuyết (tuy vẫn có tính cách) nên ta có cảm giác hư hư thực thực. Khi tả thực thì “tôi” là hiện hữu, khi truyền kì biến hình “tôi” là lãng mạn. Người kể chuyện trong tiểu thuyết truyền thống là đứng ở góc nhìn biết tất cả, tầm nhìn không bị hạn chế, còn người kể chuyện theo ngôi thứ ba của Mạc Ngôn có tầm nhìn hạn chế, sự hiểu biết của người kể chuyện ít hơn của nhân vật. Người kể chuyện “bé” hơn nhân vật, không phải cái gì anh ta cũng biết. Nhờ có góc nhìn tự thuật đa dạng, luôn thay đổi đã tạo ra hiệu quả nghệ thuật: tác giả cố ý bảo lưu một số bí mật, gợi lên trí tò mò của độc giả. Do điểm nhìn tự thuật luôn biến hóa, nên kết cấu truyện của Mạc Ngôn cũng xuất hiện một hình thức tương xứng mới mẻ về không gian và thời gian. Dựa vào sự tưởng tượng như “quỉ nhập tràng”, “Con ma cắm móng tay vào vỏ cây hòe không rút ra được, gà gáy là biến thành xác chết” (Báu vật của đời, tr. 381) ranh giới thời gian và không gian, lịch sử và hiện tại, vật lí và tâm lí trở nên mơ hồ. Nghệ thuật xử lí không gian và thời gian trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn giống như trong phim của trường phái hiện đại chủ nghĩa, vừa tồn tại một kết cấu nội tại vừa có một kết cấu ngoại tại. Bản thân cốt truyện có thời gian tuyến tính, nhưng xuất phát từ điểm nhìn của “tôi”, “tôi” cắt cốt truyện ra thành nhiều đoạn, sau đó dùng kí ức ảo mộng của “tôi” để tái tạo nên một thế giới hoàn toàn mới. Tiểu thuyết của ông là một loại kết cấu phức hợp, tuần ho àn, phi tuyến tính, phi lôgic, rất “hỗn độn”, vô thủy vô chung. Trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn thường xuất hiện ba thế hệ nhân vật: ông bà, bố mẹ, “tôi” và bạn bè cùng trang lứa với “tôi”. Dựa vào ba thế hệ đó, tác giả tạo ra một hệ thống ẩn dụ có ý nghĩa tượng trưng, một bức tranh nhân sinh biến ảo đa sắc màu. Đó là đặc điểm nổi bật trong việc sáng tạo nhân vật của ông. Nhân vật của ông có nhiều loại nhưng chủ yếu vẫn là ba thế hệ đó, và ba thế hệ này có khi là quan hệ huyết thống là người thân của “tôi”, nhưng cũng có khi chỉ là nhân vật tượng trưng ẩn dụ có một nhân cách độc lập có vốn sống văn hóa riêng có nội hàm sinh mệnh riêng. “tôi” (tức Kim Đồng - con thứ 9 của Thượng Quan Lỗ thị) trong Báu vật của đời là đứa con hoang, chú được mẹ quá nuông chiều, trở nên yếu hèn mắc bệnh “say mê” bầu vú. Đó là sự thoái hóa của nhân sinh. Do kí ức về tuổi thơ ở nông thôn quá sâu đậm nên mặc dù sau này lớn lên, Mạc Ngôn từ giã làng quê đi làm thợ, đi lính, nhưng ngôn ngữ trong tiểu thuyết của ông vẫn đượm mùi dân dã. Ngôn ngữ tự thuật của ông là thiên biến vạn hóa, chen nhiều ca dao thành ngữ, có hơi hướng cổ thi, danh ngôn biền ngẫu, có nhiều câu hay lời đẹp, có thanh có tục. 1. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI MẸ VĨ ĐẠI VÀ ĐAU THƯƠNG 28
  10. 1.1. Đứa con dâu của xã hội phong kiến Nói đến đất nước Trung Quốc là nói đến một lịch sử phát triển lâu dài với nhiều công trình kiến trúc vĩ đại, nhiều danh lam thắng cảnh, nhiều phát minh sáng chế và cả những phong tục tập quán lạc hậu, những thói xấu trong thời phong kiến. Nạn nhân trực tiếp của những phong tục lạc hậu ấy chủ yếu là những người phụ nữ. Những người phụ nữ trong xã hội phong kiến Trung Quốc luôn bị khinh khi, coi rẻ. Họ là nạn nhân của rất nhiều quan niệm hà khắc của một xã hội trọng nam khinh nữ, những người phụ nữ trong cái xã hội ấy bị coi như những công cụ sản xuất không hơn không kém. Trong xã hội ấy, phẩm giá của người phụ nữ cũng chỉ là thứ vô giá trị. Nhưng cho dù có bị khinh khi đến đâu chăng nữa, cho dù có bị chà đạp như thế nào đi nữa thì những người phụ nữ ấy vẫn tin tưởng vào tương lai, vẫn cố gắng hòan thành thiên chức thiêng liêng của mình bằng một tấm lòng chân thành thiết tha. Lỗ Toàn Nhi, cô gái ở vùng quê Cao Mật, xinh đẹp, dịu dàng và tràn đầy sức sống. Cuộc đời của Toàn Nhi gắn liền với những đau thương, những thăng trầm, cũng như những biến cố của lịch sử ở vùng Cao Mật – Đại La. Đó cũng là lịch sử phát triển của cả đất nước Trung Quốc rộng lớn. Ngay từ những năm tháng đầu tiên của cuộc đời, cô bé Toàn Nhi đã phải nếm trải sự tàn khốc của chiến tranh. Cả gia đình cô đều bị quân Đức tàn sát cùng với bốn trăm chín mươi hai người khác. Đó là một ngày mùa thu năm Quang Tự thứ 26 tức năm 1900, khi quân Đức ồ ạt tấn công vào thôn Sa Oa, quê của Toàn Nhi, và chúng giết người một cách điên dại, lúc đó cô bé Toàn Nhi vừa tròn sáu tháng tuổi. Là người duy nhất sống sót trong đợt tàn sát ấy, cô bắt đầu quãng đời đầy gian truân sau này của Lỗ Toàn Nhi. Lên năm tuổi, Lỗ Toàn Nhi phải bó chân, một phong tục t àn khốc đã gây ra cho những người phụ nữ Trung Quốc những thương tích tật nguyền suốt đời, họ chịu nhiều đau đớn với chỉ một lý do phụ nữ không bó chân sẽ thành chân bàn cuốc, không ai thèm lấy! (Tr. 763). Với lý do như vật, biết bao bậc bề trên ở Trung Quốc đã ép con ép cháu phải chịu những nỗi đau đớn về thể xác cũng như những dày vò về tinh thần trong tục bó chân. Với sự miêu tả chân xác, Mạc Ngôn đã giúp cho người đọc thấu hiểu được nỗi đau khôn cùng của những người phụ nữ trong cái tập tục bó chân t àn khốc ấy: Bà dùng nẹp tre cố định chân mẹ lại, khiến mẹ gào lên như lợn bị chọc tiết, phải kẹp chặt v ì tạo hình cho bàn chân nhỏ là rất quan trọng. Sau đó quấn thật chặt hết lớp này đến lớp khác những đoạn vải đã tẩm nước muối phơi khô, rồi lấy dùi gỗ vỗ một lượt. Mẹ kể rằng, buốt đến tận óc… (Tr. 764) Mãi đến năm mười sáu tuổi, Toàn Nhi mới được giải thoát khỏi tục bó chân. Năm mười bảy tuổi thì được gả vào nhà Thượng Quan. Lúc bước vào nhà Thượng Quan, cuộc đời của cô gái Lỗ Toàn Nhi càng đau khổ, tủi nhục hơn. Là vợ của Thượng Quan Thọ Hỷ, là con dâu trong gia đình khá giả nhưng thực chất, Toàn Nhi chẳng khác gì một kẻ tôi tớ. Lấy một người chồng bất tài, vũ phu lại bất lực, không có khả năng truyền giống, nên mọi sự hành hạ, mọi sự oán trách từ niềm khao khát có cháu nối dõi tông đường đều bị đổ dồn lên người Toàn Nhi. Cô phải thường xuyên chịu những cơn mắng nhiếc cay nghiệt: “Chỉ biết ăn mà không biết đẻ, nuôi cái đồ vô tích sự ấy làm gì!” (Tr. 773) và những trận đòn roi không thương tiếc từ mẹ chồng: “Nhà Thượng Quan tiền oan nghiệp chướng làm sao cưới phải quả mít đực, tuyệt tự đến nơi rồi” (Tr. 747) 29
  11. Trước nỗi khát khao có cháu của mẹ chồng cũng như những thành kiến của xã hội, Lỗ Toàn Nhi phải mang thân mình đi “xin giống” của những người đàn ông xa lạ. Cuối cùng Toàn Nhi đã sinh cho gia đình Thượng Quan một đàn con chín đứa gồm tám gái một trai, trong đó Lai Đệ và Chiêu Đệ là giống của ông chú dượng Vu Bàn Vả; Lãnh Đệ là con của anh chàng bán vịt dạo; Tưởng Đệ là con của một thầy lang bán rong; Phán Đệ là của lão Béo bán thịt chó ở thôn Sa Tử; Niệm Đệ là giống của Hoà thượng Trí Thông ở chùa Thiên Tề; Cầu Đệ là kết quả của lần Lỗ Toàn Nhi bị bốn tên lính thất trận cưỡng hiếp ở bờ bắc sông Thuồng Luồng; sau cùng là cặp song sinh Kim Đồng, Ngọc Nữ của mục sư Malôa. Nỗi đau lớn nhất trong cuộc đời của Lỗ Toàn Nhi không phải là cái chết của cha mẹ, không phải là sự hành hạ thân xác của tục bó chân, cũng không phải do sự vũ phu của người chồng mà đó chính là tập tục nghiệt ngã buộc phải có con trai. Đây chính là điều đã buộc Lỗ Toàn Nhi phải ngủ với những người đàn ông không mong muốn, phải đem tiết hạnh, đem tấm thân của mình đánh đổi lấy sự bình yên trong cuộc sống. Lỗ thị, trước hết là thân phận của người phụ nữ Trung Quốc bị khinh khi, coi rẻ phẩm chất giá trị trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Việc ăn nằm, sinh nở của Lỗ thị trước hết là sự thách thức với xã hội, là tiếng cười ngạo nghễ, chống lại những tập tục phi nghĩa lí của xã hội. Sinh được đứa con gái đầu lòng, cứ tưởng rằng sẽ được như lời của mẹ chồng khấn vái: Tạ ơn trời đất, cuối cùng thì nẻ đít ra rồi! Xin Bồ Tát phù hộ sang năm cho gia đình con xin đứa con trai!. Dù phải đi “xin giống” của sáu người đàn ông, nhưng rồi bảy đứa con ra đời đều là bảy cô con gái cả. Bảy đứa con to àn gái làm cho cuộc sống của Lỗ thị trong gia đ ình chồng càng thêm khốn khổ: “Từ khi sinh đứa con gái thứ t ư, bầu trời nhà Thượng Quan lúc nào cũng mây đen vần vũ, mặt bà nội như lưỡi hái vừa lấy ra khỏi nước tôi, sẵn sàng đâm chém ai đó bất cứ lúc nào” (Tr. 790). Bị đối xử thua một con vật, vừa mới sinh con xong, To àn Nhi phải phơi mình giữa cái nắng trưa để lật rơm trong khi “bụng vẫn đau quặn, dạ con vừa trút được gánh nặng co bóp dữ dội, mồ hôi lạnh chảy cùng mình, từng dòng âm ấm từ cửa mình chảy ra ướt đẫm hai đùi” (Tr. 792); phải sinh con trên một cái giường đầy đất đá đã nhão ra vì máu, “vượt cạn” trong sự lo lắng, sợ hãi, bẩn thỉu và cô đơn trong khi cả nhà đang lo lắng, nâng niu một con lừa cũng đang đau đẻ. Người phụ nữ ấy nhận ra một chân lí nghiệt ngã:“Là đàn bà, không lấy chồng không được, lấy chồng mà không sinh con không được, sinh con toàn con gái cũng không được. Muốn có địa vị trong gia đình, dứt khoát phải sinh con trai” (Tr. 783). Cái xã hội mà tính mạng con người bị khinh khi vì không có con trai “không có con trai thì suốt đời cô chỉ là nô lệ; đẻ con trai, cô lập tức thành chủ nhà”. Chính cái xã hội đó đã làm thay đổi con người của Lỗ Toàn Nhi, từ một cô gái hiền lành chịu đựng đến nhẫn nhục cô đã trở nên liều lĩnh, mang trong lòng sự thù hận, căm ghét xã hội cùng những tập tục phi lí và căm thù nhà Thượng Quan vô nhân đạo. Lỗ Toàn Nhi từ đó luôn nuôi ý định trả thù và xem việc ăn nằm với những người đàn ông khác là cách trả thù tốt nhất: “Toàn Nhi này có đẻ thêm một ngàn đứa nữa, cũng không phải là giống nhà Thượng Quan” (Tr. 785) Với giọng gào thét hả hê, nhưng cũng đầy chua chát nghẹn ngào, xót xa cho thân phận của mình: Các người nghe thấy rồi chứ! Các người cứ cười đi! Chú ơi, đời là thế, cháu muốn 30
  12. làm chính chuyên liệt nữ thì bị đánh, bị mắng, bị trả về nhà mẹ đẻ; cháu đi xin trộm giống của người khác thì lại trở thành chính nhân quân t ử! Chú ơi, con thuyền của cháu sớm muộn cũng chìm, không chìm ở rãnh nước nhà chú Kèo thì cũng chìm trong rãnh nước nhà chú Cột, chú ơi! (Tr.793), Toàn Nhi đồng thời cũng vạch trần những nghịch lí bất công mà người phụ nữ trong xã hội phong kiến Trung Quốc phải gánh chịu. Tuy nhiên, bên trong người phụ nữ ấy, luôn có một sức sống mãnh liệt, không chỉ ở khả năng thiên phú mà còn là có một niềm tin vào tương lai, là khát khao được sống, khát khao tìm được t ình yêu, hạnh phúc gia đình đích thực: “Đứng trước dòng nước trong xanh, mẹ nảy ra ý định nhảy xuống sông tự vẫn. Nhưng khi vén áo chuẩn bị nhảy, mẹ bỗng trông thấy bầu trời xanh biếc của vùng đông bắc Cao Mật in bóng dưới lòng sông. Mấy cụm mây trắng như bông bay ngang trời, những con chim sơn ca cất tiếng hót véo von dưới cụm mây trắng. Những con cá nhỏ, trong suốt bơi trong bóng mây in dưới lòng sông. Hình như chẳng có chuyện gì xảy ra, trời vẫn trong xanh, mây vẫn nhởn nhơ, lười nhác và trắng muốt như thế. Chim chóc không vì có diều hâu mà ngừng ca hát, con cá nhỏ không vì có chim bói cá mà ngừng bơi lội. Mẹ cảm thấy một làn gió tươi mát xua tan mọi uất ức trong lòng” (Tr. 802). Mang trong mình niềm tin vào cuộc sống, đi tìm sự công bằng cho thân phận người phụ nữ, mặc dù in dấu trên hình hài và trong tận sâu tâm hồn nhiều vết thương do xã hội gây ra, nên không đơn thuần chỉ là nạn nhân của xã hội phong kiến Trung Quốc mà Lỗ thị còn chính là nhân chứng tố cáo sự cay nghiệt của xã hội ấy. Và cũng là người đưa nhát búa đầu tiên đập vào nền móng vốn khập khiễng của những tập tục lạc hậu, là sự chống đối phản kháng lại chế độ xã hội phong kiến hà khắc. Từ khi sinh ra đã được tạo hóa giao phó thiên chức thiêng liêng – làm mẹ, suốt đời bám víu vào thiên chức ấy, sức mạnh cuộc sống của bà là từ sự bảo bọc những đứa con mà ra. Với khả năng thiên phú ấy, dù cho có bị chà đạp bị tiêu diệt đến đâu thì nó vẫn trường tồn bằng một sức mạnh kì diệu, một niềm tin tuyệt đối, vì bà biết rằng nếu đánh mất thiên chức làm mẹ thì cũng là đánh mất luôn cả sự sống. Lỗ thị là một bà mẹ vĩ đại. 1.2. Lỗ thị người mẹ - thân phận đất nước Trung Hoa đau thương Với thiên chức làm mẹ, Lỗ thị đảm đương nhiệm vụ đó với tất cả tình thương yêu và sự hi sinh cao cả nhất. Dù đã phải đi “xin giống dạo” của nhiều người đàn ông xa lạ vì xuất phát từ mục đích duy nhất là có con trai để thỏa nỗi khát khao hằn học của mẹ chồng, nhưng hơn thế nữa là thoát khỏi sự dày vò của những quan niệm cổ hủ khắc nghiệt. Tuy nhiên kết quả của hành động ấy là bảy cô con gái, điều đó làm cho cuộc sống của Lỗ thị trong gia đ ình chồng càng thêm khốn đốn, nhưng không vì thế mà bà căm ghét, ghẻ lạnh những đứa con của mình mà ngược lại bà luôn dành trọn vẹn t ình thương cho chúng: “Niệm Đệ vừa lọt lòng oe oe khóc, mẹ chồng thấy vẫn là con gái, liền chẳng nói chẳng rằng túm lấy hai chân định đem dìm chết trong chum nước. Mẹ nhào xuống đất ôm chặt hai chân mẹ chồng, van xin: Mẹ ơi mẹ, xin mẹ mở lượng từ bi, thương con hầu hạ mẹ nửa năm nay mà tha cho cháu bé!” (Tr. 801) Trong bất cứ hoàn cảnh nào, bà cũng sẵn sàng dang tay che chở, bảo bọc cho đàn con. Nói cách khác, những đứa con thân yêu của bà chính là chỗ dựa duy nhất để bà tiếp tục sống. Đối với bà chúng như những thiên thần ngây thơ, trong sáng; vừa như những sinh linh nhỏ 31
  13. bé dễ tổn thương nhất: “Xúm xít quanh mẹ là ba sinh vật bé bỏng, đó là Lai Đệ, Chiêu Đệ và Lãnh Đệ của mẹ” (Tr. 798). Khi cả nhà chồng bị bọn Nhật tàn sát, cuộc đời của Lỗ Toàn Nhi bước sang một trang mới, kết thúc kiếp làm dâu đau khổ chuyển sang vai trò làm chủ gia đình, làm mẹ, làm bà. Lỗ thị gánh trên vai trách nhiệm là người chủ là trụ cột của gia đình, từ khi chứng kiến cái chết của người t ình, mục sư Malôa, và bị bọn “đội hỏa mai lừa đen” hãm hiếp thì tình yêu và cuộc sống của bà đều hướng đến và dâng trọn cho những đứa con thân yêu của mình. Mạc Ngôn đã dựng nên hình ảnh người mẹ Trung Quốc vĩ đại suốt cuộc đời hi sinh cho con cháu. Lỗ thị là hình ảnh của những bà mẹ Trung Quốc tràn đầy niềm tin yêu vào cuộc sống và sự hi sinh, sự yêu thương vô hạn với thế hệ tương lai của gia đình, của đất nước. Người mẹ ấy luôn dang rộng đôi tay che chở cho đàn con trước nanh vuốt của kẻ thù. Giặc ngoại xâm, các thế lực chính trị thay nhau đến rồi đi, bao biến thiên, bao bi kịch xảy ra với vùng đất Cao Mật, với gia đình Thượng Quan, nhưng rồi người mẹ Lỗ thị với sức mạnh kiên cường, tình yêu bao la và niềm tin mạnh mẽ cùng đàn con đã bươn chải vượt qua tất cả. Mỗi người con của Lỗ thị đều lớn lên trong vòng tay yêu thương của bà, họ được người mẹ vĩ đại ấy sinh ra và nuôi lớn đúng vào lúc đất nước Trung Quốc có nhiều biến động. Mỗi đứa con lớn lên, mỗi người họ đều chọn một con đường, một cách sống, và một cách chết trên cuộc đời đầy gian truân khổ ải. Họ thậm chí còn xung khắc, thù ghét nhau bởi sự đối lập trong chính kiến, lí tưởng, nhưng điểm tựa duy nhất, nguồn an ủi duy nhất của họ chính là người mẹ Lỗ thị. Đối với các con, bà sẵn sàng làm ngọn gió, chắp thêm sức mạnh cho các con vươn đôi cánh bay thật xa, thật lâu và khi những đôi cánh ấy mệt mỏi, thì bà mẹ Lỗ thị lại là nguồn an ủi, là chốn quay về bình yên và an toàn nhất. Nỗi đau lớn nhất của bà là phải xa lìa con cái và không cho chúng được một cuộc sống tốt đẹp hơn. Với t ình yêu của một người mẹ, Lỗ thị luôn nỗ lực để sinh tồn, vì chỉ có sinh tồn mới có thể nuôi dưỡng chăm lo cho các con. Hai nạn đói kinh ho àng năm 1941 và 1960 đã tác động mạnh mẽ đến Lỗ thị và gia đình Thượng Quan. Năm 1941, để cứu lấy đàn con, Lỗ thị phải đứt ruột đưa đàn con đi “bán”, bán mà không cần tiền, chỉ cần xin đối xử tốt với cháu! Vì Lỗ thị biết rằng nếu chúng được nhận làm con của những gia đình giàu sang trong hoàn cảnh này, những đứa con của bà chắc chắn sẽ được sống sót. Cũng trong năm đó, Lỗ thị phải bàng hoàng, ray rứt mặt trắng nhợt, lảo đảo rồi ngã sóng soài ra nhà khi nhận được tiền bán thân của đứa con gái thứ t ư – Tưởng Đệ. Vì muốn chữa bệnh cho mẹ và cứu lấy chị em trong cơn đói, Tưởng Đệ đã bằng lòng bán thân vào nhà chứa với giá ba trăm đồng. Năm 1960, Lỗ thị đã biến bao tử của mình thành một chiếc túi chứa đậu. Bà trộm đậu trong hợp tác xã rồi nuốt vào, về đến nhà lại nôn ra, lấy đậu để nuôi con nuôi cháu: “lần đầu tiên muốn nôn thì phải lấy đũa ngoáy cổ họng, cảnh đó thì … bây giờ quen rồi, cúi xuống là nôn ra. Bụng mẹ bây giờ chẳng khác cái bao lương thực” (Tr. 584). Sức mạnh sinh tồn của Lỗ thị thật mãnh liệt, chính niềm tin vào tương lai và tình yêu thương vô bờ đối với đàn con là động lực nuôi dưỡng ý chí sinh tồn của người mẹ vĩ đại ấy. Bao thế lực chính trị đến rồi lại đi, vinh quang rồi t àn lụi, đem đến cho vùng đất Cao Mật biết bao biến đổi, Lỗ thị và gia đình Thượng Quan cũng chịu ảnh hưởng của những lần thay ngôi đổi chúa ấy. Lỗ thị nhìn các thế lực chính trị không phải bằng đôi mắt của một đảng 32
  14. viên Cộng sản Đảng hay Quốc dân Đảng, bà nhìn hành động, nhìn cách cư xử, nhìn bộ mặt của các thế lực ấy bằng con mắt của một người lao động – người mẹ. Điểm nhìn đó không hề có một điểm gẫy, một góc khuất nào. Ở góc nhìn đó, bà nhìn thấy được những cái hay cái dở, những mặt tốt mặt xấu của các lực lượng nắm quyền. Nạn nhân trực tiếp của các thế lực ấy vẫn là người dân. Hết quân Đức, quân Nhật, Quốc dân Đảng rồi đến Cộng sản Đảng, mỗi lần thay chủ đổi ngôi là mỗi lần nhân dân chứng kiến cảnh li loạn, cảnh chạy giặc, cảnh tang tóc … Lỗ thị đã bao lần phải mất con mất cháu trong những đợt biến loạn ấy, mà Tư Mã Phượng, Tư Mã Hoàng, Chiêu Đệ rồi đến Câm anh, Câm em đều là nạn nhân. Các thế lực cầm quyền đem đến cho Lỗ thị biết bao tai họa, biết bao mất mát, biết bao khổ đau thế nhưng bà vẫn dang rộng đôi tay, mở rộng t ấm lòng cưu mang che chở, nuôi dưỡng những đứa con rơi của chúng (ở đây nói đến con cái của các thế lực chính trị ấy khi thất thế đã bỏ lại cho bà ngoại Lỗ thị nuôi dưỡng). Ngoài việc nuôi dưỡng đàn con tám gái một trai của mình trưởng thành, trong suốt cuộc đời của mình, Lỗ thị còn cưu mang thêm tám đứa cháu gọi bà bằng ngoại. Tám đứa cháu mỗi đứa một hoàng cảnh, mỗi đứa một xuất thân. Có đứa cha mẹ là đảng viên Cộng sản Đảng (Lỗ Chiến Thắng, Câm anh, Câm em), có đứa là con của đảng viên Quốc dân Đảng (Tư Mã Lương, Tư Mã Phượng, Tư Mã Hoàng), có đứa là con của Hán gian (Sa Tảo Hoa), có đứa chỉ là con của thường dân (Hàn Vẹt). Dù cha mẹ chúng là ai, thuộc đảng phái nào, tư tưởng chính trị ra sao thì Lỗ thị vẫn dành cho chúng tình thương yêu, tình người thân thiết nhất: Chiếc áo da báo của Lai Đệ chỉ có thể bọc con của Lai Đệ… mẹ bỏ lại con bé bọc trong chiếc áo da báo ở cổng nhà thờ, rồi chạy về nhà như bị ma đuổi. Nhưng chỉ chạy được hơn chục bước, chân mẹ đã cất không nổi nữa. Con bé khóc như lợn bị chọc tiết, tiếng khóc như sợi dây vô hình giữ chân mẹ lại… (Tr. 172) Tám đứa cháu, tám sinh linh nhỏ bé trong tay bà đều được bà yêu thương, chăm sóc, bà không cần biết cha chúng là ai, là người của đảng phái nào, đối với bà chúng là những đứa cháu ngoại. Bà luôn đưa tay nâng đỡ chúng, che chở chúng trước mọi nguy hiểm dù việc làm ấy của bà có thể nguy hiểm đến tính mạng: “Mẹ ưỡn ngực, thét lên chói tai - Thằng súc sinh giết tao trước đi! Mẹ xông tới mặt thằng câm cào vào mặt hắn. Mặt hắn xuất hiện bốn rãnh màu trắng, sau đó máu từ trong rãnh tứa ra... lát sau hắn “ầu ầu” lên mấy tiếng, đấm mẹ một quả, mẹ ng ã bay về phía chúng tôi. Chúng tôi vừa khóc, vừa phủ phục trên mẹ” (Tr. 347). Những sinh linh bé bỏng ấy được chăm sóc, nuôi dưỡng bằng bàn tay đầy yêu thương của bà ngoại Lỗ thị. Cuộc sống của chúng thật sự đã gắn chặt với bà, chúng là sức mạnh là động lực là lí do giúp bà luôn kiên cường chiến đấu cho mục tiêu sinh tồn. Vì vậy khi chúng mất đi, bà cũng đau đớn như mất đi “núm ruột” của chính mình: “Mẹ bốc một nắm đất nhét vào lỗ thủng, nhưng máu và ruột cứ đẩy đất ra ngoài, mẹ bóc nắm nữa rồi nắm nữa nhét vào mà vẫn không bịt được, ruột thằng Câm em đùn ra đầy nửa sọt… mẹ buông xuôi hai tay đờ đẫn nhìn đống ruột rồi đột nhiên mẹ nôn ra mật xanh mật vàng, sau đó mẹ òa khóc nức nở” (Tr. 389). Trái tim dào dạt tình yêu của Lỗ thị luôn rộng mở đón đàn cháu nhỏ. Thiên chức làm mẹ được vận dụng một cách triệt để chỉ vì một mục đích duy nhất: nuôi sống đàn con. Vòng 33
  15. tay bà luôn ôm ấp chở che cho mọi đứa con không phân biệt quan điểm chính trị, bảo bọc uốn nắn cho những đứa cháu – những tương lai được sống. Tất cả họ đều được bà mẹ Lỗ thị sinh ra và nuôi dưỡng đúng vào lúc đất nước Trung Quốc cũng đang trong cơn đau đẻ - một con đường, một xã hội phù hợp. Dù những đứa con có xung khắc, thù ghét nhau vì họ đã lỡ chọn quan điểm chính trị khác nhau thì Lỗ thị vẫn là điểm tựa vững vàng, là điểm kết nối duy nhất của họ. Đó không còn là thân phận của người phụ nữ nữa. Đó là thân phận của đất nước Trung Hoa vĩ đại và đau thương. Đau thương và vĩ đại như cơn lốc tràn qua lục địa Trung Hoa mênh mông, xoáy quật thân phận người phụ nữ như Lỗ thị, đến chết vẫn chưa yên. Người ta nói sữa là sức sống và máu của người phụ nữ. Do vậy suốt đời Lỗ thị đem nguồn sống quí giá ấy nuôi dưỡng một hoài bão mang tên Kim Đồng. Đặt trọn niềm hi vọng vào đứa con trai duy nhất trong chuỗi sinh nở dằn dặt của mình, Lỗ thị đã cho Kim Đồng tất cả nguồn sống của mình thông qua nguồn sữa. Nguồn sữa ấy chỉ dành riêng cho Kim Đồng, ngay cả chị em song sinh của Kim Đồng là Ngọc Nữ cũng không được nếm qua dù chỉ một lần. Ở đây ta lờ mờ thấy được di căn của căn bệnh chế độ phong kiến – sự trọng nam khinh nữ trong con người Lỗ thị. Đây là hạn chế của Lỗ thị và những người phụ nữ khác trên lục địa Trung Quốc trong buổi giao thời: “Phong kiến – Dân chủ – Cộng sản” . Bà cũng từng ép Lai Đệ bỏ Sa Nguyệt Lượng lấy Tôn Bất Ngôn làm cho Lai Đệ phải bỏ nhà theo người yêu, và đây cũng là nguyên nhân dẫn đến kết thúc bi kịch của Lai Đệ; Lỗ thị từng cấm đoán Lãnh Đệ quan hệ với Hàn Chim khiến Lãnh Đệ trở nên điên dại… chính hạn chế này đã khiến Lỗ thị có một số hành động sai về lí nêu trên nhưng nếu xét về tình (tình yêu của một người mẹ đối với con) thì ta có thể hoàn toàn cảm thông được. Lỗ thị là một nhân vật rất hiện thực và cũng rất tượng trưng. Sự biến chuyển vận động của cuộc đời Lỗ thị với đầy gian truân, vật vã thăng trầm nhưng vô cùng vĩ đại cũng là hình ảnh đất nước Trung Hoa trên bước đường phát triển. Điều ám ảnh tác giả và độc giả đó là hình ảnh người mẹ với lòng khoan dung vô bờ bến chạy dọc suốt chiều dài tác phẩm. Một phụ nữ tượng trưng cho một đất nước ở khả năng thiên phú mà cho dù có bị chà đạp, tiêu diệt đến đâu thì vẫn trường tồn, bởi vì khả năng đó cũng chính là sự sống và nó nhân danh sự sống. 2. HÌNH TƯỢNG NHỮNG CÔ GÁI BIẾT ƯỚC MƠ, KHAO KHÁT SỐNG VÀ HÀNH ĐỘNG Lỗ Toàn Nhi – bà mẹ vĩ đại, thân phận của đất nước Trung Hoa vĩ đại và đau thương, mang trên mình thiên chức làm mẹ thiêng liêng và khát vọng sinh tồn mạnh mẽ. Bà là cầu nối, là điểm tựa cho những người con bước vào đời. Những cô con gái nhà Thượng Quan được người mẹ Lỗ thị sinh ra trong lúc đất nước Trung Quốc cũng đang trong cơn “đau đẻ”. Đàn con của Lỗ thị có đủ mọi thành phần của xã hội – đó là một xã hội Trung Quốc thu nhỏ. Mỗi đứa con chọn cho mình một con đường, một cách sống và một cách chết riêng trong hành trình cuộc sống. Họ thậm chí còn đối đầu nhau, thù ghét nhau do sự lựa chọn chính kiến, lí tưởng khác nhau. Các cô gái nhà Thượng Quan chính là các luồng tư tưởng, các cách sống cách nghĩ của người dân Trung Quốc trong lịch sử phát triển của đất nước Đông Á này. Đó là sự vận 34
  16. động, sự biến đổi của bộ mặt xã hội Trung Quốc trong lịch sử phát triển được Mạc Ngôn khắc họa một cách tài tình, chân thật và sống động. Qua số phận của những cô gái nhà Thượng Quan, ta phần nào thấy được những biến động trong xã hội Trung Quốc to lớn đến mức nào; đồng thời cũng thấy được những chuyển biến mạnh mẽ về t ư tưởng của người dân Trung Quốc. Biết bao sự kiện, biết bao biến động xảy đến với vùng Cao Mật và gia đình Thượng Quan, tất cả những biến chuyển ấy làm cho sự nhập cuộc, dấn thân của con cháu nhà Thượng Quan thêm sống động và chân thật. Chín chị em nhà Thượng Quan với những thăng trầm, những nỗi trần ai cùng cực, mỗi người cũng đã là một thiên tiểu thuyết. Chín chị em nhà Thượng Quan gồm tám gái một trai là kết quả mang nặng đẻ đau của Lỗ thị. Trong đó, Kim Đồng, đứa con trai duy nhất của Lỗ thị là niềm hi vọng, sự kì vọng của Lỗ thị về tương lai của gia đình Thượng Quan. Nhưng đứa con trai duy nhất trong chuỗi sinh nở dằng dặc một đời của người mẹ Lỗ thị ấy lại suốt đời bám vào vú mẹ. Trong khi các cô gái nhà Thượng Quan – những cô gái sống trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ - lại xông xáo, quyết liệt dấn thân vào đời, ước mơ, tìm kiếm t ình yêu và hạnh phúc. Báu vật của đời được coi là một “Trăm năm cô đơn” ()của Trung Quốc. Báu vật của đời là một tác phẩm biên niên sử thế kỷ 20 của đất nước Trung Quốc đầy biến động dữ dội kỳ lạ. (Trích Khóa luận tốt nghiệp của SV Nguyễn Trung Nam khóa 6C do GVC Phùng Hoài Ngọc hướng dẫn) 7.3 Số phận của "Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa" ở Trung Quốc Từ những năm 20 của thế kỷ XX, văn học và lý luận văn nghệ Liên Xô, đã bắt đầu xuất hiện trên văn đàn Trung Quốc, nhưng mãi đến những năm 50 của thế kỷ XX, Trung Quốc mới tiếp nhận toàn diện lý luận văn nghệ Liên Xô. Mao Trạch Đông từng nói: “Đảng cộng sản Liên Xô là người thầy tốt nhất của chúng ta, chúng ta cần phải học tập họ” (Mao Trạch Đông tuyển tập, T.4, 1991, tr.148). Chu Dương (1) cũng nói: “Đi theo con đường của người Nga, chính trị và cả văn học nghệ thuật cũng thế” (Nhân dân nhật báo.11-11-1953). Học tập toàn diện lý luận của Liên Xô, người Trung Quốc đã học được ở văn học Xô Viết nhiều thứ: Quan điểm văn học phải “phục vụ nhân sinh”, “Văn học là nhân học”, quan điểm coi trọng việc dùng phản ánh luận của Lênin để giải thích các hiện tượng văn học, v.v... Những điều đó giúp cho lý luận văn học Trung Quốc được xây dựng trên cơ sở duy vật biện chứng. Đó là ảnh hưởng tích cực, còn ảnh hưởng tiêu cực cũng có nhiều. Những lý luận văn nghệ xã hội dung tục và tả khuynh, đặc biệt là chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa (viết tắt là CNHTXHCN) đã làm cho văn học Trung Quốc có thời kỳ ngừng trệ, kém phát triển . Như chúng ta đã biết, CNHTXHCN là do Stalin nêu ra. Ngày 16-10-1932 trong một cuộc toạ đàm văn học ở Mátxcơva, khi trả lời một nhà thơ, Stalin đã nói: “Nhà nghệ thuật cần () Tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của G.G Marquez, nhà văn Columbia, vùng Mỹ La tinh được giải Nobel văn học. 35
  17. phải miêu tả chân thực cuộc sống. Nếu như anh ta miêu tả cuộc sống chân thực thì anh ta không thể không chú ý và không thể không phản ánh cuộc sống đang hướng về chủ nghĩa xã hội. Đó chính là CNHTXHCN (Tạp chí Vấn đề văn học. 5-1991) và thế là Đại hội đại biểu các nhà văn Liên Xô lần thứ nhất họp vào tháng 8/1934, chính thức tuyên bố CNHTXHCN là phương pháp cơ bản của sáng tác văn nghệ Liên Xô. Tin đó được báo chí Trung Quốc giới thiệu ngay. Tờ Văn học nguyệt báo của Trung Quốc ra ngày 15-12-1932 đã kịp thời đưa tin về cuộc họp nói trên của Hiệp hội nhà văn Liên Xô. Và đến năm 1933, trên tờ tuần san Nghệ thuật tân văn bắt đầu giới thiệu về phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa của Liên Xô. Tháng 9-1933 trên tờ Văn học số 3, quyển 1, Chu Dương viết bài phê phán “phương pháp sáng tác duy vật biện chứng” do RAPP đưa ra và ca ngợi CNHT.XHCN của Stalin (Chu Dương văn tập. T.1, P99). Tuy vậy lúc bấy giờ, một số nhà văn đứng ngoài tổ chức “Liên minh các nhà văn cánh t ả” (gọi tắt là “Tả liên”) vẫn còn nghi ngờ, chưa ủng hộ phương pháp sáng tác đó. Nhà văn Mục Thời Anh thuộc phái “Cảm giác mới” gọi CNHTXHCN là “chủ nghĩa hiện thực giả tạo”. Năm 1936, Cảnh Tề Chi – dịch giả văn học Nga nổi tiếng, qua nghiên cứu t ình hình văn học Liên Xô từ năm 1935, ông thấy CNHTXHCN làm cho văn học Liên Xô “đề tài trở nên quá hẹp”, các tác phẩm thì “nghìn thiên như một” trở nên “khô cứng” (Tạp chíVăn học số 2, quyển 6, 1936). Như vậy nhà dịch thuật này có con mắt quan sát sắc sảo, nhìn xa trông rộng hơn một số nhà lý luận đương thời. Đến thập niên 40 thế kỷ XX, giới văn học Trung Quốc bắt đầu dịch một số trước tác lý luận đề cao CNHTXHCN của Nhật Bản và Liên Xô. Ví dụ, tháng 4-1940, NXB Quang Minh, Thượng Hải xuất bản cuốn sách Con đường mới của văn học, gồm có 29 bài báo và phát biểu của các học giả trong Đại hội các nhà văn Liên Xô lần thứ nhất về CNHTXHCN. Tháng 10 cùng năm, NXB Hy Vọng cho ra cuốn Bàn về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa của học giả Nhật Bản Sâm Sơn Khải. Từ 1949 trở đi một số trước tác của học giả Liên Xô cũng được dịch, ví dụ cuốn Đặc trưng của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩacủa Vaxinhiép, Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn học Liên Xô của Têrasenkôp, v.v... Các cuốn sách trên còn trích đăng “Điều lệ” của Hội Nhà văn Liên Xô và một số bài viết của Phadiev bàn về CNHTXHCN. Tuy vậy, thời kỳ này, người Trung Quốc vẫn chưa coi CNHTXHCN là khẩu hiệu và lá cờ của mình. Tháng 5-1939, trong buổi kỷ niệm một năm thành lập Học viện nghệ thuật Lỗ Tấn, Mao Trạch Đông còn đề xuất “Chủ nghĩa hiện thực kháng Nhật, chủ nghĩa lãng mạn cách mạng”. Lúc bấy giờ, giới văn học Trung Quốc còn có nhiều cách giải thích khác nhau về CNHTXHCN. Nhà văn Ba Nhân cho rằng con đường và xu thế phát triển văn nghệ Trung Quốc, tức là từ “chủ nghĩa hiện thực kháng Nhật” đến “chủ nghĩa lãng mạn” rồi đến “CNHTXHCN” (Trận địa văn nghệ kỳ 7, quyển 4 tháng 2-1940). Theo ông thì CNTHXHCN là phương hướng phát triển của văn học Trung Quốc. Lâm Hoán Bình thì cho rằng, “chủ nghĩa hiện thực kháng Nhật, chủ nghĩa lãng mạn cách mạng”, thực chất là “CNHTXHCN” (Văn học nguyệt báo 9-1940). Các giải thích này đương thời chưa được mọi người thừa nhận. Ví dụ, nhân kỷ niệm một năm bài Bàn về chủ nghĩa dân chủ mới của Mao Trạch Đông, Chu Dương căn cứ vào ý kiến của Mao Trạch Đông bàn về tính chất và nhiệm vụ lịch sử của xã hội Trung Quốc, mô phỏng cách đề xuất của Liên Xô về CNHTXHCN mà nêu ra khái niệm “chủ nghĩa hiện thực dân chủ mới” (Chu Dương Văn 36
  18. tập. T.1, P324). Trong “Bài nói chuyện ở toạ đàm văn nghệ Diên An” (1942) của Mao Trạch Đông nói về phương pháp sáng tác như sau: “chúng ta chủ trương chủ nghĩa hiện thực của giai cấp vô sản”. Sau này Chu Dương trong một số bài viết cũng như bài nói chuyện, ông dùng những khái niệm như “chủ nghĩa hiện thực cách mạng” “chủ nghĩa hiện thực cách mạng mới”, v.v. Mãi đến sau năm 1949, giới văn học Trung Quốc mới bắt đầu coi CNHTXHCN là tiêu chí cao nhất của sáng tác và phê bình văn học nghệ thuật. Tháng 5-1951 trong một lần nói chuyện ở Sở nghiên cứu văn học trung ương, Chu Dương nhấn mạnh: “Chúng ta cần phải học tập nước ngoài, đặc biệt là học tập Liên Xô. Văn học nghệ thuật của CNHTXHCN là món ăn tinh thần có ích nhất cho nhân dân và quảng đại thanh niên Trung Quốc. Chúng ta từ nay trở đi phải tăng cường công tác dịch thuật và giới thiệu” (Chu Dương văn tập. T.2, P61). Tháng 5 năm sau, Chu Dương nói rõ hơn: “Phương pháp mới của nghệ thuật cách mạng – CNHTXHCN nên trở thành thước đo cao nhất của phương pháp sáng tác của chúng ta” (Chu Dương văn tập. T.2, P145). Như vậy là Chu Dương không còn chủ trương phương pháp “duy vật biện chứng” như thời 1933 nữa, giờ đây ông dứt khoát nêu ra “CNHTXHCN” là phương pháp cơ bản trong sáng tác văn học Trung Quốc. Tháng 12- 1952, trong một bài báo viết cho báo Ngọn cờ của Liên Xô, Chu Dương thông báo cho giới văn học Liên Xô biết rằng: “Sau khi theo đuổi văn học Liên Xô, văn học của chúng tôi đã bắt đầu đi lên con đường “CNHTXHCN”, chúng tôi sẽ tiếp tục tiến lên trên con đường này” (Chu Dương văn tập. T.2, P191). Chủ trương này của Chu Dương không phải là ý kiến cá nhân của ông mà là đại biểu cho giới lãnh đạo văn nghệ của Trung Quốc lúc bấy giờ. Tháng 3-1953, trong “Phương án công tác cải tổ Hiệp hội văn học toàn quốc và tăng cường lãnh đạo sáng tác văn học” của Hội nghị mở rộng lần thứ 6 của Uỷ ban chấp hành Hiệp hội nhà văn toàn quốc thông qua, đã quyết định kết hợp với việc học tập phương pháp sáng tác “CNHTXHCN” là thảo luận các vấn đề tư tưởng sáng tác văn học. Thế là, các tổ chức văn học từ Trung ương đến địa phương đều tiến hành học tập phương pháp sáng tác mới này. Tháng 9-1953, trong Đại hội đại biểu lần thứ 2 của những người làm công tác văn học nghệ thuật Trung Quốc, Chu Dương chính thức tuyên bố “Chúng ta coi phương pháp sáng tác HTXHCN là chuẩn tắc cao nhất của sáng tác và phê bình văn học nghệ thuật của chúng ta”. Và lần đầu tiên ông khẳng định: “SauBài nói chuyện ở toạ đàm văn nghệ Diên An trở đi, văn học nghệ thuật của chúng ta là “văn học nghệ thuật của CNHTXHCN” và trong hoạt động sáng tác của Lỗ Tấn ở thời kỳ sau, ông “đã trở thành người đi đầu, người đại biểu của CNHTXHCN” (Chu Dương văn tập. T.2, P249, 247) (Sự thực thì, trong bài báo viết cho Ngọn cờ nói ở trên, Chu Dương đã từng nói: Cũng giống như cách mạng dân chủ mới của Trung Quốc là một bộ phận tổ thành của cách mạng thế giới xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản, văn học của nhân dân Trung Quốc cũng là bộ phận tổ thành của văn học HTXHCN của thế giới. Như vậy, Chu Dương lấy văn học mới của Trung Quốc từ Ngũ tứ làm cái mốc để đánh giá phương pháp sáng tác và địa vị của Lỗ Tấn trong lịch sử văn học là căn cứ vào cái khung lý luận CNHTXHCN để điều chỉnh). Cũng ở đại hội trên, Mao Thuẫn cũng coi nguyên tắc CNHTXHCN “là yêu cầu cơ bản đối với nhà văn Trung Quốc”, và chỉ ra “một nhà văn hiện thực chủ nghĩa phải đòi hỏi mình 37
  19. giỏi quan sát phương hướng phát triển của cuộc sống, mầm mống của sự vật mới, giỏi biểu hiện cuộc sống từ trong sự phát triển cách mạng. Một chức trách của nhà văn hiện thực xã hội chủ nghĩa chính là cần phải biểu hiện sự vật ngày nay xem ra chưa phải là tồn tại phổ biến, nhưng ngày mai nó sẽ trở thành phổ biến”. Cần chú ý rằng, câu “chúng ta chủ trương chủ nghĩa hiện thực của giai cấp vô sản” ở trong Bài nói chuyện ở toạ đàm văn nghệ Diên An in lần đầu thì đến năm 1954 được in lại trong Mao Trạch Đông tuyển tập. T.3 đã sửa lại là: “Chúng ta chủ trương chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Từ đấy trở đi, các ấn phẩm sau này của Mao Trạch Đông, hễ có bài đó, thì đều đổi thành như thế. Trong khi giới văn học Trung Quốc đang ra sức tuyên truyền và quán triệt CNHTXHCN thì giới văn học Liên Xô đã có người không tán thành khẩu hiệu này. Tháng 12-1954, trong Đại hội đại biểu các nhà văn Liên Xô lần thứ 2 họp ở Matxcova, nhà thơ Ximônov có đọc một bản báo cáo bổ sung, trong đó ông chủ trương xoá bỏ đoạn định nghĩa về CNHTXHCN trong Điều lệ Hiệp hội các nhà văn Liên Xô. Đoạn đó là: “Đồng thời với việc miêu tả chân thực, lịch sử, cụ thể, cần phải kết hợp với nhiệm vụ dùng tinh thần XHCN để cải tạo và giáo dục nhân dân lao động về mặt t ư tưởng”. Ximonov cho rằng câu đó là một trong những nguyên nhân gây nên “sự tô hồng hiện thực” trong văn học Liên Xô, bởi vì “trong tác phẩm của một số nhà văn, nhà phê bình sau thời kỳ chiến tranh đã từng mượn cớ biểu hiện hiện thực theo khuynh hướng phát triển, để ra sức “cải thiện hiện thực”(2). Kết quả là “Điêu lệ” mới được thông qua ở Đại hội đại biểu các nhà văn Liên Xô lần thứ 2 đã tiếp thụ ý kiến của Ximônov. Báo chí Trung Quốc lúc bấy giờ có giới thiệu động thái mới này của giới lý luận văn học Liên Xô, nhưng họ vẫn không thay đổi xu hướng kiên trì CNHTXHCN. Bằng chứng là người ta lấy lý thuyết về CNHTXHCN để phê phán Hồ Phong. Lâm Mạc Hàm nói, một trong những sai lầm của Hồ Phong là “không thấy được sự khác nhau giữa chủ nghĩa hiện thực và CNHTXHCN, không hiểu được ai theo “CNHTXHCN” đầu tiên là phải có “lập trường giai cấp công nhân và thế giới quan cộng sản chủ nghĩa” (Văn nghệ báo số 2-1953). Chu Dương cũng chỉ ra: “Công thức của CNHTXHCN là quan điểm cơ bản, là cống hiến lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin đối với phương pháp của văn học nghệ thuật... Chủ nghĩa hiện thực nên bao quát ở trong chủ nghĩa Mác, chỉ có chủ nghĩa Mác mới có thể lý giải đầy đủ nhất chủ nghĩa hiện thực”. Nhưng, trước và sau năm 1956, tình hình chính trị và văn học xã hội Liên Xô có biến động, tư tưởng chống “tô hồng hiện thực” và đề xướng “can dự cuộc sống” của giới lý luận văn học Liên Xô ảnh hưởng đến văn đàn Trung Quốc. Chu Dương - người đầu tiên giới thiệu CNHTXHCN ở Trung Quốc – tháng 8-1956 trong một lần nói chuyện ở cuộc họp Hội nhà văn Trung Quốc, ông đưa ra ý kiến mới. Một mặt ông vẫn tiếp tục nhấn mạnh “khẩu hiệu CNHTXHCN này không nên bỏ, nó là phương hướng phát triển nghệ thuật nhân dân, tại sao chúng ta lại phản đối phương hướng đó”. Mặt khác, ông lại cho rằng: “Việc học tập CNHTXHCN, quyết không nên sa vào vũng bùn giáo điều chủ nghĩa”. Ông chỉ ra, những nhà văn bài xích dòng văn học phi XHCN, và có quan hệ không bình thường với những dòng văn học khác ngoài CNHTXHCN là biểu hiện giáo điều và công thức. Chu Dương nhắc nhở mọi người: “Chúng ta nên coi CNHTXHCN là một phương hướng mới, chứ 38
  20. không được coi nó là giáo điều hoặc giả coi là một công thức trong sáng tác. Nếu không, sẽ có nguy hiểm lớn” (Chu Dương văn tập. T.2, P408-409). Nếu như trong lý luận của Chu Dương còn mơ hồ, mâu thuẫn, thì một số nhà lý luận khác của Trung Quốc đã bộc bạch sự hoài nghi đối với định nghĩa của CNHTXHCN. Tháng 6- 1956 Tần Triệu Dương có bài Chủ nghĩa hiện thực - con đường rộng mở, Chu Bột có bài Bàn về chủ nghĩa hiện thực và sự phát triển của nó ở thời kỳ xã hội chủ nghĩa, Lưu Thiệu Đường có bài Sự phát triển của chủ nghĩa hiện thực trong thời đại xã hội chủ nghĩa, v.v... Nội dung của những bài báo trên nêu ra ba vấn đề: Một là, định nghĩa nhấn mạnh “việc nghệ thuật miêu tả chân thực, lịch sử cụ thể, cần phải kết hợp với nhiệm vụ dùng tinh thần xã hội chủ nghĩa để cải tạo giáo dục nhân dân lao động về mặt t ư tưởng”, như vậy là cho tinh thần xã hội chủ nghĩa tồn tại ngoài sáng tác văn nghệ, nó chỉ là một khái niệm chính trị trừu tượng ở trong đầu óc nhà văn, chứ không phải là tồn tại một cách hữu cơ trong cuộc sống, không phải là tồn tại một cách hữu cơ trong tính chân thực và tính lịch sử cụ thể của miêu tả nghệ thuật, mà là sự “kết hợp” giả tạo từ bên ngoài. Chính vì vậy, về mặt lý luận đã dẫn đến những luận điểm sai lầm như dùng quan điểm chính trị thay thế thế giới quan, dùng quan điểm chính trị thay thế phương pháp sáng tác, dùng tính chính trị thay thế tính chân thực, dùng phân tích chính tr ị thay thế phân tích nghệ thuật. Hai là, định nghĩa trên không xuất phát từ nghệ thuật, coi nhẹ địa vị then chốt của vấn đề điển hình hoá ở trong văn học hiện thực chủ nghĩa. Trong các luận thuyết về chủ nghĩa hiện thực ở trong lá thư của Mác gửi Hecơnex lại coi việc điển hình hoá là trung tâm. Chính vì vậy, trong phê bình văn học đã xuất hiện hiện tượng mượn cớ tăng cường chức năng tuyên truyền chính trị mà phủ định đặc trưng nhân học của văn học, coi con người chỉ là cái loa tuyên truyền chính trị. Ba là, có người nói “CNHTXHCN” là “chủ nghĩa hiện thực khẳng định” để phân biệt với chủ nghĩa hiện thực phê phán của giai cấp tư sản chuyên chú trọng phê phán, như vậy là trong sáng tác và phê bình của văn học hiện thực XHCN không thừa nhận nhiệm vụ bộc lộ và phê phán những hiện tượng xấu xa tội ác, từ đó dẫn đến “lý luận không xung đột”, “tô hồng cuộc sống”. Những nhà lý luận Trung Quốc nghi ngờ CNHTXHCN đều hoàn toàn đồng ý với ý kiến phản bác của Ximonov phát biểu ở trong Đại hội đại biểu các nhà văn Liên Xô lần thứ hai, đồng thời bổ sung mấy điểm bất hợp lý của định nghĩa về CNHTXHCN. Họ viết: từ khi định nghĩa này được xác định đến nay, chưa có ai giải thích được chính xác, thường hôm qua coi là giải thích xác đáng thì hôm nay đã bị người khác lật đổ. Qua khảo sát đặc trưng văn học hiện thực chủ nghĩa, họ cho rằng, “từ đặc điểm bên trong của văn học hiện thực chủ nghĩa để phân chia văn học của hai thời đại cũ và mới thành một đường ranh giới tuyệt đối khác nhau là rất khó khăn”. Do đấy, Tần Triệu Dương đề nghị “gọi chủ nghĩa hiện thực trước mắt là chủ nghĩa hiện thực của thời đại xã hội chủ nghĩa”. Ông còn nói: “Sở dĩ tôi nghiên cứu khuyết điểm của định nghĩa CNHTXHCN là vì định nghĩa này đã đẻ ra một số tư tưởng dung tục, ở Trung Quốc chúng ta còn kết hợp với một số tư tưởng dung tục khác tạo thành sự gò bó giáo điều trong sự nghiệp văn học. Tư tưởng dung tục này là sự giải thích lý giải dung tục hoá đối với “Bài nói chuyện” của Mao Trạch Đông và biểu hiện chủ yếu là ở việc lý giải quan hệ giữa văn nghệ và chính trị” (Tần Triệu Dương: Tập tìm đường văn học Nxb. Văn học nhân dân, 1984, P143-144). Như thế có thể thấy, các ông Tần Triệu Dương đã phủ định CNHTXHCN là một phương pháp sáng tác độc lập, và chỉ ra định 39
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2